Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật đó trong việc nghiên cứu chính sách kinh tế nhiều thành phần ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.33 KB, 17 trang )

MỤC
LỤ

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI 04: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật đó trong
việc nghiên cứu chính sách kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay

Họ tên người viết: ……..
Mã HV: …..
Lớp, Khóa: …

Hà Nội, tháng 12/2022


C
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................................2
CHƯƠNG 1. QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN SUẤT....................................2
1.1. Một số khái niệm cơ bản........................................................................................2
1.1.1. Khái niệm về phương thức sản xuất................................................................2
1.1.2. Khái niệm về lượng lượng sản xuất................................................................2
1.1.3. Khái niệm về quan hệ sản xuất........................................................................2
1.2. Quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất...........................................................................................................2
1.3. Ý nghĩa của quy luật..............................................................................................4


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUY LUẬT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU CHÍNH
SÁCH KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................5
2.1. Khái quát về chính sách nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam......................5
2.1.1. Sự cần thiết của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
hiện nay.....................................................................................................................5
2.1.2. Nội dung cơ bản của chính sách kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam.........6
2.2. Đánh giá quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam..............................................................................................................................7
2.2.1. Những kết quả đã đạt được.............................................................................7
2.2.2. Những khó khăn, bất cập cịn tồn tại...............................................................9
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM................................................................10
3.1. Tiếp tục vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào các chính sách phát triển kinh tế................................................................10
3.2. Hồn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho sự phát
triển của nền kinh tế....................................................................................................11
3.3. Đổi mới nền kinh tế, phát huy vai trò của từng thành phần kinh tế....................11
3.4. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế..........12
3.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về đạo đức và chuyên môn...................12
KẾT LUẬN...................................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................13


MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những cống hiến vĩ đại của C.Mác và là
bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử triết học của nhân loại. Lý thuyết này giúp
chúng ta xem xét một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội ở các giai
đoạn phát triển cụ thể, cũng như những vận động lịch sử chung của xã hội lồi người.
C.Mác khẳng định: “Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất,
và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta

mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của các hình thái kinh tế
- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”1. Có thể thấy rằng, quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi
phối mọi phương thức sản xuất, không loại trừ một quốc gia dân tộc nào. Ở Việt Nam,
thời gian trước đây, do phủ nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, áp dụng
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin một cách cứng nhắc, dập khn nên dẫn đến tình
trạng lực lượng sản xuất khơng thể phát triển, trì trệ kéo dài, đời sống người dân lâm
vào khó khăn, thiếu thốn. Để khắc phục tình trạng này, Đảng và Nhà nước đã đề ra
chính sách đổi mới, trong đó mục tiêu quan trọng hàng đầu là chuyển nền kinh tế từ tập
trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở vận dụng quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sau 35 năm, những
thành tựu về kinh tế đã chứng minh đường lối của chúng ta là hoàn toàn đúng đắn. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đó thì vẫn cịn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập trong cả
nhận thức và thực tiễn. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có nghiên cứu và tìm ra giải
pháp khắc phục.
Từ những lý do trên, em xin lựa chọn đề tài số 04: “Quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và ý nghĩa của việc
nghiên cứu quy luật đó trong việc nghiên cứu chính sách kinh tế nhiều thành phần
ở Việt Nam hiện nay” cho bài tiểu luận cuối kỳ của mình.

1

V.I.Lênin (1978), Tồn tập,Nxb Tiến bộ, Macxcova.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN SUẤT

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là
sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng: sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất do tác động qua lại một cách
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Như vậy, phương thức sản
xuất là sự thống nhất hữu cơ của hai mặt: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1.1.2. Khái niệm về lượng lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong q
trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể lực, tri thức,
kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là cơng cụ lao động. Trong
q tình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động, tạo thành lực lượng sản xuất.
1.1.3. Khái niệm về quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Ba mặt trên
có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm được tư liệu sản xuất trong tay người đó sẽ quyết định
việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm lao động.
1.2. Quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
Thứ nhất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một
phương thức sản xuất có tác động biện chứng.

2


Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện

quan hệ mang tính biện chứng. Quan hệ này biểu hiện ở quy luật cơ bản nhất của sự
vận động của đời sống xã hội - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết
định của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng nhất của
q trình sản xuất. Nó là nội dung của q trình sản xuất, cịn quan hệ sản xuất là yếu
tố tương đối ổn định. Nó là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ
này, lực lượng sản xuất (nội dung) quyết định quan hệ sản xuất (hình thức).
Trình độ của lực lượng sản xuất thay đổi đến một mức độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất hiện thời trở nên không phù hợp với sự phát triển của nó. Khi ấy,
quan hệ sản xuất trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất nảy sinh. Mâu thuẫn này được giải
quyết thông qua cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là phương thức để phá bỏ quan
hệ sản xuất cũ, lỗi thời đã trở thành “xiềng xích trói buộc” lực lượng sản xuất, xác lập
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất, qua đó thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, sự tác động trở lại của qua hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất sẽ tạo
điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất khơng phù với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt trước quá xa) sẽ
kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn thể hiện ở chỗ nó
quy định mục đích sản xuất; ảnh hưởng tới thái độ lao động của người lao động; kích
thích hoặc kìm hãm việc cải tiến công cụ lao động cũng như việc áp dụng thành tựu
khoa học vào sản xuất v.v.. hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp lên cao.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo
hai xu hướng:
Một là, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng thì sẽ thúc đẩy

lực lượng sản xuất phát triển.
3


Hai là, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
(hoặc là lạc hậu, hoặc là vượt trước quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất) thì
sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tiêu chí của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất được thể
hiện thông qua năng suất lao động; tính tích cực trường lao động được cải thiện, v.v..
Nếu năng suất lao động tăng, tính tích cực xã hội của người lao động cao, môi trường
làm việc tốt, đời sống của người lao động được cải thiện... thì đó là biểu hiện của sự
phù hợp. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất khơng phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá
hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn,
điều kiện nhất định.
1.3. Ý nghĩa của quy luật
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế
phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động
và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản
xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khơng phải là kết
quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu
kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy tiện, chủ quan, duy tâm,
duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận
dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi
mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt
Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng
tạo quy luật này đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

4


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUY LUẬT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU CHÍNH
SÁCH KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát về chính sách nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
2.1.1. Sự cần thiết của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam hiện nay
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta nhận thức và vận dụng không đúng quy luật,
chủ quan duy ý chí trong việc xác lập một quan hệ sản xuất khơng phù với trình độ của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất vượt trước xa so với trình độ lực lượng sản xuất
vừa thấp vừa không đồng đều giữa các ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền. Sở hữu nhà
nước chi phối; quan hệ tổ chức, quản lý thực hiện mệnh lệnh, hành chính; phân phối
bình qn, tem phiếu, “cào bằng”. Từ đó dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất, khủng hoảng
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu
pháp lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn
1977-1985 tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng
5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh
tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn
chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp
là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng chủ yếu
dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức tăng
khá hơn nơng nghiệp, nhưng tỷ trọng trong tồn nền kinh tế cịn thấp (chiếm 39,74%
GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng2.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung),

đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên
nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá
bán lẻ tăng 39,53%/năm.
Điều này đặt ra yêu cầu Đảng và Nhà nước cần đề ra chính sách mới, khắc phục
và phát triển nền kinh tế, đảm bảo cuộc sống cho người dân.
2

Tổng cục Thống kê (2022), Những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội trong hành trình 75 năm thành lập và
phát triển đất nước qua số liệu thống kê, truy cập từ < truy
cập ngày 2/12/2022

5


2.1.2. Nội dung cơ bản của chính sách kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
Từ khi đổi mới (1986) đến nay, chúng ta đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về
kinh tế. Thực chất chúng ta đã nhận thức và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất, nhằm giải phóng sức sản xuất xã
hội.
Trong chính sách, Đảng ta đã nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa
có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu.
Mặc dù, chưa đề cập đến cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng
đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con
đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và
vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; đồng thời đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời,
tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh tế nước ta3.
Quá trình vận dụng quy luật và xuất phát từ thực tiễn đất nước, tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính
sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu

dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được
tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở
bình đẳng trước pháp luật”4
Trên cơ sở vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam bao gồm:
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần, khai thác tiềm năng của mọi nguồn lực
nhất là nhân tố con người với sức sáng tạo, nguồn vốn... trong phát triển kinh tế. Thực
hiện dân chủ trong kinh tế; đổi mới kinh tế nhà nước; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước để huy động các nguồn lực vốn, con người đẩy mạnh phát triển; phát triển kinh tế
3

Phạm Bá Thịnh – Nguyễn Thị Duyên (2016), Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
đọ phát triển của lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, truy cập từ <
truy cập ngày 2/12/2022
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết số 06-NQ/HNTW của Hội nghị Trung ương 6 khoá VI ngày 29
tháng 03 năm 1989 về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba
năm tới

6


tư nhân; đổi mới kinh tế hợp tác, huy động các nguồn lực xã hội; thực hiện các chính
sách giải quyết lợi ích kinh tế cho người lao động, nâng cao vị thế của người lao động
trong quá trình sản xuất, tạo điều kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư liệu
sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế; thực hiện các chính sách huy động
người dân bỏ vốn để sản xuất kinh doanh, phát huy trình độ tay nghề, năng lực quản lý
của mỗi thành viên trong xã hội.

- Thay đổi căn bản về quan hệ sở hữu. Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu. Thừa
nhận các hình thức khác nhau của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta.
- Đổi mới căn bản về quan hệ quản lý. Đoạn tuyệt với cơ chế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, hiện nay là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Điều chỉnh căn bản về quan hệ phân phối. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
XII đã nêu lên những nguyên tắc căn bản để thực hiện chế độ phân phối cho đến nay
là: Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả, hiệu quả lao động
sản xuất, kinh doanh, theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác nhau vào kết quả
sản xuất kinh doanh, phân phối theo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là cơ bản.
2.2. Đánh giá quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Việt Nam
2.2.1. Những kết quả đã đạt được
Thành tựu của hơn 35 năm đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn về kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội có ý nghĩa lịch sử, đã chứng tỏ đường lối đổi mới là đúng
đắn, trong đó việc phát triển kinh tế nhiều thành ở nước ta từ khi đổi mới đất nước đến
nay là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Từ chỗ chỉ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát
triển hai hình thức sở hữu là toàn dân (Nhà nước) và tập thể, hai thành phần kinh tế là
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, đến nay, đã thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đối với toàn nền kinh tế. Kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình
quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp
đơi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn
2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng
nề của
7


dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước

tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả
về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người
mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.5
Đối với thành phần kinh tế nhà nước trong đó có doanh nghiệp Nhà nước, sau
35 năm phát triển nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Hệ thống
doanh nghiệp Nhà nước qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi từng bước được củng cố và
đóng góp vào thành tựu của q trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước đứng
vững trên thị trường, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nắm các ngành kinh tế then
chốt, đóng góp lớn cho ngân sách.
Hiện doanh nghiệp Nhà nước số lượng không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số
doanh nghiệp cả nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh
nghiệp trên thị trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và vai
trò điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, quốc
phòng – an ninh…Những cái tên như: Viettel, EVN, PVN; Tập đoàn Dệt may Việt
Nam…đang phát triển lớn mạnh không chỉ ở Việt Nam mà đã vươn ra thế giới6.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế tư nhân đã
phát triển rộng khắp trong cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy
động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an sinh
xã hội của đất nước.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng
khá, chiếm tỉ trọng 39-40% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh
tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản

Mai Trung Dũng (2021), Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới, Báo điện tử Phú Tho, link truy cập <
truy cập ngày 13/01/2021
5


6

Quốc Huy (201), Kinh tế nhiều thành phần: Phát huy sức mạnh toàn bộ lực lượng, truy cập từ
truy cập
ngày

8


xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách,
tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội,…7
Bên cạnh những thành tựu “rất quan trọng” về kinh tế, vị thế của kinh tế tư nhân
ngày càng được nâng cao trong đời sống chính trị, xã hội. Hiện nay, các văn bản pháp
luật liên quan đến kinh tế đều được Quốc hội, Chính phủ u cầu phải có ý kiến cộng
đồng doanh nghiệp tư nhân thơng qua Phịng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam
(VCCI) trước khi ban hành.
2.2.2. Những khó khăn, bất cập cịn tồn tại
Thứ nhất, sự thiếu bình đẳng trong việc phát triển các thành phần kinh tế. Theo
số liệu thống kê hiện nay nước ta có nhiều doanh nghiệp, đóng góp trên 40% GDP cả
nước. Tuy nhiên khoảng hơn 90% các doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, phát triển
không bừng những doanh nghiệp tư nhận lớn hay các doanh nghiệp Nhà nước. Số
lượng rất đơng nhưng năng lực vẫn cịn thiếu về nhiều mặt. Một trong những lý do là
việc tiếp cận nguồn lực gặp nhiều khó khăn. Ví dụ như tài chính, tín dụng, đất đai, các
nguồn lực khác hoặc đầu tư mua sắm cơng, doanh nghiệp tư nhân rất khó tiếp cận
mảng kinh tế cơng đó. Ngay cả thơng tin hay nguồn nhân lực chất lượng, khu vực tư
nhân vẫn khó khăn hơn so với khu vực nhà nước hoặc đầu tư nước ngoài.
Theo đánh giá của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “Cho đến thời gian gần
đây, doanh nghiệp nhà nước vẫn nhận được nhiều sự ưu ái, hỗ trợ của nhà nước.” hay
quan điểm của PGS.TS Trần Đình Thiên: “Những bước cải cách của Việt Nam đang
diễn ra khó khăn, đặc biệt là thủ tục trói buộc doanh nghiệp hiện nay, hiệu quả làm việc

của bộ máy nhà nước, cơ chế phân bổ nguồn lực còn nhiều vấn đề” 8. Điều này cho thấy
những khó khăn vẫn cịn tồn tại trong q trình Việt Nam thực hiện các chính sách xây
dựng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Thứ hai, các quy định phát luật chưa phát huy hết được vai trò của từng thành
phần kinh tế. Hệ thống pháp luật hiện nay chưa thực sự hoàn thiện và tạo điều kiện cho

7

Nguyễn Văn Tạo – Nguyễn Thị Ly (2021), Kinh tế tư nhân – động lực quan tọng của nền kinh tế, Ban Tuyên
giáo, truy cập từ < trong-cua-nen-kinh-te-133368#:~:text=Kinh%20t%E1%BA%BF%20t%C6%B0%20nh%C3%A2n%20li
%C3%AAn,thu
%20ng%C3%A2n%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%2C>, truy cập ngày 2/12/2022
8
Báo Hải Dương (2019), Tạo sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, truy cập từ <
ngày

9


truy cập

ngày

1


các thành phần kinh tế phát triển. Theo đó, một số quy định cho thấy đã khơng cịn phù
hợp hay thể hiện sự can thiệp quá sâu của Nhà nước đối với thị trường.
Thứ ba, tăng trưởng công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh phát
triển nền kinh tế đất nước. Vấn đề tái có cấu các ngành diễn ra cịn chậm,. Trình độ

cơng nghệ nhìn chung thấp và chậm đổi mới. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp
trong nước vẫn sử dụng công nghệ tụt hậu, đi sau sự phát triển của thế giới từ 2-3 thế
hệ đặc biệt là cơ khí chế tạo. Nền kinh tế tri thức tuy được phát triển gắn với cuộc
CMCN 4.0 nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả cao. Trí tuệ nhân tạo chưa được áp dụng
rộng khắp trong việc phát triển kinh tế, sản xuất, lực lương lao động chậm đổi mới,
cách sống và cách làm việc còn chưa khoa học và hợp lý .
Thứ tư, tình trạng nhũng nhiễu, quan liêu, thối hóa của một số cán bộ. Mặc dù
Đảng và Nhà nước đặt ra rất nhiều chính sách, chủ trương hiệu quả nhằm phát triển
kinh tế nhưng trong quá trình thực hiện, một số cán bộ đã lạm dụng quyền của mình,
gây thất thối lớn đến ngân sách Nhà nước. Thực trạng “xin – cho” vẫn còn tiếp diễn
khiến cho việc thực hiện các chính sách chỉ mang tính chất hình thức mà khơng đem lại
hiệu quả trên thực tiễn. Ở một số nơi còn lúng túng trong việc triển khai thực hiện các
chính sách về kinh tế, công tác hỗ trợ các doanh nghiệp chưa được triển khai cụ thể ở
một số địa phương, cấp chính quyền chưa quan tâm đến vấn đề này.
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
3.1. Tiếp tục vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào các chính sách phát triển kinh tế
Có thể khẳng định cơng cuộc đổi mới là q trình chúng ta ngày càng nhận thức
và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn Việt Nam. Do vậy, Đảng và
Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu lý luận, có những nhận thức đúng về sự cần thiết của
các thành phần kinh tế. Phải thực sự giải phóng tư tưởng cho các chủ thể các thành
phần kinh tế, tạo "sân chơi" bình đẳng, lành mạnh cho các thành phần kinh tế. Khắc
phục tâm lý mặc cảm, kỳ thị, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mất độc lập chủ quyền,
đi theo hướng tư bản chủ nghĩa… Từ đó ngại ngùng, không dám cho các thành phần
kinh tế phát triển với mọi năng lực của nó.

1



3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho sự
phát triển của nền kinh tế
Hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản lý kinh tế vĩ mô
đối với các thành phần kinh tế bằng pháp luật; xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách,
thích hợp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng, tự chủ, tự do phát triển
lâu dài. Đổi mới nội dung, phương thức quản lý của Nhà nước sao cho đúng, hiệu quả,
thực sự "chặt" mà khơng gị ép, cứng nhắc; "thống" mà khơng bng. Trong quan hệ
kinh tế đối ngoại, chúng ta có cơ chế "thoáng" song vẫn giữ được độc lập tự chủ của
đất nước để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài giúp ta phát triển
nhanh, mạnh, vững chắc ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng tâm trọng điểm như
một số nước đã làm.
Thực hiện cơng khai, cơng bằng, dân chủ trong chính sách đầu tư, quản lý, thuế,
tài chính v.v.. đối với các thành phần kinh tế. Xóa cơ chế "xin – cho"; ngăn chặn hữu
hiệu xu hướng quay lại bao cấp trong một số ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế. Khắc
phục mọi biểu hiện đặc quyền đặc lợi, ban phát, chạy chọt, tham nhũng, hối lộ v.v..
trong các khâu của quá trình vận hành nền kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường.
3.3. Đổi mới nền kinh tế, phát huy vai trò của từng thành phần kinh tế
Đảng và Nhà nước cần tiếp tục thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hoá dịch vụ chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp
thu những thành tựu về khoa học và công nghệ, về kinh tế tri thức.
Trong xu thế hội nhập mạnh mẽ, Nhà nước cần tập trung cải cách thể chế kinh
tế một cách đồng bộ, gồm: Các thể chế kinh tế tương thích và tuân thủ các cam kết hội
nhập quốc tế (điều chỉnh, hoàn thiện pháp luật kinh tế phù hợp với các cam kết hội
nhập); các thể chế phòng vệ nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng, giảm thiểu các tác động
không thuận lợi khi thực hiện các cam kết hội nhập (chống độc quyền, bảo vệ cạnh
tranh lành mạnh, tiêu chuẩn công nghệ - môi trường, hỗ trợ các đối tượng dễ tổn
thương…); các thể chế hỗ trợ để tranh thủ cơ hội, lợi ích của hội nhập quốc tế (khuyến

khích cạnh tranh, sáng tạo, đổi mới cơng nghệ…).

1


3.4. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế
Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại vào quá trình sản
xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng thông tin và tăng khả năng lãnh
đạo của Đảng và định hướng của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế để bảo đảm
sản xuất, kinh doanh đúng hướng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế tiếp cận với thị
trường khu vực và quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới,
tăng sức cạnh tranh, tiếp thu được những tiến bộ khoa học – công nghệ và kinh nghiệm
quản lý tiến bộ của thế giới.
3.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về đạo đức và chuyên môn
Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến cơng
tác xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới;
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị – xã hội và cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân
dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành cơng của cơng cuộc
đổi mới. Vì thế, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Ðảng; xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then
chốt.
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích, tìm hiểu về quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tình độ phát triển của lực lượng sản xuất, em hiểu được những giá trị sâu sắc về quan
điểm này và hoàn tồn tin tưởng vào các chính sách của Đảng nói chung và chính sách
kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Từ nhận thức một cách đúng đắn, triệt để và nhất

quán về con đường phát triển ở Việt Nam, chứng minh qua những thành tựu mà chúng
ta đã đạt được sau 35 năm đổi mới, mối chúng ta cần có cái nhìn tồn diện hơn về
những thuận lợi, khó khăn, những thời cơ, vận hội, nguy cơ và thách thức đan xen nhau
để từ đó với quyết tâm chính trị cao phải phấn đấu vượt qua, tránh được căn bênh chủ
quan, nóng vội, duy ý chí; trong nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách quan tôn
trọng và hành động theo quy luật. Việc phát triển đất nước chắc chắn gian nan và

1


không thể thành công trong một thời gian ngắn nhưng toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta quyết tâm đồng thuận theo phương hướng đã được đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

5.

6.

7.

8.

Bộ giáo dục và đào tạo (2015) Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật Hà Nội.
Bộ giáo dục và đào tạo (2010), Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản
Chính trị hành chính, Hà Nội.

V.I.Lênin (1978), Tồn tập,Nxb Tiến bộ, Macxcova.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết số 06-NQ/HNTW của Hội nghị
Trung ương 6 khoá VI ngày 29 tháng 03 năm 1989 về kiểm điểm hai năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới
Phạm Bá Thịnh – Nguyễn Thị Duyên (2016), Vận dụng quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình đọ phát triển của lực lượng sản xuất trong công
cuộc
đổi
mới

nước
ta
hiện
nay,
truy
cập
từ
<
/>bai-viet-chuyen-de/van-dung-quy-luat-ve-su-phu-hop-cua-quan-he-san-xuat-voitrinh-do-phat-trien-cua-luc-luong-san-xuat-trong-cong-cuoc-doi-moi-o-nuoc-tahien-nay.html>, truy cập ngày 2/12/2022
Mai Trung Dũng (2021), Một số thành tựu nổi bật sau 35 năm đổi mới, Báo điện
tử Phú Tho, link truy cập < truy cập ngày 13/01/2021
Quốc Huy (201), Kinh tế nhiều thành phần: Phát huy sức mạnh toàn bộ lực
lượng, truy cập từ truy cập ngày 2/12/2022
Nguyễn Văn Tạo – Nguyễn Thị Ly (2021), Kinh tế tư nhân – động lực quan tọng
của nền kinh tế, Ban Tuyên giáo, truy cập từ < />%C3%A2n%20li%C3%AAn,thu%20ng%C3%A2n%20s%C3%A1ch%20nh
%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%2C>, truy cập ngày 2/12/2022

1



9.

Tổng cục Thống kê (2022), Những dấu ấn quan trọng về kinh tế - xã hội trong
hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê, truy cập
từ < truy cập ngày 2/12/2022
10. Báo Hải Dương (2019), Tạo sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, truy
cập từ < truy cập ngày 2/12/2022

1



×