Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tìm Hiểu Tư Tưởng Cơ Bản Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Có Liên Quan Đến Trào Lưu Chủ Nghĩa Xã Hội Phi Mác Xít - Tiêu Luận Cao Học.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.61 KB, 37 trang )

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng nhất
về giải phóng xã hội và giải phóng con người. Trong quá trình hình thành và
phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn phải đấu tranh chống các trào
lưu tư tưởng đối lập, trào lưu tư tưởng XHCN phi Mác xít. Cách mạng Việt
Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hoạt động cũng đã không ngừng phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin chống lại các tư tưởng phản Mác xít.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam đã đóng
góp hết sức to lớn vào cuộc đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai
trái, phi Mác xít trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu, kế thừa, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về cuộc chiến
đấu chống lại các quan điểm, tư tưởng xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin là việc
làm bổ ích, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế giới và trong
nước đang có những biến động sâu sắc thì việc nghiên cứu, kế thừa đó lại
càng có ý nghĩa quan trọng và mang tính thời sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một ngơi sao sáng chói trên bầu trời cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cho nên đã có khơng ít các nhà khoa
học trong và ngồi nước, các cơng trình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp,
về tư tưởng của Hồ Chí Minh. Các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng của
Hồ Chí Minh thường tập trung tìm hiểu tư tưởng của Người về đường lối
cách mạng, về CNXH, về xây dựng Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc, về văn hóa, đạo đức cách mạng... Cho đến nay chưa có một cơng trình


nào nghiên cứu riêng về tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với các trào lưu
CNXH phi Mác xít, đối với các quan điểm, tư tưởng sai trái, phi Mác xít
trong cách mạng Việt Nam.


Đối với sinh viên chuyên ngành CNXH khoa học, vấn đề tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về các quan điểm, tư tưởng phi Mác xít trong cách
mạng Việt Nam là vấn đề thiết thực và bổ ích nhằm trước hết nâng cao nhận
thức trong quá trình học tập các mơn học thuộc chun ngành CNXH. Mặt
khác làm rõ hơn các tư tưởng về đấu tranh chống các quan điểm sai trái, tư
tưởng phi Mác xít trong cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh.
3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu đề tài
Do hạn chế về khả năng nghiên cứu và tài liệu tham khảo nên trong
tiểu luận này giới hạn của việc nghiên cứu là chỉ "Tìm hiểu tư tưởng cơ bản
của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu chủ nghĩa xã hội phi
Mác xít".
Trong tiểu luận này, ngồi phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, tiểu luận còn sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để nghiên
cứu đề tài.
4. Bố cục của tiểu luận
- Mở đầu
- Nội dung
1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Hồ Chí Minh đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng phi Mác xít
trong cách mạng Việt Nam.
2.1. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa Tờ-rơt-xkít.

1


2.2. Hồ Chí Minh phê phán khuynh hướng "giáo điều", "khuynh hữu",
"khuynh tả" trong Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ vai trị của giai cấp
công nhân trong cách mạng Việt Nam.
2.4. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ sự lãnh đạo đúng đắn

của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, văn nghệ gián tiếp phủ nhận
bọn "nhân văn - giai phẩm".
2.6. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
3. ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có liên
quan đến trào lưu CNXH phi Mác xít.
3.1. ý nghĩa lý luận
3.2. ý nghĩa thực tiễn
- Kết luận.

2


Nội dung

1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Tất Thành sinh năm 1890
trong một gia đình nhà Nho có truyền thống u nước tại Nam Đàn, Nghệ An.
Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị đặt dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp, nhân dân lao động sống trong cảnh lầm than, cực khổ của những
người nô lệ mất nước, chịu ảnh hưởng từ truyền thống gia đình, tinh thần
yêu nước của dân tộc nên ngay từ thuở thanh niên, Nguyễn Tất Thành đã
nung nấu một ý chí, quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi cảnh nô lệ, đem lại
cho những người lao động cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân tộc được độc
lập, tự do.
Trước sự thất bại của các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc,
tháng 7 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành lên tàu đi bôn
ba thế giới để tìm cho ra con đường đúng đắn nhất nhằm giải phóng dân tộc
mình.
Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước trên thế giới từ các nước thuộc địa

đến các nước tư bản chủ nghĩa, từ châu á đến châu Phi, châu Mỹ và châu
Âu, ở đâu người cũng nhận thấy một điều là xã hội luôn chia làm hai hạng
người. Một bên là những người lao động nghèo khổ, bị bóc lột và một bên là
những kẻ giàu có, bọn bóc lột, ngay cả ở những nước tư bản chủ nghĩa được
coi là tiến bộ nhất, văn minh nhất thì cũng như vậy, do đó Người càng quyết
tâm tìm cho ra con đường thực sự để giải phóng dân tộc mình.
Năm 1920, Người bắt gặp bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin, trong bản sơ thảo đó,
Người đã tìm thấy con đường cách mạng để giải phóng dân tộc mình và từ đó
3


người hướng các tìm hiểu, học tập chủ nghĩa Lênin, tích cực hoạt động trong
phong trào cơng nhân Pháp và phong trào cơng nhân quốc tế.
Lịng u nước nồng nàn, tinh thần nhân đạo cao cả cùng với ý chí và
nghị lực phi thường đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với phong trào cộng sản quốc tế, dần dần Hồ Chí Minh đã chuyển hẳn
từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản.
Từ 1925, Hồ Chí Minh đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam và lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, đến năm 1930,
Người đã chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Suốt từ năm 1930, Hồ Chí Minh khi ở trong nước, khi ở nước ngồi
đã ln luôn lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Năm 1945, dưới sự lãnh đạo
của Hồ Chí Minh, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, năm 1954, thực
dân Pháp đã phải rút khỏi Việt Nam sau khi thất bại trước cuộc "kháng
chiến kiến quốc" của nhân dân Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc đang cịn dang dở thì Hồ Chí Minh mãi
mãi ra đi khi người được 79 mùa xuân, năm 1969. Hồ Chí Minh ra đi là nỗi
đau thương, mất mát vơ cùng to lớn của cả dân tộc Việt Nam và của nhân
loại tiến bộ, u chuộng hịa bình trên thế giới.

Nén đau thương, nén mất mát lại, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã phấn đấu để hồn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, giải phóng miền Nam, nước nhà hồn tồn thống nhất, độc lập năm
1975 và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu, Người cha già của dân tộc đã để lại
cho nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân lao động trên thế giới nói
chung một sự nghiệp to lớn, một kho tàng tri thức cách mạng phong phú,
một tấm lòng nhân đạo cao cả.

4


Là một "Anh hùng giải phóng dân tộc", một "danh nhân văn hóa thế
giới", di sản Hồ Chí Minh để lại rất to lớn. Trong suốt cuộc đời cách mạng
của mình, Hồ Chí Minh đã sáng tác nhiều bài viết, lời nói, nhiều tác phẩm
văn thơ chứa đựng tinh thần yêu nước, tư tưởng cách mạng của Người.
Từ cuộc đời hoạt động, từ các tác phẩm sáng tác của Người, Đảng và
nhân dân Việt Nam đã được kế thừa toàn bộ những tư tưởng cách mạng của
Hồ Chí Minh, đó là cái vốn quý giá để Đảng và nhân dân Việt Nam tiếp tục
thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
"Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận
dụng và sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người" [7, 8].
Trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh, có nhiều vấn đề chủ yếu
như: tư tưởng về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; tư tưởng về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; tư tưởng về Đảng Cộng
sản, về đoàn kết dân tộc, về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, về

đạo đức, về văn hóa... Trong đó khơng ít lần Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê
phán các quan điểm, tư tưởng sai trái trong cách mạng Việt Nam, các quan
điểm cách mạng có tính chất phi Mác xít.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã soi sáng con đường cách mạng, đã đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chính vì vậy
việc học tập, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh về
cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, về các quan điểm sai trái, phi Mác
xít trong cách mạng nói riêng là điều tất yếu để đi đến thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5


2. Hồ Chí Minh đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng phi
Mác xít trong cách mạng Việt Nam
2.1. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít
Chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít là một trào lưu tư tưởng chính trị tiểu tư sản cơ
hội chủ nghĩa thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin, che đậy bản chất cơ hội
chủ nghĩa bằng những lời lẽ cấp tiến tả khuynh.
Trào lưu tư tưởng này xuất hiện đầu thế kỷ XX như một biến dạng
của chủ nghĩa Men sê vích trong Đảng cơng nhân dân chủ - xã hội Nga mà
lãnh tụ là nhà tư tưởng Tờ-rốt-xkít. Chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít hình thành như
một phản ứng đối với giai đoạn phát triển Lê-nin-nít của chủ nghĩa Mác, đối
với sự ra đời của một đảng cách mạng chân chính, kiểu mới ở Nga và nó
phản ánh tâm trạng của một bộ phận trí thức tiểu tư sản thành thị ham thích
cách mạng đầu lưỡi nhưng lại đứng ngoài những trận chiến đấu giai cấp và
tiến hành tuyên truyền các quan điểm đầu hàng chủ nghĩa trên tất cả mọi vấn
đề cơ bản đấu tranh cách mạng.
Về mặt phương pháp luận và nhận thức luận thì chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít
có đặc trưng là chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa duy ý chí, chủ nghĩa cơng
thức thơ bạo và lối ngụy biện.

Trong nửa đầu thế kỷ XX, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Tờrốt-xkít bao gồm: khơng tin vào năng lực của GCCN có thể tập hợp xung
quanh mình các bạn đồng minh; phủ nhận vai trị của giai cấp nơng dân; xu
hướng phiêu lưu cách mạng, muốn thúc cách mạng, bỏ qua giai đoạn chưa
hoàn thành của cách mạng; phủ nhận các phong trào dân chủ chung; chủ
trương phát triển những cuộc chiến tranh cách mạng; phủ nhận khả năng xây
dựng thành công CNXH ở một nước; chủ nghĩa bài xô trắng trợn...

6


Chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít đã tác hại khơng ít tới cách mạng Việt Nam,
nhất là trong những năm 1936-1939. Cao trào cách mạng Việt Nam 19361939 là cao trào đấu tranh địi dân sinh, dân chủ, kết hợp đấu tranh cơng
khai và bí mật, thành lập mặt trận dân chủ Đơng Dương. Lợi dụng các sai
lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ này như "lãnh đạo không thật sát,
cho nên nhiều nơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp hòi, bệnh cơng khai, say sưa
vì thắng lợi bộ phận, mà xao lãng việc củng cố tổ chức bí mật của Đảng"
[25, 156], bọn Tờ-rốt-xkít ở Đơng Dương ra sức phá hoại đường lối, chủ
trương của Đảng ta lúc đó.
Chúng lơi kéo, mua chuộc, lợi dụng cán bộ của Đảng, hợp tác với chúng
đề ra tờ báo công khai của chúng, tờ báo "La Lut te", một tờ báo phản động.
Chúng tham gia tranh cử nghị trường, chống lại việc đưa cán bộ vào
hoạt động nghị trường của Đảng. Do sự phá hoại của chúng mà trong cuộc
tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam Kỳ tháng 4 năm 1939, "Mặt trận trân
dân chủ khơng thắng lợi, trái lại bọn Tờ-rốt-xkít đã thắng ở quận nhì Sài
Gịn [25, 157].
Ngay từ năm 1936, bọn Tờ-rốt-xkít ở Đơng Dương đã ráo riết hoạt
động chống chủ trương, chính sách của Đảng. Khi Đảng ta nêu khẩu hiệu:
"ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp" thì chúng nêu khẩu hiệu "đả đảo mặt trận
nhân dân" [25, 150]; khi Đảng vận động thành lập mặt trận dân chủ thì
chúng "kêu gào chỉ lập mặt trận cơng - nơng" [25, 150]. Khi Đảng chủ

trương tổ chức công nhân vào các hội hữu ái để tiến tới thành lập nghiệp
đoàn, thì chúng "ra sức bài bác hội hữu ái..." [2,150].
Thực chất của bọn Tờ-rốt-xkít là cơ hội chủ nghĩa, chống đối với chủ
nghĩa Mác - Lênin, phá hoại cách mạng song trong hàng ngũ của Đảng ta,
có một số cán bộ, đảng viên mất cảnh giác, thỏa hiệp và hợp tác với bọn Tờrốt-xkít.
7


Đối với bọn Tờ-rốt-xkít, Trung ương Đảng lúc đó cũng đã kiên quyết
phê phán chúng, khẳng định lập trường, thái độ của Đảng đối với chúng.
"Trung ương Đảng đã phê phán tư tưởng thỏa hiệp và hợp tác với bọn Tờrốt-xkít trong việc xuất bản báo La Lutte và coi đó là một điều lầm lỗi rất
lớn [25, 150].
Khơng chỉ như vậy mà Trung ương Đảng còn nhấn mạnh: "Trong
cuộc vận động dân chúng, chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít là nguy hiểm nhất, khơng
triệt để chống chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít thì khó thi hành được chiến thuật lập
Mặt trận nhân dân thống nhất Đơng Dương" [25, 150]. Cần phải đấu tranh
chống bọn Tờ-rốt-xkít ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào: "vô luận chỗ nào, nó thị
đầu ra là đập ngay" [25, 150].
Quan điểm trên của Trung ương Đảng lúc đó cũng đồng thời là tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với bọn Tờ-rốt-xkít.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc đó mang tên Nguyễn ái Quốc đang được
"giam lỏng" ở Liên Xô. Năm 1938, Nguyễn ái Quốc được sự giúp đỡ của
một số bạn bè trong Quốc tế cộng sản đã trở về Trung Quốc, từ đây Người
lại tiếp tục chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tuy không trực tiếp vạch
ra những quan điểm sai tría của bọn Tờ-rốt-xkít ở trong nước nhưng trong
những ý kiến lãnh đạo đối với Đảng ta, Nguyễn ái Quốc khẳng định rõ rằng
đối với bọn Tờ-rốt-xkít thì "khơng thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào.
Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít,
phải tiêu diệt chúng về mặt chính trị" [25, 152].
Bản chất của bọn Tờ-rốt-xkít là cơ hội chủ nghĩa, chống đối chủ nghĩa

Mác - Lênin, các quan điểm và hành động của chúng trong thực tiễn đều
nhằm phá hoại cách mạng. Chính vì vậy Nguyễn ái Quốc khẳng định khơng
thể nhượng bộ cũng như không thể thỏa hiệp với chúng. Mặt khác cũng như
mọi trào lưu chủ nghĩa xã hội phi Mác xít khác, chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít cũng
8


núp dưới bóng của chủ nghĩa Mác - Lênin, khốc cái áo cách mạng để hoạt
động, tuyên truyền trong phong trào cách mạng. Cho nên quần chúng cũng
như một số cán bộ đảng viên có thể bị chúng qua mặt, do đó trách nhiệm của
Đảng là phải bằng "mọi cách để lột mặt nạ chúng". Cao hơn nữa, theo
Nguyễn ái Quốc là phải "tiêu diệt chúng về mặt chính trị".
Hơn hai mươi năm sau, sau phong trào dân chủ 1936-1939, trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951,
Hồ Chí Minh cũng đã nhấn mạnh một trong những khuyết điểm của Đảng
trong cao trào dân chủ 1936-1939 là trong Đảng, có "một số đồng chí hợp
tác vơ ngun tắc với bọn Tờ-rốt-xkít" [9, 156]. Khiến cho phong trào cách
mạng lúc đó gặp thêm khó khăn.
Tóm lại, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đấu tranh chống bọn Tờrốt-xkít, vạch mặt chúng, tiêu diệt chúng là một việc làm cần thiết. Trong
phong trào cách mạng, nếu để cho những bọn cơ hội, bọn phản cách mạng
như bọn Tờ-rốt-xkít hoạt động, phá hoại thì phong trào sẽ đi xuống cho nên
phải đấu tranh với chúng, lột mặt nạ của chúng và tiêu diệt chúng.
2.2. Hồ Chí Minh phê phán khuynh hướng "tả", "hữu", "giáo
điều" trong Đảng
2.2.1. Phê phán khuynh hướng giáo điều
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết
cách mạng nhất, khoa học nhất, nó mở ra và soi sáng con đường đấu tranh
của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa LêniN" [11, 268].

Học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
Việt Nam là một trong những điều quan trọng hàng đầu. Theo Hồ Chí Minh,

9


"thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì hành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông". Vậy mà
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam lại có những khuynh hướng hết sức sai
lầm trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người chỉ ra hai khuynh hướng sai lầm là:
"Có một số đồng chí khơng chịu nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của
cách mạng Việt Nam. Họ không hiểu rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin là kim
chỉ nam cho hành động, chứ khơng phải là kinh thánh. Vì vậy họ chỉ học
thuộc ít câu của Mác - Lênin, để loè người ta.
Lại có một số đồng chí khác chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ
tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng.
Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc cách
mạng" [16, 247].
Trong hai khuynh hướng sai lầm ấy của các đồng chí cách mạng, Hồ
Chí Minh cho rằng khuynh hướng giáo điều là nguy hại hơn cả. "Hai
khuynh hướng ấy đều sai lầm. Sai lầm nhất là khuynh hướng giáo điều, vì
nó mượn những lời của Mác, Lênin, dễ làm cho người ta lầm lẫn" [16, 247].
Đối với Hồ Chí Minh, để sửa chữa những khuynh hướng sai lầm ấy,
phương pháp tốt nhất là không ngừng học tập chủ nghĩa Mác - Lênin gắn
liền với hoạt động thực tiễn của cách mạng.
Học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học một câu
chữ, giáo điều máy móc, học tập như vậy sẽ lại dẫn đến sai lầm mà theo Hồ
Chí Minh, độc lập lý luận không phải để biến "thành những người lý luận

suông" [1, 138] mà học tập lý luận là để nhằm cho công tác thực tiễn được
tốt hơn. Nghĩa là phải "học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập

10


lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp
dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những
vấn đề thực tế trong công tác cách mạng" [1, 138].
Nắm vững lý luận rồi lại phải vận dụng lý luận đó vào thực tiễn, đó là
cách tốt để khắc phục khuynh hướng giáo điều. Bản thân lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin là lý luận cách mạng song "lý luận cách mạng khơng phải là giáo
điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là
một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ
sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn sinh động" [1, 137].
Do vậy mà Hồ Chí Minh viết:
"Khi học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ khơng
phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau
này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn
đều phải tẩy trừ cho sạch.
Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm
của các nước anh em áp dụng một cách máy móc. Nhưng chúng ta phải học
chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết vấn đề cụ thể của cách
mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta" [1, 138]. "Khi
vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới
rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta" [1, 138].
Vì khơng chịu hoạt động thực tiễn, lại chỉ học lý luận một cách máy
móc mà sinh ra giáo điều, như thế rất nguy hại đối với cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận và thực tiễn gắn bó rất chặt chẽ
với nhau, lý luận và thực tiễn là một thể thống nhất. Người viết: "Thực hành

sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành" [16,
247].

11


"Thực hành, hiểu biết, lại thực hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vịng như
thế mãi, khơng bao giờ ngừng. Và nội dung của thực hành và hiểu biết lần
sau cao hơn lần trước" [16, 257].
Đó chính là "nội dung vấn đề hiểu biết trong duy vật biện chứng" [16,
257] là vấn đề có thể khắc phục được khuynh hướng giáo điều trong cách
mạng Việt Nam.
2.2.2. Phê phán khuynh hướng "khuynh hữu", "khuynh tả"
Cách mạng là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, cách mạng lại không
ngừng vận động và phát triển, vì vậy người cách mạng phải có vốn lý luận
phong phú, có hiểu biết thực tiễn cách mạng sâu sắc, có như vậy mới đảm
bảo đưa cách mạng đến thắng lợi. Tuy vậy không phải ai cũng tiến kịp với
tiến trình cách mạng mà vì thế dẫn tới "khuynh tả" và "khuynh hữu" trong
cách mạng. Hồ Chí Minh nhận định về vấn đề này, như sau:
"Trong thời kỳ cách mạng, tình hình biến đổi rất mau. Nếu sự hiểu
biết khơng theo kịp thì khó mà đưa cách mạng đến thắng lợi.
Thường có khi tư tưởng khơng theo kịp thực tế. Đó là vì sự hiểu biết
của người bị điều kiện xã hội hạn chế" [16, 255].
Từ sự khơng theo kịp tình hình thực tế đó mà dẫn đến sai lầm và Hồ
Chí Minh kiên quyết phản đối cả khuynh hướng "tả" và khuynh hướng
"hữu" trong cách mạng.
"Phải phản đối những người khuynh hữu. Tư tưởng của hệ thống theo
kịp sự biến đổi của tình hình khách quan. Tình hình đã tiến lên mà sự hiểu
biết của họ cứ ở chỗ chủ, vì tư tưởng của họ xa rời thực hành" [16, 255].
Chính họ sẽ là người làm phương hại đến sự nghiệp của cách mạng. Hồ Chí

Minh ví "Họ cũng như những người khơng đi trước xe để hướng dẫn, lại
chạy sau xe và tránh xe chạy mau quá. Họ muốn gò xe lại, làm cho xe thụt
lùi" [16, 255].

12


Cịn đối với người tả khuynh, Hồ Chí Minh viết: "Lại cần phản đối
những người khuynh tả. Họ chỉ biết nói cho sướng miệng. Tư tưởng của họ
nhảy qua những giai đoạn phát triển nhất định. Họ cho ảo tưởng là sự thật.
Họ xa rời thực hành của đại đa số nhân dân. Họ không thiết thực. Họ hành
động một cách liều mạng" [16, 255].
Những người "khuynh hữu" làm lùi lại bánh xe cách mạng, cịn
những người "khuynh tả" thì không thực tế, rơi vào "ảo tưởng" và hành
động liều mạng. Cả hai hạng người này, hai khuynh hướng này đều cần phải
chống. Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta chống sai lầm tả khuynh và hữu
khuynh, vì nó trái với điều kiện lịch sử" [16, 256] và như thế sẽ làm tổn hại
đến tiến trình cách mạng.
Như vậy là trong quá trình cách mạng Việt Nam, khuynh hướng "giáo
điều", "khuynh tả', "khuynh hữu" đều đa xnảy sinh và chúng có ảnh hưởng
tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nếu không đấu tranh chống
các khuynh hướng này sẽ rất nguy hiểm vì chúng có thể dẫn tới sự xa rời
chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời hệ tư tưởng của GCCN một cách nhanh chóng
hơn. Trong tác phẩm "Làm gì", Lênin viết: trong xã hội có giai cấp, khơng
có hệ tư tưởng phi giai cấp, hệ tư tưởng trung gian. Mọi sự xa rời hệ tư
tưởng của GCCN đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng của giai cấp tư
sản. ý thức được ý nghĩa của việc đấu tranh chống các khuynh hướng sai
lầm trong Đảng, Hồ Chí Minh đã phê phán các khuynh hướng đó, chỉ ra
nguyên nhân dẫn đến khuynh hướng sai lầm. Hoặc là do không chịu học tập
lý luận, hoặc chỉ học tập lý luận một cách máy móc, khơng vận dụng vào

thực tiễn hoặc do tư tưởng khơng theo kịp thực tiễn. Nói gọn lại các khuynh
hướng sai lầm đó là do khơng gắn lý luận với thực tiễn, gắn "biết với làm"
làm một. Khắc phục chúng phải bằng cách không ngừng học tập lý luận
đồng thời phải vận dụng lý luận vào thực tiễn sinh động của cách mạng. Có

13


như vậy mới làm cho lý luận và thực tiễn trở thành một thể thống nhất và có
như vậy, cách mạng mới tiến lên.
2.3. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ vai trị của giai
cấp cơng nhân trong cách mạng Việt Nam
Đối với Hồ Chí Minh, phê phán, đấu tranh chống các quan điểm sai
trái, quan điểm phi Mác xít là cơng việc cần thiết và quan trọng trong tiến
trình cách mạng. Việc đấu tranh, phê phán đó không những đã loại bỏ được
những phần tử xấu, phần tử phản động khỏi phong trào cách mạng, góp
phần làm tăng thêm sức mạnh của cách mạng mà về mặt lý luận nó cịn bảo
vệ, khẳng định tính đúng đắn và phát triển thêm học thuyết cách mạng và
khoa học. Người viết: "Đấu tranh một cách khơng điều hịa chống bọn cải
lương và bọn xuyên tạc chủ nghĩa Mác đủ các loại, Lênin đã nâng chủ nghĩa
xã hội khoa học lên một giai đoạn mới. Người đã làm phong phú chủ nghĩa
Mác... Lênin đã xây dựng lý luận mới, hoàn chỉnh về cách mạng XHCN, đã
chứng minh CNXH có thể thắng lợi ở một nước riêng lẻ" [1, 53].
Từ lẽ đó, trong q trình cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng
luôn luôn chú ý tới những quan điểm, khuynh hướng sai trái, xa rời nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, do đặc thù ra đời và phát triển
của mình mà GCCN Việt Nam ra đời với số lượng ít và trình độ cịn non
yếu. Từ đó đã đưa tới quan điểm phủ nhận hay nghi ngờ về vai trò lãnh đạo
của GCCN Việt Nam đối với cách mạng.

Hồ Chí Minh viết: "GCCN Việt Nam số người cịn ít, khơng lãnh đạo
được cách mạng" [10, 212] và Người cũng trả lời ngay đối với sự nghi ngờ
đó: "Nói vậy khơng đúng. Lãnh đạo được hay là khơng, là do đặc tính cách
mạng, chứ khơng phải do số người nhiều ít của giai cấp" [10, 212].

14


Để làm rõ thêm luận điểm này, Hồ Chí Minh đã luận giải thêm về đặc
tính cách mạng, tổ chức cách mạng của GCCN Việt Nam và những đặc
điểm của các giai tầng khác trong xã hội khiến cho chỉ có GCCN chứ khơng
phải là một giai cấp nào khác có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Về đặc tính cách mạng của GCCN, Hồ Chí Minh viết: "Đặc tính cách
mạng của giai cấp cơng nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có
kỷ luật. Lại vì giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm để
chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, GCCN có thể thấm
nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng
thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác, vì
vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, GCCN đều giữ vai trị
lãnh đạo" [10, 212].
Đó là xét về đặc tính, cịn xét về hệ tư tưởng và tổ chức, "GCCN có
chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo
chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương,
đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản
vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những
phần tử trí thức tham gia cách mạng và vơ sản hóa. Thành thử đội ngũ chính
trị của GCCN ngày càng phát triển" [10, 212].
Phân tích về giai cấp nơng dân, Người nhận xét: "Vì hồn cảnh kinh
tế mà nơng dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu. Cho nên giai cấp
công nhân phải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ và lãnh đạo họ, thì họ là một

lực lượng rất to lớn vững chắc" [10, 213].
Còn giai cấp tiểu tư sản, theo Hồ Chí Minh, họ có những nhược điểm
như: "tự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên quyết... cho nên đối với họ, GCCN cần
phải tuyên truyền, tổ chức họ, giúp họ phát triển ưu điểm, sửa chữa nhược
điểm, cần phải khôn khéo lãnh đạo họ, làm cho họ quyết tâm phụng sự nhân
15


dân, cải tạo tư tưởng, cùng với công nông kết thành một khối, thì họ mới trở
nên tác dụng to lớn trong công cuộc kháng chiến, cách mạng" [10, 214].
Giai cấp tư sản dân tộc, "một mặt thì họ bị đế quốc và phong kiến
ngăn trở, cho nên họ cũng muốn chống đế quốc và phong kiến. Nhưng mặt
khác họ là giai cấp bóc lột, cho nên họ cũng sợ giai cấp bóc lột nổi lên đấu
tranh... Do đó mà tư sản dân tộc vừa muốn cách mạng vừa muốn thỏa hiệp.
Bởi vậy GCCN vừa phải đoàn kết với họ vừa phải đấu tranh với họ để bảo
vệ quyền lợi của cơng nhân" [10, 214-215].
Từ việc phân tích đặc điểm, vai trò, khả năng của các giai tầng xã hội
trong cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm tốt lên vai trị to lớn của GCCN Việt
Nam. Chỉ có GCCN mới là giai cấp cách mạng nhất, triệt để nhất, có tinh
thần kỷ luật nhất, có tổ chức nhất nên họ sẽ là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Hồ Chí Minh viết: "Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số
cơng nhân ngày càng tăng thêm.
Tuy hiện nay ở nước ta GCCN còn nhỏ, song ở thế giới thì GCCN rất
to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do GCCN nắm" [10, 212].
Hồ Chí Minh cũng khẳng định, khơng có sự lãnh đạo của GCCN thì
cách mạng không thể đi đến thắng lợi: "Để giành lấy thắng lợi, cách mạng
nhất định phải do GCCN lãnh đạo... Cách mạng ở Liên Xô và ở các nước
khác trong phe XHCN đã chứng thực điều đó, khơng ai chối cãi được" [17,
283].
Như vậy, bằng những luận điểm khoa học, bằng những chứng cứ thực

tiễn, Hồ Chí Minh đã hồn tồn bác bỏ quan điểm nghi ngờ về vai trị lãnh
đạo của GCCN trong cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh ln ln tin
tưởng và khẳng định vai trị cách mạng to lớn của GCCN, dưới sự lãnh đạo
của GCCN, cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi.

16


2.4. Quan điểm nghi ngờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, từ đó Đảng ln ln giữ
vai trị tiên phong và lãnh đạo trong phong trào cách mạng Việt Nam. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những
thắng lợi to lớn như cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến thắng lợi năm
1954, miền Bắc được giải phóng. Tuy nhiên trong quá trình phát triển tổ
chức và lãnh đạo cách mạng, Đảng cũng gặp khơng ít khó khăn và mắc phải
một số sai lầm khuyết điểm. Đảng đã phải đổi tên mấy lần, Đảng đã có lúc
phải tuyên bố giải tán mà thực chất là rút vào hoạt động bí mật, Đảng đã
mắc sai lầm trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1954... từ những điều
đó mà trong Đảng cũng như trong quần chúng nhân dân, nảy sinh sự nghi
ngờ về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Sự hồi nghi đó là
chính đáng.
Trước vấn đề "có người hồi nghi sự lãnh đạo của Đảng, có đúng
khơng?" [1, 143], Hồ Chí Minh để giải đáp một cách đơn giản và khoa học.
Trước hết Hồ Chí Minh đã đặt thêm một số câu hỏi để người nghi ngờ
tự trả lời và tự khẳng định về sự lãnh đạo của Đảng. "Nếu Đảng lãnh đạo
khơng đúng thì cách mạng tháng Tám có thành cơng khơng? kháng chiến có
thắng lợi khơng? hơn 8 triệu nơng dân miền bắc có ruộng cày khơng? 3 năm
khơi phục kinh tế có hồn thành được không? Và ngày nay, đang vào thời
kỳ quá độ lên CNXH có được khơng? [1, 143].

Về vai trị và tính tất yếu lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, trong
nhiều bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh đã luận giải rất rõ ràng.
Hồ Chí Minh viết: "Có Đảng lãnh đạo, cách mạng và kháng chiến
mới thắng lợi, kiến quốc mới thành cơng. Vì sao? "[10, 228].

17


Người trả lời, dù trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong xây
dựng đất nước cũng đều phải cần có sự lãnh đạo của Đảng. Khơng có Đảng,
các cuộc đấu tranh của nhân dân chỉ là tự phát và sẽ thất bại. "Kinh nghiệm
thế giới và trong nước chứng tỏ rằng: Những cuộc đấu tranh "tự phát" của
nhân dân, thường khơng có mục đích rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, tổ chức chắc
chắn. Vì vậy mà lực lượng rời rạc, nơi này lên thì nơi khác xẹp. Kết quả là
thất bại" [10, 228].
Muốn thắng lợi thì sao? "Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một
Đảng lãnh đạo. Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp
bức bóc lột, phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội,
để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh; chỉ rõ con đường giải phóng cho
quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên quyết cách mạng; làm cho quần
chúng tin chắc cách mạng nhất định thắng lợi" [10, 228].
Hồ Chí Minh cũng nói rõ, cách mạng là "phức tạp", "gian khổ" cho
nên phải có Đảng lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi. Người viết: "Cách
mạng là cuộc đấu tranh rất phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần
chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định hướng
phương châm cho đúng" [10, 228]. "Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian
khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ
chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức
và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch,
tranh lấy chính quyền" [10, 228-229].

Ngay cả khi cách mạng đã thắng lợi, quần chúng vẫn cần có Đảng
lãnh đạo vì:
"Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong
nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn.

18


Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phịng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng
vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân đến thắng
lợi hoàn toàn" [10, 229].
Và để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của mình, lãnh đạo nhân dân
kháng chiến và kiến quốc thì "Đảng phải thật mạnh mẽ, trong sạch, sáng
suốt, thống nhất" [10, 229].
Vai trò lãnh đạo của Đảng là to lớn, tổ chức của Đảng là chặt chẽ, kỷ
luật, đường lối của Đảng là sáng suốt, đúng đắn song khơng phải là Đảng
khơng có những sai lầm khuyết điểm. Hồ Chí Minh khơng phủ nhận điều đó
vì "Đảng là người, Đảng là cán bộ, là đảng viên, tất nhiên có sai lầm" [1,
143]. Nhưng sai lầm của Đảng là có thể khắc phục, sửa chữa được và do vậy
vai trị lãnh đạo của Đảng khơng thay đổi.
Hồ Chí Minh viết: "Nhưng sai lầm của Đảng và của chúng ta khác
hẳn với sai lầm của những bọn khác. Đảng thấy sai thì quyết tâm sửa chữa.
Thời đế quốc, tư bản có bao giờ nói có sai lầm, xin sửa chữa đâu. Đảng là
người, nên có sai lầm nhưng vì có chủ nghĩa Mác - Lênin, có mục đích phục
vụ nhân dân, có phê bình và tự phê bình, cho nên kiên quyết sửa chữa" [1,
144].
Khi Đảng đã kiên quyết sửa chữa và đã sửa chữa được những sai lầm
và khuyết điểm của mình thì Đảng nhất định sẽ lãnh đạo thành cơng cách
mạng Việt Nam. Đó là lời giải thích của Hồ Chí Minh đối với sự nghi ngờ
về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng.

2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ gián tiếp phủ
nhận bọn "Nhân văn - giai phẩm"
"Nhân văn - giai phẩm" là tên gọi được viết tất cả tờ báo "nhân văn"
và các tác phẩm "Giai phẩm mùa thu", "giai phẩm mùa đông", "giai phẩm

19



×