Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân Tích Quá Trình Hình Thành, Bổ Sung, Phát Triển Đường Lối Giải Phóng Dân Tộc Của Đảng Từ Năm 1930-1945.Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.07 KB, 18 trang )

Phân tích q trình hình thành, bổ sung, phát triển đường lối giải phóng
dân tộc của Đảng từ năm 1930-1945. Những thành công và kinh nghiệm
của Đảng trong 15 năm đấu tranh giành chính quyền

Lịch sử Việt Nam 75 năm qua đã chứng minh rằng ước mơ độc lập,
tự do, hạnh phúc của nhân dân ta chỉ có thể biến thành hiện thực khi trên
vũ đài chính trị nước ta xuất hiện một lực lượng xã hội mới là giai cấp cơng
nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày ra
đời đến nay, Đảng ta luôn xác định mục tiêu lý tưởng phấn đấu của cách
mạng nước ta là độc lập dân tộc gắn liền tới CNXH.
Hơn nữa thế kỷ qua là một quãng thời gian ngắn so với hơn 40 thế
kỷ của lịch sử dân tộc. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của
Đảng, xã hội Việt Nam đã tiến những bước nhảy vọt chưa từng có. Nhân
dân ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời
đại sâu sắc nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.
Có được những thành tựu đó là nhờ cơng lao to lớn của Nguyễn ái
Quốc - Hồ Chí Minh, đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin và điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, Cương
lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã xác định rõ đường lối phát triển tất
yếu của cách mạng Việt Nam: Chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng đi tới xã hội cộng sản bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Những tư tưởng lý luận, đường lối cách mạng được xác định trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta
và nhiều nước thuộc địa khác.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi cao nhất trong suốt
15 năm đấu tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng; là


kết quả 15 năm trực tiếp lãnh đạo của Đảng, là thắng lợi của lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng phát triển, bổ sung ngày càng hoàn


chỉnh đường lối giải phóng dân tộc đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn thực hiện thành công ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận Mác - Lênin.
Vì vậy, Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991) đã khẳng định: Đảng ta
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động. Sự khẳng định này làm cho toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta nhận thức được sâu sắc hơn giá trị những nội dung
về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc được ghi trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng và coi đó là một nội dung rất quan trọng "pho lịch sử bằng
vàng" của Đảng ta, của dân tộc ta, cần được nghiên cứu, học tập và tiếp tục
vận dụng, bổ sung phát triển sáng tạo trong các giai đoạn cách mạng nước
ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Là một dân tộc có truyền thống kiên cường, bất khuất cho nên ngay
từ khi thực dân Pháp xâm lược các phong trào kháng chiến và đấu tranh
chống Pháp của nhân dân ta liên tục nổ ra. Do nhiều nguyên nhân và nhất
là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn nên các phong trào đấu tranh
đó khơng giành được thắng lợi. Giai cấp địa chủ phong kiến mà tiêu biểu là
triều đình nhà Nguyễn đã bất lực và hèn nhát, nhanh chóng đầu hàng thực
dân Pháp và trở thành phản động, phản bội lại lợi ích dân tộc.
Thất bại của phong trào Cần Vương, của khởi nghĩa Yên Thế là do
thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt
dân tộc đến thắng lợi. Điều này chứng tỏ rằng, thời kỳ đấu tranh chống
ngoại xâm trong khuôn khổ ý thức hệ tư tưởng phong kiến đã chấm dứt.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường
lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng.

1


Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam cũng như một số nước

phương Đơng khác đã ít nhiều chịu sự chi phối của ý thức hệ tư sản. Đặc
biệt là cách mạng Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản (1968), cuộc cách mạng
Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) đã có tác động nhất định tới phong trào yêu
nước Việt Nam, làm dấy lên ở nước ta một phong trào yêu nước rộng lớn
mang màu sắc dân chủ tư sản mà tiêu biểu là hai khuynh hướng: Bo động
của Phan Bội Châu và cải cách của Phan Chu Trinh. Ngồi ra cịn có các sĩ
phu u nước khác như: Lương Văn Can, Nguyễn Quyền... mở trường
Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động phong trào yêu nước, bài
xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế giễu
phong kiến, cường hào... Đỉnh cao của thời kỳ này là phong trào chống
thuế ở Trung Kỳ 1908.
Mặc dù diễn ra sôi nổi nhưng kết cục các phong trào vận động giải
phóng dân tộc đầu thế kỷ XX theo khuynh hướng tư sản, dân chủ tư sản
Việt Nam, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ khả năng giương cao ngọn
cờ lãnh đạo đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công đã đánh dấu một
bước phát triển mới và mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH. Quốc tế cộng sản được thành lập 1919, Đảng
Cộng sản Pháp được thành lập 1920; Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập
1921... những sự kiện lịch sử này có tác động rất lớn đế thắng lợi các dân
tộc thuộc địa Pháp.
Cùng với những chuyển biến này của thế giới, cách mạng Việt Nam
cũng bắt đầu có nhiều chuyển biến mới gắn liền với vai trò hoạt động của
lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
Năm 1911, người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc, trên cơ sở nhận thức sâu sắc những
hạn chế trong chủ trương cứu nước của những người đi trước. Nguyễn ái
2



Quốc đến nhiều nước châu á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Người thấy rằng
ở đâu cũng có những kẻ đi bóc lột và những người bị bóc lột, Người cũng
nhận thức rõ ràng, đâu là bạn, đâu là thù... thực chất của tư tưởng tự do,
bình đẳng, bác ái là gì, từ đó áp dụng vào thực tiễn nước ta giúp đồng bào
thốt khỏi cuộc sống lầm than, nơ lệ. Sau nhiêu năm bôn ba, quan sát và
suy ngẫm, sau khi gặp "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin
về vấn đề dân tộc và thuộc địa", tháng 12/1920 tại Đại hội lần thứ 18 Đảng
Xã hội Pháp, Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế III,
tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu bước
chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người.
Từ một người yêu nước, Nguyễn ái Quốc trở thành người cộng sản và là
người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Tháng 10/1923 dự Đại hội quốc tế nông
dân và được bầu vào đoàn chủ tịch. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần
thứ 5 Quốc tế cộng sản... Tín hiệu mới báo hiệu một giai đoạn mới của
cách mạng Việt Nam đã bắt đầu.
Với những nỗ lực không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc với
chủ nghĩa Mác - Lênin đã được truyền bá ngày càng mạnh mẽ vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam. Đây là sự
chuẩn bị tích cực cơng phu về chính trị tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đối với sự thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các thuộc địa.
Người viết nhiều bài đăng trên các báo: "Người cùng khổ", "Đời sống cơng
nhân", "Nhân đạo", Tạp chí "Cộng sản", "Thư tín quốc tế", đặc biệt là viết
tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" năm 925, đã gây tiếng vang và
ảnh hưởng lớn đến các phong trào yêu nước ở các nước thuộc địa.
Trong các bài viết, tác phẩm, Người tập trung lên án chủ nghĩa thực
dân, vạch trần bản chất xâm lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của
3



chúng. Người tố cáo đanh thép trước thế giới và nhân dân Pháp tội ác tày
trời của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các thuộc địa và thức tỉnh lịng
u nước, ý chí phản kháng của các dân tộc thuộc địa. Người phác thảo
đường lối cứu nước thể hiện tập trung trong nội dung tác phẩm "Đường
cách mệnh" năm 1927.
Đó là những hoạt động về chính trị tư tưởng chủ yếu của Nguyễn ái
Quốc được truyền bá vào Việt Nam đầu thế kỷ XX, hướng cho các phong
trào giải phóng dân tộc theo cách mạng vơ sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Chuẩn bị về tổ chức. Năm 1921 tại Pháp Nguyễn ái Quốc tham gia
sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, nhằm tập hợp lực lượng
chống chủ nghĩa thực dân. Năm 1924 ở Quảng Châu (Trung Quốc) cùng
với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan,
Inđônêxia... thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức á - Đông.
Tháng 6/1925, Nguyễn ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên để huấn luyện cán bộ, trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nướcỷơ Việt Nam. Đây là
tổ chức tiền thân của Đảng.
Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và tác phẩm "Đường Cách
mệnh" đã trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập chính đảng vơ sản ở Việt Nam, dẫn đến ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam: Đông Dương cộng sản Đảng (6/1929); An Nam cộng sản Đảng
(7/1929); Đơng Dương cộng sản Liên đồn (1/1930). Từ ngày 3-7/2/1930,
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở Cửu Long Hương Cảng
Trung Quốc dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc đã nhất trí thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thơng qua Chánh Cương vắn tắt, Sách lược vắn

4



tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi của Nguyễn ái Quốc nhân ngày thành
lập Đảng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10/1930 thông qua Luận
cương chính trị của Đảng, đó là những văn bản hợp thành Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, đã phản ánh những
nội dung cơ bản nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người trên đất nước Việt Nam.
Từ việc phân tích một cách khách quan tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Cương lĩnh đã vạch ra
những phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam đó là:
- "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi đến chủ nghĩa cộng sản" (1)(1).
Tính chất giai đoạn cách mạng và lý luận cách mạng không ngừng
đã được thể hiện là: Cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiến
lên cách mạng XHCN. Đây là quy luật cách mạng của một nước thuộc địa
nửa phong kiến trong thời đại mới, nó thể hiện được tư tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH, đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng là cơ
sở để giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
- Mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: "Có đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm thổ địa cách
mạng thắng lợi; "mà phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế
quốc chủ nghĩa" (2)(2). Sự kết hợp hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến đã khẳng định tính tồn diện và triệt để của đường lối cách
mạng Việt Nam. Những nhiệm vụ đó thể hiện sinh động của việc kết hợp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người trong đường lối của Đảng ta và của Nguyễn ái Quốc.

(1)(1)
(2)(2)

Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.91.

Văn kiện Đảng, tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.94.

5


- Về lực lượng cách mạng: "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nơng, thanh niên, Tân Việt... để lôi kéo họ đi vào phe vơ
sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho
họ đứng tủng lập" (1)(1). Để thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc phải
đồn kết với tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước, thể hiện
quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm
nên lịch sử. Trong đó 2 lực lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp
cách mạng Việt Nam là vô sản giai cấp và nơng dân, nhưng vơ sản có cầm
quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.
- Phương pháp cách mạng Việt Nam: Phải thực hiện mục tiêu cách
mạng bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân. Sự áp
bức bóc lột vơ nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu
rằng có cách mạng thì sống khơng có cách mạng thì chết. Vấn đề khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền khơng phải là một việc bình thường mà
là một nghệ thuật "theo khn phép nhà binh". Chính sự thất bại của
khuynh hướng cải lương hịa bình ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX
đã cho thấy cách mạng muốn giành thắng lợi khơng có con đường nào khác
là phải sử dụng bạo lực cách mạng.
- Vấn đề đoàn kết quốc tế. Đồn kết quốc tế là vấn đề có tính
ngun tắc của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam phải liên lạc
với giai cấp bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, "nhất là vô sản
giai cấp Pháp" (2)(2), Cương lĩnh còn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đồn kết quốc tế chính là sự
kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, lợi ích

dân tộc với lợi ích tồn nhân loại tiến bộ đang đấu tranh giải phóng khỏi
(1)(1)
(2)(2)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.3.
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.3.

6


ách áp bức, bất cơng trên thế giới. Đồn kết quốc tế cũng đồng thời là một
động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam.
- Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng Cương lĩnh đã
khẳng định vai trò quyết định của Đảng. Đảng là đội tiên phong của vơ sản
giai cấp. Để làm trịn sứ mệnh lịch sử là nhân tố tiền phong quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng phải "thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng"(1)(1), Đảng phải có sự gắn bó máu thịt với quần chúng "điều cốt yếu
cho sự thắng lợi của cách mạng của Đông Dương là cần phải có một Đảng
Cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết
liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành" (2)(2). Đảng
là nhân tố quyết định nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Những nội dung cơ bản trên được hoạch định trên cơ sở vận dụng
sáng tạo những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của một nước thuộc địa nửa phong kiến gắn liền với cách mạng thuộc địa
với cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội, giải phóng con người phù hợp với nội dung cách mạng của thời đại.
Nhận thức rõ hoàn cảnh lịch sử, những mâu thuẫn cơ bản và chủ
yếu xã hội Việt Nam, lợi ích và khát vọng giải phóng của dân tộc và nhân
dân lao động. Kế thừa truyền thống đấu tranh của dân tộc, những kinh

nghiệm, bài học các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp những năm
đầu thế kỷ XX nhất là những thất bại, bế tắc, khủng hoảng của các phong
trào yêu nước Việt Nam ta.
Nội dung của đường lối giải phóng dân tộc này được Đảng ta liên
tục được bổ sung phát triển hoàn chỉnh qua từng thời kỳ phát triển của thực
tiễn cách mạng nước ta từ 1930 đến 1945, cụ thể là:
(1)(1)
(2)(2)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.3.
Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Hà Nội, 1998, tr.100.

7


Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã đẩy những mâu
thuẫn vốn có của CNTB lên cao và ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa phát xít
ra đời và thống trị ở Đức, ý, Nhật. Đó là nền chun chính tư sản độc tài,
tàn bạo, dã man và hiến chiến nhất. Nó xóa bỏ mọi quyền tự do, dân chủ,
tiến hành khủng bố khơi ngòi chiến tranh thế giới hòng chia lại thị trường,
tạo sức ép lớn trên thế giới. Chủ nghĩa phát xít trở thành thảm họa của nhân
loại.
Trước thảm họa chiến tranh phát xít, tháng 7/1935 Quốc tế cộng sản
tiến hành Đại hội lần thứ VII tại Mátxcơva. Đại hội phân tích âm mưu, thủ
đoạn, bản chất của chủ nghĩa phát xít đối với cách mạng thế giới, vạch rõ
kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân thế giới lúc này không phải là CNTB
hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. Do đó nhiệm vụ
trước mắt của giai cấp cơng nhân quốc tế là đấu tranh chống chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh đế quốc, giành dân chủ và hịa bình, bảo vệ Liên Xô.
Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề mặt trận dân

tộc thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
Nghị quyết lần thứ VII Quốc tế cộng sản đã chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược. Đây là nội dung rất quan trọng trong phong trào cộng sản trong
thời kỳ này.
Tháng 5/1935 Mặt trận nhân dân Pháp được thành lập. Tháng
6/1936, Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp ra đời, chủ trương thi hành một
số chính sách dân chủ ở chính quốc và thuộc địa ở Đông Dương, bọn phản
động thuộc địa tăng cường áp bức, bóc lột để bù đắp cho khủng hoảng kinh
tế làm cho mọi tầng lớp, giai cấp, kể cả giai cấp tư sản, địa chủ nhỏ và vừa
rất khó khăn. Nguyện vọng tha thiết của nhân dân là đòi được quyền sống,
quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Những biến đổi tình hình quốc tế và trong nước đặt Đảng Cộng sản
Đông Dương trước yêu cầu mới. Tháng 7/1935, Hội nghị Ban Chấp hành
8


Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc). Căn cứ tình hình thế
giới, trong nước và nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Quốc tế cộng sản. Hội
nghị đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Khẳng định chống đế quốc, chống phong kiến giành độc lập dân tộc
và ruộng đất cho dân cày là mục tiêu không thay đổi. Song mục tiêu, nhiệm
vụ trực tiếp trước mắt là đấu tranh chống phản động thuộc địa, chủ nghĩa
phát xít và chiến tranh, đòi tự do cơm áo, dân chủ, hịa bình.
Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đơng Dương (năm 1938 đổi
thành Mặt trận dân chủ Đông Dương) bao gồm các giai cấp, các lực lượng
cách mạng, các đảng phái, các xu hướng chính trị, tơn giáo tín ngưỡng khác
nhau đấu tranh đòi dân chủ đơn sơ. Đảng coi trọng liên minh với các giai
cấp tầng lớp cơ bản, vừa thực hiện liên minh với tầng lớp trên, lấy liên
minh công nông làm nền tảng.
Để phù hợp với sự chuyển hướng nhiệm vụ, Đảng quyết định thay

đổi hình thức và phương pháp đấu tranh của quần chúng, tận dụng điều
kiện hợp pháp, công khai, nửa hợp pháp, nửa công khai để tổ chức và hoạt
động đa dạng phong phú từ thấp đến cao, phù hợp với mọi giai cấp, tầng
lớp, lứa tuổi, nghề nghiệp...
Đây là sự đánh dấu bước phát triển trưởng thành mới của Đảng ta,
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ
thể trước mắt, giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Thực hiện chính sách mới, chủ trương mới, Đảng đã nhanh chóng
phát động được một cao trào cách mạng sôi nổi, thu được nhiều thắng lợi
có ý nghĩa to lớn. Thành quả nổi bật nhất là đã xây dựng được một đội
quân chính trị của hàng triệu quần chúng trong cao trào cách mạng dân chủ
1936-1939 tạo đà cho thắng lợi tiếp theo.

9


Đường lối giải phóng dân tộc của Đảng được tiếp tục bổ sung, phát
triển hoàn chỉnh qua 3 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (11/1939),
(11/1940) và Hội nghị Trung ương VIII (5/1941).
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, mở đầu bằng cuộc tấn cơng
của phát xít Đức vào Ba Lan ngày 1/9/1939. Tất cả các dân tộc đều bị cuốn
vào vòng chiến. Vấn đề dân tộc đặt ra cho tất cả các nước, các Đảng chính
trị.
Chiến tranh thế giới II đã ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến Việt
Nam. Thực dân Pháp tham chiến. ở Đông Dương, chúng thực hiện chính
sách thời chiến, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, điên cuồng tấn cô ng
Đảng Cộng sản Đơng Dương và các đồn thể quần chúng do Đảng ta lãnh
đạo. Chúng tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho
quốc phịng, kiểm sốt trực tiếp, gắt gao sản xuất và phân phối, xuất khẩu,
mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp càng thêm sâu sắc.

Mùa thu 1940, phát xít Nhật tràn vào Đơng Dương, thực dân Pháp
từng bước đầu hàng Nhật và dâng Đông Dương cho Nhật. Hai tên đế quốc
Pháp - Nhật cấu kết với nhau, bóc lột nhân dân Đơng Dương đến tận xương
tủy. Đời sống nhân dân ta khốn cùng, mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông
Dương với Pháp - Nhật diễn ra căng thẳng và sâu sắc hơn bao giờ hết.
"Đẩy nhanh q trình cách mạng hóa quần chúng".
Khi chiến tranh nổ ra, Đảng nhận định: hồn cảnh Đơng Dương sẽ
tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng, vì lúc này, quyền lợi của tất cả
các giai cấp đều bị cướp giật, vận mệnh dân tộc nguy vong khơng lúc nào
bằng. Vì vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VI
(11/1939), Hội nghị Trung ương VII (11/1940) và Hội nghị Trung ương lần
thứ VIII (5/1941) đã chủ trương điều chỉnh chién lược "cách mạng tư sản
dân quyền". Nội dung chủ yếu của chủ trương điều chỉnh chiến lược cách
mạng. Sự điều chỉnh này là bước bổ sung phát triển hoàn chỉnh đường lối
10


cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đưa đến cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công.
Đảng tập trung giải quyết nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là
đánh đổ đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, nhiệm vụ chống phong
kiến và các nhiệm vụ dân chủ khác phải rải ra thực hiện từng bước, phục
tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất của cách
mạng ĐôngDương lúc này là bọn đế quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc,
"bước đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương khơng cịn con đường
nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng dân tộc" (1)(1),
"Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiến
của Đảng ta. "Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc thì chẳng những

tồn thể quốc gia, dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được" (2)(2).
Đây là một tư tưởng mới đáp ứng đòi hỏi của nhân dân ta ở một
nước thuộc địa, nửa phong kiến, kẻ thù to lớn của dân tộc là đế quốc xâm
lược. Mỗi giai cấp, tầng lớp đều có yêu cầu nguyện vọng riêng, nhưng mục
tiêu chung tương đồng là giành độc lập dân tộc, thoát khỏi ách nô lệ của kẻ
thù ngoại bang. Thực tiễn đấu tranh 75 năm qua càng chứng minh luận
điểm trên là đúng.
Thống nhất lực lượng cách mạng, không phân biệt thợ thuyền, dân
cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ, ai có lịng u
nước thương nòi đều tổ chức vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm
giải phóng dân tộc, cứu Tổ quốc. Muốn vậy, Đảng chủ trương giải quyết
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 6,
tr.536.
(2)(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 7,
tr.113.
(1)(1)

11


vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương, để xây dựng tổ chức mặt trận
có sức hiệu triệu mạnh mẽ khơi dậy chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước
trong mọi tầng lớp nhân dân. Đảng quyết định thay thế mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế ĐôngDương thành lập "Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh" gọi tắt là Việt Minh"; ở Lào thành lập "Mặt trận Ai Lao độc lập
đồng minh"; ở Campuchia thành lập "Mặt trận Cao Miên độc lập đồng
minh" để giải phóng cuộc giải phóng dân tộc ở mỗi nước. Sau đó thành lập
"Đơng Dương độc lập đồng minh". Ngoài ra Đảng chủ trương thành lập các

tổ chức quần chúng như công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh
niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc...
Các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6, 7 và 8 có sự phác họa
bước đầu và căn cứ vào kinh nghiệm của ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn
(27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940) và cuộc binh biến ở đơ
Lương (13/11/1941) và dự đốn tình hình sắp tới. Trung ương quyết định
"khi thời cơ đến thì "Với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi
mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn" (1)(1) giành chính quyền
trong cả nước.
Giai đoạn này cùng với phát triển, bổ sung hoàn chỉnh đường lối
giải phóng dân tộc, Đảng ta đặc biệt chú trọng vấn đề xây dựng Đảng, chủ
trương gấp rút đào tạo cán bộ, tăng cường thành lập vô sản giai cấp trong
Đảng, làm cho Đảng mạnh cả tư tưởng thống nhất cao, cả ý chí hành động
để lãnh đạo đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.
Trải qua 15 năm Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã
có những thành cơng và kinh nghiệm của Đảng trong q trình đấu tranh
giành chính quyền như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 7,
tr.132.
(1)(1)

12


+ Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng
đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là làm cách
mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng XHCN. Hai nhiệm vụ

này có mối quan hệ khăng khít, song nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu
nhất. Nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến thực hiện từng bước như giảm
tô, giảm tức, chia đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho dân
nghèo tiến tới cải cách ruộng đất. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là
thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến tay sai, tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách
mạng giải phóng dân tộc.
+ Xây dựng khối đại đồn kết dân tộc, nịng cốt là cơng nhân và
nơng dân.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là nhờ cuộc đấu tranh yêu
nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam. Xuất phát từ nhận thức
cách mạng là sự nghiệp chung của quần chúng nhân dân, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp trong mặt trận dân tộc thống
nhất. Đạo quân chủ lực này được xây dựng củng cố qua ba cao trào cách
mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
+ Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Đây là vấn đề khó khăn nhưng hết sức quan trọng. Đảng ta đã lợi
dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát
xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ
phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của
Nhật. Cơ lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc -phát xít và bọn tay sai
phản động của chúng, cô lập hoặc trung lập những phần tử lừng chừng.
13


Nhờ vậy, cách mạng tháng Tám giành thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu, tiết
kiệm được sức người sức của cho nhân dân.
+ Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách
mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy

nhà nước mới của dân.
Đảng ta ngay từ khi mới thành lập đã khẳng định, cách mạng Việt
Nam phải tiến hành bằng phương pháp dùng bạo lực. Cách mạng Tháng
Tám thành công là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trong đó lực
lượng chính trị và đấu tranh chính trị của đơng đảo quần chúng giữ vai trò
chủ yếu. Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đã tạo ra ưu thế
áp đảo quân thù từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định.
+ Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của khoa học và nghệ thuật
phương pháp cách mạng Việt Nam, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới và tổng kết kinh
nghiệm cách mạng nước ta: dự đoán thời cơ, tạo thời cơ, nhạy bén, kịp thời
chớp thời cơ phát động tồn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát
xít Nhật và tay sai của Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông Dương;
khéo kết hợp nhân tố dân tộc và nhân tố quốc tế tạo nên sức mạnh tổng hợp
đánh đổ đế quốc, phong kiến.
Thời cơ không tự đến, một phần lớn là do ta chuẩn bị nó, thúc đẩy
nó, Đảng đã hcuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào
chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền tồn quốc.
+Xây dựng một Đảng Mác - Lênin vững mạnh.

14


Một Đảng vững mạnh, có đường lối đúng, thống nhất về tư tưởng,
trong sạch vững mạnh về tổ chức, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Ngay từ khi mới thành lập Đảng ta đã xác định đúng đường lối

chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đến
hồn chỉnh. Điều đó địi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, kịp thời tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn cách mạng qua từng thời kỳ, kiên quyết đấu tranh
khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức,
cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất
chính trị và đạo đức cách mạng. Lịch sử đã chứng minh bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định, tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo, đoàn kết thống
nhất cao của Đảng ta. Đảng bie ét phát huy triệt để vai trò của Mặt trận
Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân
dân đấu tranh.
Chúng ta khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng cho
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng (3/2/190). Tư tưởng của Người và Cương lĩnh của Đảng đã
quy tụ mọi giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân yêu sn thành sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập dân tộc và tiến lên CNXH.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 15 năm qua (19301945) bắt nguồn từ lòng yêu nước, thương nòi của nhân dân ta được soi
sáng bởi tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó Cương lĩnh đầu tiên của Đảng giữ
vị trí quyết định nhất và là bước ngoặt lịch sử cho quá trình phát triển đi
lên của cách mạng nước ta.
Đúng như Lênin viết: Chúng ta không kỳ vọng Mác hay những
người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể con đường tiến lên
CNXH. Như thế sẽ là phi lý, chúng ta chỉ biết phương hướng con đường và
15


lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó, cịn thực tế con đường đó ra
sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ họ bắt tay vào hành
động. Vận dụng quan điểm đó của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng

ta ngay từ đầu thành lập Đảng, không những chỉ rõ mục tiêu, phương
hương của cách mạng mà còn chỉ ra lực lượng, phương pháp cách mạng để
giải phóng dân tộc, xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân dựa trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức do giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
Mười lăm năm ấy, Đảng ta đã trải qua nhiều thử thách, hy sinh, mất
mát nặng nề của Đảng và nhân dân do sự khủng bố, tàn sát dã man của bọn
đế quốc và tay sai, thực tế đã cho thấy Đảng ta vẫn đứng dậy chiến đấu trở
thành một đội ngũ kiên cường bất khuất nhất của dân tộc Việt Nam anh
hùng, tiếp tục lãnh đạo đưa cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi
mới. Chúng ta có quyền tự hào rằng: mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam đều gắn liền với sự đúng đắn của đường lối cách mạng không ngừng
bổ sung phát triển sáng tạo và từng bước hồn chỉnh từ những quan điểm
chính trị của Nguyễn ái Quốc về cách mạng giải phóng dân tộc, Người nói:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác, con
đường cách mạng vô sản".
Sự kết hợp hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến đã
khẳng định tính tồn diện, triệt để của đường lối cách mạng, nó biểu hiện
sinh động của việc kết hợp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người trong q trình lãnh đạo chỉ đạo cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Đó là
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đường
lối này có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với tiến trình cách mạng
Việt Nam, nó được hình thành trên nền tảng của sự cố kết vững chắc giữa
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội khơi dậy cả hai nguồn động lực là

16


dân tộc và giai cấp. Nhờ đó, ln tìm ẩn trong bản thân những khả năng to

lớn để giải quyết mọi vấn đề cơ bản của cách mạng. Từ vấn đề động lực
đến lực lượng cách mạng, từ chiến lược đến sách lược cách mạng, từ
phương thức đến phương pháp cách mạng phù hợp với thực tế, yêu cầu đặt
ra của cách mạng và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học tập đường lối lãnh đạo cách
mạng của Đảng qua Cương lĩnh đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng
thông qua và được bổ sung phát triển hồn chỉnh đường lối giải phóng dân
tộc thời kỳ 1930-1945 của Đảng, để nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn giá trị lý
luận và thực tiễn của đường lối đó, sẽ tạo ra cơ sở khoa học, củng cố thêm
lòng tin vào sự lãnh đạo; vào đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng
đưa cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công; nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa ra đời, Nhà nước của dân, do dân và vì dân phát triển theo định
hướng XHCN văn minh giàu mạnh.

17



×