Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Các yếu tố thành công của quản lý dự án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.65 KB, 7 trang )

Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003


90
CÁC YẾU TỐ THÀNH CÔNG CỦA DỰ ÁN XÂY DỰNG

Nguyễn Duy Long, Đỗ Thò Xuân Lan
Khoa Kỹ Thuật Xây Dựng, Trường Đại Học Bách Khoa


TÓM TẮT
Bài báo này trình bày những yếu tố thành công cho các dự án xây dựng ở Thành Phố Hồ Chí Minh
và cũng có thể suy rộng trong cả nước. Tầm quan trọng của các yếu tố thành công và mối liên hệ giữa
các yếu tố đã được nghiên cứu trong bài báo này. Các yếu tố thành công có thể được phân thành bốn
nhóm loại là: (1) tạo điều kiện thuận lợi của/cho các bên tham gia, (2) năng lực của các bên, (3) quyết
tâm của các bên, và (4) sự chia xẻ thông tin giữa các bên.

ABSTRACT
This paper outlines project success factors of construction projects in Hochiminh City and maybe in
the whole country. The significance and latent relationships of the factors are researched in this paper.
From the research, project success factors can be grouped into four categories. They are: (1) comfort,
(2) competence, (3) commitment, and (4) communication. These categories are titled the four COMs in
Long et al. (2003).

1. GIỚI THIỆU
Ngành xây dựng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và tương tác với hầu hết
các lónh vực của con người. Tuy nhiên, sự phức tạp và không chắc chắn vốn có của ngành đã tạo ra
nhiều khó khăn cho việc quản lý dự án (QLDA), thậm chí đối với những giám đốc dự án tài giỏi nhất.
Vì thế, vấn đề làm thế nào để quản lý một dự án xây dựng (DAXD) thành công đã thu hút nhiều sự
quan tâm và đặt ra nhiều vấn đề nghiên cứu trong vài thập niên qua.


Trong những năm gần đây, nước ta có một nền kinh tế năng động trong khu vực. Viễn cảnh kinh tế
của nước ta tiếp tục cải thiện (World Bank, 2002). Ngành công nghiệp và xây dựng đóng vai trò rất lớn
trong sự duy trì tốc độ tăng trưởng, chiếm 39% tỷ trọng của nền kinh tế trong năm 2002 (Bloomberg
News, 2003). Tuy nhiên, việc quản lý xây dựng gặp nhiều trở ngại. Kết quả là hiệu quả của nhiều dự
án vẫn chưa thể nhìn thấy. Tỷ lệ thất thoát trong xây dựng cơ bản khoảng 20% – 40% (Trung, 2002).
Do đó, một điều hết sức cấp bách là phải nâng cao năng lực quản lý dự án trong ngành xây dựng nói
riêng và tất cả các ngành nói chung. Những bài học kinh nghiệm được rút ra sẽ có nhiều tiềm năng để
cải thiện hình ảnh của ngành xây dựng nước ta.

Mục đích của bài báo này là tìm ra những yếu tố thành công của dự án xây dựng ở Thành Phố Hồ
Chí Minh (TPHCM) và xem xét những mối quan hệ tiềm ẩn giữa các yếu tố này. Kết quả từ nghiên
cứu không chỉ đúng với các dự án (DA) trên đòa bàn TP HCM mà còn có thể suy rộng cho cả nước.

2. THÀNH CÔNG CỦA DỰ ÁN
Một DA được gọi là thành công khi hoàn thành đúng tiến độ, nằm trong ngân sách được duyệt, phù
hợp với các chỉ tiêu kỹ thuật đã đề ra, và làm thỏa mãn các cá nhân/tổ chức liên quan (stakeholders’
satisfaction). Lợi nhuận của nhà thầu, không có tranh chấp giữa các bên và công trình phù hợp công
năng sử dụng cũng được dùng để đo lường sự thành công của dự án (Takim và Akintoye, 2002).

Việc xác đònh một dự án thành công hay thất bại là khó khăn và mơ hồ vì ba lý do. Một, không có
sự rõ ràng trong việc làm thế nào để đo lường sự thành công của dự án vì các bên cảm nhận sự thành
công hay thất bại của DA là khác nhau. Hai, các yếu tố thành công và thất bại của DA là không giống
Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003


91
nhau trong các nghiên cứu trước đây. Ba, đối với mỗi bên tham gia thì mục tiêu và sự ưu tiên được xác
đònh khác nhau trong các giai đoạn khác nhau của DA.

Phân biệt giữa sự thành công của DA và sự thành công của QLDA là rất cần thiết. Các nghiên cứu

trước đây (de Wit, 1988 và Cooke-Davies, 2002) xem sự thành công của DA được đo lường bằng các
mục tiêu chung của DA trong khi sự thành công của QLDA được đo lường bằng chi phí, thời gian và
chất lượng. Tuy nhiên, Baccarini (1999) cho rằng sự thành công của DA được đo lường bằng sự thành
công của công trình và sự thành công của QLDA. Nghiên cứu này theo quan điểm sự thành công của
DA “theo nghóa rộng” của Baccarini (1999).

3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
Một bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên các nghiên cứu trước đây và môi trường XD ở Việt Nam
để thu thập những thông tin về các yếu tố thành công được nhận thức bởi các cá nhân tham gia trong
các dự án. Mặc dù nghiên cứu khảo sát này xem xét nhiều vấn đề về QLDAXD, nhưng bài báo này
chỉ trình bày các yếu tố thành công của DA. Để phù hợp với các điều kiện XD ở đòa phương, bảng câu
hỏi sơ bộ được thử nghiệm bằng các mời một vài kỹ sư xây dựng có kinh nghiệm trả lời. Cuối cùng,
bảng câu hỏi được hoàn thành và gởi đến các cá nhân làm việc trong các dự án ở TPHCM. Một vài
phương tiện được sử dụng để gởi và thu nhận các bảng câu hỏi như gởi qua đường bưu điện, gởi trực
tiếp, Tuy nhiên, việc gởi trực tiếp được ưu tiên để khuyến khích số lượng người tham gia.

Để diễn tả tầm quan trọng của các yếu tố thành công, người tham gia khảo sát được hỏi theo năm
mức độ (five-point scale), từ “không đáng kể” (1) đến “rất đáng kể” (5). Phân tích đầu tiên là phân
tích xếp hạng các yếu tố thành công. Việc phân tích còn xem xét có hay không sự khác nhau giữa các
quan điểm của các nhóm đối tượng tham gia nghiên cứu khác nhau vào việc xếp hạng các yếu tố. Hệ
số tương quan xếp hạng Spearman (Spearman’s rank correlation coefficient) được dùng để kiểm tra
mức độ liên hệ giữa các xếp hạng theo các nhóm đối tượng khác nhau. Cuối cùng, phân tích thành tố
(factor analysis) được dùng để rút ra mối liên hệ lẫn nhau trong các yếu tố thành công này.

4. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỐI TƯNG THAM GIA NGHIÊN CỨU
Đối tượng tham gia được nhóm thành chủ đầu tư, đơn vò thiết kế/ tư vấn và đơn vò thi công. Tỷ lệ
phản hồi bảng câu hỏi từ các nhóm đối tượng được thể hiện trong Bảng 1, với tỷ lệ phản hồi trung bình
là 38%. Hơn một nửa (56.9%) đối tượng tham gia là quản lý cấp thấp (line managers) và kỹ sư, tiếp
theo là trưởng phó phòng dự án/ chức năng (28.4%) và lãnh đạo cấp cao (14.7%). Tỷ lệ của đối tượng
tham gia nếu xét theo số năm tham gia trong ngành XD như sau: ít hơn 5 năm (38.5%), từ 5 năm đến

10 năm (42.2%), và hơn 10 năm (19.3%). Hai phần ba đối tượng tham gia chủ yếu trong các dự án
công cộng và một phần ba còn lại tham gia chủ yếu trong các dự án thuộc lónh vực tư nhân. Các dự án
dân dụng (44.0%), dự án công nghiệp (40.4%), dự án cầu đường (12.8%) và dự án khác (2.8%)
Bảng 1. Tỷ lệ đối tượng tham gia và phản hồi
Đơn Vò Số lượng bảng
câu hỏi gởi đi
Số lượng phản
hồi nhận được
Tỷ lệ phản
hồi (%)
Thành
phần (%)
Chủ đầu tư 82 36 43.9 33.0
Thiết kế/ Tư vấn 85 27 31.8 24.8
Thầu chính/ Thầu phụ 120 46 38.3 42.2
Tổng cộng 287 109 38.0 100.0
là các loại dự án chủ
yếu trong nghiên cứu
này. Điều này cho thấy
rằng nghiên cứu này giới
hạn trong các công trình
dân dụng, công nghiệp
và cầu đường.

5. PHÂN TÍCH XẾP HẠNG CÁC YẾU TỐ THÀNH CÔNG
Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003


92
Đối tượng tham gia được hỏi về mức độ đáng kể của 20 yếu tố thành công được rút ra từ các

nghiên cứu trên thế giới và sự đóng góp của các cá nhân nhiều kinh nghiệm ở TP.HCM. Ngoài ra, các
đối tượng còn yêu cầu thêm vào các yếu tố khác mà họ thấy là cần thiết. Tuy nhiên, những yếu tố
thêm vào này là không đáng kể. Bảng 2 thể hiện sự xếp hạng của các yếu tố bởi tất cả các đối tượng,
và những nhóm đối tượng khác nhau. Năm yêu tố: chủ nhiệm dự án đủ năng lực, đầy đủ tài chính để
hoàn thành dự án, ban quản lý dự án đầy đủ năng lực/ đa năng, quyết tâm đối với dự án, và cung ứng
vật tư đầy đủ được xếp hạng cao nhất trong tất cả các nhóm đối tượng.

Bảng 2. Xếp hạng các yếu tố thành công
Các yếu tố thành công Chung Chủ đầu tư Thiết kế Nhà thầu
Số TB Hạng Số TB Hạng Số TB Hạng Số TB Hạng
Mục tiêu và qui mô DA rõ ràng 3,88 9 4,14 5 3,62 12 3,82 9
Quyết tâm đối với DA 4,10 4 4,22 3 4,19 2 3,95 5
Sự ủng hộ của lãnh đạo cấp cao 3,93 6 4,06 6 3,88 8 3,86 7
Thông tin giá trò và kòp thời 3,67 13 3,65 13 3,62 12 3,73 13
Kế hoạch chiến lược hiệu quả 3,56 15 3,41 18 3,44 18 3,75 12
Giao thầu cho đúng các đ/vò th/kế và th/công 3,89 7 3,79 12 4,04 6 3,89 6
Sự ủng hộ của các đối tượng liên quan 3,67 13 3,85 9 3,5 14 3,64 15
Họp giao ban đònh kỳ thường xuyên 3,40 18 3,38 19 3,35 19 3,45 18
Đầy đủ tài chính để hoàn thành DA 4,28 2 4,42 1 4,12 3 4,27 3
Vật tư đầy đủ 4,08 5 3,97 8 4,12 3 4,14 4
Hạn chế nạn quan liêu 3,80 10 3,83 10 3,92 7 3,7 14
Sự tham gia của cộng đồng xung quanh 3,16 20 3,56 15 3,12 20 2,86 20
Các kênh thông tin/ đối thoại rõ ràng 3,28 19 3,18 20 3,5 14 3,23 19
Dự toán chi phí chính xác 3,89 7 4 7 3,85 9 3,84 8
Cơ chế kiểm soát có hệ thống 3,71 12 3,62 14 3,73 10 3,77 11
Chủ nhiệm DA đủ năng lực 4,38 1 4,26 2 4,38 1 4,48 1
Ban quản lý DA đủ năng lực 4,25 3 4,21 4 4,08 5 4,39 2
Hợp đồng giữa các bên rõ ràng 3,73 11 3,82 11 3,48 16 3,8 10
Ứng dụng công nghệ hiện đại 3,53 16 3,47 17 3,46 17 3,62 16
Nhấn mạnh đúng mức vào kinh nghiệm 3,52 17 3,5 16 3,63 11 3,48 17


Một cách trực quan, mặc dù có thể nhận thấy rằng có sự thống nhất trong các xếp hạng của các
nhóm đối tượng khác nhau, nhưng phân tích tương quan là cần thiết để xem xét sự thống nhất này là
đáng kể hay không. Kiểm tra cho thấy rằng hệ số tương quan xếp hạng Spearman giữa chủ đầu tư và
đơn vò thiết kế, giữa chủ đầu tư và đơn vò thi công, và giữa đơn vò thiết kế và thi công lần lượt là 0.785,
0.842, và 0.837. Hơn nữa, sự tương quan này là đáng kể ở mức 1%. Điều này cho thấy rằng sự thống
nhất giữa các nhóm đối tượng đối với việc xếp hạng các yếu tố thành công này là rất chặt chẻ.

6. PHÂN TÍCH THÀNH TỐ CỦA CÁC YẾU TỐ THÀNH CÔNG
Một mục đích khác của bài báo này là tìm mối quan hệ giữa các yếu tố thành công để rút ra một
tập hợp gọn hơn các yếu tố để dể dàng sử dụng trong thực tiễn. Tương ứng, phân tích thành tố (factor
analysis) được thực hiện để tìm ra mối quan hệ đa bội của các yếu tố. Phân tích thành tố nhấn mạnh
vào những vấn đề phân tích cấu trúc qua các mối tương quan từ nhiều biến bằng cách xác đònh tập hợp
các “kích thước” tiềm ẩn chung, mà được gọi là thành tố (factors hay components) (Hair et al., 1998).
Một vài kiểm tra được thực hiện để xác đònh sự thích hợp của phân tích thành tố. Các công tác kiểm
tra này là “tương quan phản đối xứng” (anti-image correlation), kiểm tra Bartlett (Bartlett test of
sphericity) – kiểm tra thống kê về sự hiện hữu các tương quan giữa các biến, kiểm tra Kaiser-Meyer-
Olkin (KMO) – xác đònh sự đầy đủ của mẫu (measure of sampling adequacy – MSA). Chi tiết của quá
trình phân tích thành tố có thể tham khảo trong Hair et al. (1998).
Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003


93

Phân tích thành tố được sử dụng để rút ra chuổi các quan hệ. Nhiều bước kiểm tra để xác đònh sự
thích hợp của phân tích thành tố được thực hiện. Kiểm tra sơ bộ cho thấy rằng năm yếu tố thành công:
thông tin giá trò và kòp thời, kế hoạch chiến lược hiệu quả, hạn chế nạn quan liêu, dự toán chi phí chính
xác, và cơ chế kiểm soát có hệ thống được bỏ qua trong tập các biến (yếu tố thành công) trong phân
tích thành tố. Nghóa là, một khi “sai số chung” (cummunality) hay “hệ số thành tố” (factor loading)
của biến không lớn hơn một giá trò nào đó thì biến nghiên cứu này nên bỏ qua và quá trình phân tích

thành tố được thực hiện lại từ bước đầu tiên. Cuối cùng, 15 yếu tố thành công còn lại là phù hợp cho
phân tích thành tố. Phương pháp quay trục trực giao varimax của phân tích thành tố ban đầu được dùng
để diễn giải các thành tố. Nhóm các thành tố dựa trên phương pháp quay trục varimax thể hiện ở Bảng
3.

Các thành tố và các biến tương ứng là các yếu tố thành công được đặt như sau: thành tố 1 là tạo
điều kiện thuận lợi của/cho các bên tham gia, thành tố 2 là năng lực của các bên, thành tố 3 là quyết
tâm của các bên, và thành tố 4 là sự chia xẻ thông tin giữa các bên. Dưới đây là một vài thảo luận rút
ra từ phân tích thành tố này.

Bảng 3. Kết quả phân tích thành tố
Thành
tố
Tên
thành tố
Eigen-
value
Sai số
(%)
Yếu tố thành công Hệ số
thành tố
1 4.529 34.841 Đầy đủ tài chính để hoàn thành DA 0.800
Hợp đồng giữa các bên rõ ràng 0.652
Vật tư đầy đủ 0.638
Sự ủng hộ của các đối tượng liên quan 0.591

Tạo điều
kiện thuận
lợi của/cho
các bên

Chủ nhiệm DA đủ năng lực 0.571
2 1.807 13.897 Ứng dụng công nghệ hiện đại 0.774
Nhấn mạnh đúng mức vào kinh nghiệm 0.750
Ban quản lý DA đủ năng lực 0.660

Năng lực
của các bên
Giao thầu cho đúng các đ/vò th/kế và th/công 0.652
3 1.448 11.138 Quyết tâm đối với DA 0.879
Mục tiêu và qui mô DA rõ ràng 0.737

Quyết tâm
thực hiện
Sự ủng hộ của lãnh đạo cấp cao 0.706
4 1.118 9.137 Sự tham gia của cộng đồng xung quanh 0.804
Các kênh thông tin/ đối thoại rõ ràng 0.737

Chia xẻ
thông tin
Họp giao ban đònh kỳ thường xuyên 0.596

7. THẢO LUẬN TỪ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THÀNH TỐ
7.1. Tạo điều kiện thuận lợi của/cho các bên
Nhóm thành tố “tạo điều kiện thuận lợi của/cho các bên” nhấn mạnh rằng những dự án thành công
phải được thực hiện trong sự thuận lợi nhất. Nghóa là, tài chính, vật tư, nỗ lực và lãnh đạo luôn đáp ứng
trong suốt quá trình thực hiện DA. Tài chính và các tài nguyên khác rõ ràng là rất cần thiết để thực
hiện DA. Vật tư/tài chính đầy đủ cũng được xếp hạng cao nhất trong các nghiên cứu gần đây (White
và Fortune, 2002).

Lãnh đạo cũng là một khía cạnh quan trọng trong QLDA. Trong một nghiên cứu ở Hoa Kỳ,

Zimmerer và Yasin (1998) đã rút ra rằng những cá tính được đánh giá cao nhất đối với những giám
đốc dự án giỏi và cho sự thành công của dự án là xây dựng nhóm làm việc thống nhất, kỹ năng giao
tiếp, xây dựng lòng tin và tập trung vào kết quả hơn là những thứ khác. Vì vậy, một giám đốc dự án đủ
Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003


94
năng lực cần sở hữu không chỉ các kỹ năng kỹ thuật và quản lý mà còn có khả năng lãnh đạo tốt để
làm “đúng việc một cách đúng đắn”.


7.2. Năng lực của các bên
Năng lực của các bên là một đòi hỏi tất yếu khác cho sự thành công của các DAXD. Các DA lớn
cần sở hữu một loại công nghệ nào đó, nhưng lựa chọn một công nghệ đúng đắn là một vấn đề nan
giải, nhất là khi các bên có trách nhiệm thiếu năng lực. Một thách thức đối với ngành công nghiệp xây
dựng ở các nước đang phát triển là thiếu năng lực lựa chọn những công nghệ hiệu quả nhất từ các nước
khác (Ngowi, 2002). Thêm vào đó, mặc dù nhà nước và một số đơn vò tài trợ đã ủng hộ quá trình
chuyển giao công nghệ, vấn đề này vẫn còn nhiều trở ngại (Ofori, 1994). Vì thế, có thể nói rằng công
nghệ đúng đắn cần có con người đúng đắn để lựa chọn, quản lý và sử dụng nó.

Nhấn mạnh vào kinh nghiệm và ban QLDA đủ năng lực là các yếu tố thành công được đề nghò
trong nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu (Sanvido, 1992 và Loo, 2002). Ban QLDA chứ không
phải giám đốc DA thực hiện DA. Hoạch đònh và kiểm soát DA hiệu quả đòi hỏi ban QLDA ứng dụng
các công cụ QLDA thích hợp. Trong các DA lớn ở VN, một vấn đề cực kỳ khó khăn là tập hợp một đội
ngũ đủ năng lực để thực hiện DA thành công. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi những yếu tố này
được nhìn nhận là có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của DA.

Sự tham gia của nhiều đơn vò là một đặc điểm nổi bật của các DAXD. Nếu một trong những đơn vò
này không đủ năng lực trong vai trò của họ, DA hoàn toàn có thể thất bại. Vì thế, điều thiết yếu là
công tác đấu thầu phải đảm bảo lựa chọn đúng đắn các đơn vò thiết kế và thi công. Một nghiên cứu

mới đây (Long, 2003) được thực hiện ở VN cho thấy rằng các trở ngại thuộc trách nhiệm của các đơn
vò thiết kế và thi công rất thường hay xảy ra và có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ thành công của DA.

7.3. Quyết tâm của các bên
Sự quyết tâm đã được nhìn nhận là một yếu tố quan trọng cho sự thành công của các tổ chức và
DA. Điều này phản ánh rằng tất cả các bên liên quan và cộng đồng quan tâm mạnh mẽ đến DA. Nhân
viên làm việc cho DA thường không sẵn sàng theo các chuẩn mực đã đặt ra (Clarke, 1999). Do đó,
mục tiêu và qui mô DA rõ ràng sẽ giảm thiểu “triệu chứng” này. Quyết tâm đối với DA và sự hổ trợ
của cấp lãnh đạo của các bên là những yếu tố thành công trong nhiều nghiên cứu (White và Fortune,
2002, và Sanchez và Perez, 2002). Sự hổ trợ của các cấp lãnh đạo phải được thể hiện một cách rõ
ràng. Ví dụ, các thành viên thường không nhận ra QLDA là một cái gì đó có thể giúp họ, mà trái lại
chỉ là một mệnh lệnh phục vụ rất ít cho những mục đích hữu ích (Wojciak, 1997). Vì thế, khuyến khích
và động viên kòp thời là điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo môi trường làm việc thuận lợi cả bên
trong và bên ngoài DA. Điều này khó có thể tồn tại nếu không có quyết tâm của các bên.

7.4. Sự chia xẻ thông tin giữa các bên
Thành tố này ngày càng trở nên quan trọng trong thời đại thông tin ngày nay. Thông tin trao đổi
hữu hiệu là một yếu tố trọng tâm để “lèo lái” và “gắn kết” các cá nhân và ra những quyết đònh kòp
thời để đưa DA đến thành công (Laufer et al., 1996). Do đó, việc thiết lặp một hệ thống thông tin hiệu
quả là hết sức cần thiết để mọi cá nhân liên quan tiếp nhận và chia xẻ thông tin. Nói rộng ra, “chia xẻ
tiền đồ của DA” là không thể thực hiện được khi thông tin nghèo nàn. Một khi con người được thông
tin tốt hơn và nhận biết những gì đang xảy ra trong DA, họ sẽ trở nên tham gia và quyết tâm nhiều hơn
đối với việc thực hiện DA và kết quả là hăng hái và hứng thú công việc hơn (Clarke, 1999). Một DA
sẽ có cơ hội hoàn thành tốt khi việc hoạch đònh DA được cập nhật thường xuyên. Hơn nữa, để đảm bảo
Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003


95
DA thành công, các kế hoạch nên đảm bảo đơn giản với đầy đủ mức độ chi tiết để DA được xem xét
dễ dàng và nhanh chóng (Clarke, 1999).


Sự tham gia của cộng đồng cũng rất quan trọng trong nhiều nghiên cứu trước (Yeo, 1995, và
Awakul và Ogunlana, 2002). Các DAXD lớn thường gây nhiều tranh luận trong cộng đồng, như DA
thoát nước thuộc lưu vực kênh Nhiêu Lộc – Thò Nghè gần đây là một ví dụ. Vì vậy, sự thông cảm và
hiểu biết về DA của cộng đồng xung quanh sẽ đảm bảo DA thực hiện suông sẻ. Điều này không thể
thực hiện được nếu thông tin về DA không được cung cấp đầy đủ. Yeo (1995) nhấn mạnh rằng quản lý
các phản ứng, ý kiến và hiểu biết thái độ của cộng đồng là một phần thuộc trách nhiệm của QLDA.
Như thế, điều quan trọng là các bên tham gia cần phải chia xẻ chính xác thông tin về DA và thu thập
các quan điểm khác nhau về DA nhằm đảm bảo DA thực hiện và đạt kết quả như mong muốn.

8. KẾT LUẬN
Sự thành công của các DAXD mà đặc biệt là các DA hạ tầng không chỉ rất quan trọng cho các bên
tham gia mà còn cho cộng đồng và đất nước để duy trì tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, quá nhiều yếu tố
quyết đònh sự thành công hay thất bại đã làm cho vấn đề này càng trở nên nan giải. Trong số 20 yếu tố
thành công được nghiên cứu, năm yếu tố thành công tối quan trọng được xác đònh là: (1) giám đốc DA
đủ năng lực, (2) đảm bảo tài chính cho DA, (3) ban QLDA đủ năng lực, (4) sự quyết tâm thực hiện DA,
và (5) vật tư đáp ứng đầy đủ. Rõ ràng rằng, hầu hết các yếu tố thành công này là liên quan đến con
người. Điều này cho thấy rằng con người đóng vai trò quyết đònh trong việc thành công hay thất bại
của DA. Điều này là không có gì ngạc nhiên khi con người chòu trách nhiệm trong việc tạo ra, quản lý,
vận hành và sử dụng dự án cũng như bò tác động ngược lại bởi DA.

Ngoài ra, hầu hết các yếu tố thành công được nhóm thành bốn nhóm: (1) tạo điều kiện thuận lợi
của/cho các bên tham gia, (2) năng lực của các bên, (3) quyết tâm của các bên, và (4) sự chia xẻ thông
tin giữa các bên. “Tạo điều kiện thuận lợi của/cho các bên tham gia” liên quan đến việc đảm bảo tài
nguyên, nỗ lực và lãnh đạo luôn sẵng sàn cho việc thực hiện DA. “Năng lực của các bên” đòi hỏi sở
hữu công nghệ, kinh nghiệm, và kỹ năng thích hợp cho DA. “Quyết tâm của các bên” nhằm đảm bảo
rằng tất cả các bên tham gia sẵn sàng quản lý, hoạch đònh, thiết kế, thi công và vận hành công trình
hài hòa và hiệu quả. “Sự chia xẻ thông tin giữa các bên” giúp làm rõ và chia xẻ những thông tin về
DA cần thiết cho các bên và cộng đồng. Nếu làm được điều này, công tác kiểm soát DA có thể hữu
hiệu hơn và DA có cơ may tránh được thất bại để đi đến thành công.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Awakul, P. và Ogunlana, S. O. (2002), “The effect of attitudinal differences on interface conflicts
in large scale construction projects: a case study”, Construction Management and Economics,
Vol. 20 No. 4, pp. 365-377.
[2] Baccarini, D. (1999), “The logical framework method for defining project success”, Project
Management Journal, Vol. 30 No. 4, pp. 25-32.
[3] Bloomberg News [2003], “Vietnam growth hits 7%, fastest in Southeast Asia”, International
Herald Tribune, January 2, 2003, available at:
[4] Clarke, A. (1999), “A practical use of key success factors to improve the effectiveness of project
management”, International Journal of Project Management, Vol. 17 No.3, pp. 139-145.
[5] Cooke-Davies, T. (2002), “The ‘real’ success factors on projects”, International Journal of
Project Management, Vol. 20 No. 3, pp. 185-190.
[6] de Wit, A. (1988), “Measurement of project success”, International Journal of Project
Management, Vol. 6.

Hội nghò Khoa học trẻ Bách Khoa lần 4 năm 2003


96

×