Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đề án nghiên cứu các giải pháp và vai trò của nhà nước và pháp luật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đối với nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.72 KB, 22 trang )

ĐỀ ÁN:


MỤC LỤ C
2
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là một nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, và pháp luật đóng vai trò đặt biệt quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Pháp luật giúp Nhà nước kiểm soát được kinh tế; đảm bảo thực hiện việc xây dựng và
phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp
luật là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, quy định của nó không được cao hơn
hay thấp hơn trình độ phát triển của nền kinh tế đã sinh ra nó. Vai trò của pháp luật thể
hiện qua việc nó góp phần tích cực vào việc tổ chức, quản lý và điều tiết nền kinh tế.
Vượt qua đêm trường bao cấp, Việt Nam mở cửa nền kinh tế từ năm 1986, bắt
đầu giao thương làm ăn với các quốc gia trên khắp thế giới. Và Nhà nước phải tiến
hành cải cách phương thức quản lý, cũng như hoàn thiện pháp luật nhằm đáp ứng nhu
cầu trong thời đại mới là một tất yếu khách quan. Hơn 20 năm qua, chúng ta đã làm
được gì, đạt được những thành tựu đáng kể nào, những nhược điểm còn tồn tại đòi hỏi
phải giải quyết triệt để trong giai đoạn mới để vực dậy nền kinh tế đang xuống dốc?
3
CHƯƠNG 1 : SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA
I. Khái niệm Nhà nước pháp quyền – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó
tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo…
của bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang những đặc điểm chung
của kiểu Nhà nước pháp quyền, bên cạnh đó còn mang nhiều đặc trưng riêng của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước “của dân, do dân,
vì dân” phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình từng giai đoạn phát triển của cách
mạng, thể hiện từ định hướng nhất quán của Đảng và Nhà nước về xác lập tổ chức mô
hình thực hiện quyền lực nhân dân. Đó là nhà nước thực sự của dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, công khai, văn minh,
tất cả vì hạnh phúc của nhân dân; được tổ chức và vận hành một cách khoa học, phù
hợp với thực tiễn đất nước; tổ chức hoạt động phải trên cơ sở của pháp luật và quản lý
xã hội bằng pháp luật; quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất
quyền lực, có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có cơ chế an toàn và hiệu quả nhằm
ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của công dân.
II. Lịch sử hình thành hệ thống pháp luật Việt Nam
Hệ thống pháp luật Việt Nam manh nha hình thành từ thời kỳ bắt đầu có nhà
nước Văn Lang – Âu Lạc. Trong thời kỳ này, pháp luật thành văn chưa tồn tại, các
quan hệ trong cuộc sống chủ yếu được điều chỉnh bằng tập quán, phong tục hay mệnh
lệnh khẩu truyền của nhà vua.
Thời kỳ Bắc thuộc (179TCN - 938): Các quan hệ trong thời kỳ này chủ yếu
được điều chỉnh bởi luật tục của người Việt và luật pháp phong kiến Trung Hoa.
4
Thời kỳ phong kiến (939-1945): Pháp luật dần dần được định hình trên các văn
bản thành văn; quy định các nguyên tắc chung, tội phạm, hệ thống hình phạt, những
quy định về hôn nhân gia đình, những quy định trong lĩnh vực dân sự và tố tụng… mà
đỉnh cao là Bộ luật Hồng Đức, được xây dựng trong thời kỳ Lê sơ từ đời vua Lê Thái
Tổ đến Lê Thánh Tông. Đây là bộ luật điển hình, hoàn thiện nhất trong lịch sử Nhà
nước phong kiến Việt Nam. Bộ luật chứa nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ
thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời, có những điểm tiếp cận gần
với kỹ thuật pháp lý hiện đại.
Thời kỳ Pháp thuộc (1826-1954): Pháp ban hành bộ Dân luật giản yếu
(26/3/1883) cho Nam phần; bộ Dân luật Bắc (01/7/1931) cho Bắc phần; bộ Dân luật

Trung (1936-1938) cho Trung phần. Các bộ luật trên đều dựa trên những quy tắc của
Dân luật Pháp.
Thời kỳ sau CMT8-1945: Ngoài các bộ luật do thực dân Pháp ban hành, còn
song song tồn tại các luật bất thành văn được áp dụng tại các vùng kháng chiến. Sau
1975, Nghị quyết 76/CP ngày 25/3/1977 của hội đồng chính phủ được ban hành để
thống nhất việc áp dụng luật lệ trong toàn quốc. Sau đó ban hành Luật Hiến pháp và
các bộ luật chung, luật chuyên ngành lần lượt ra đời, phù hợp với từng giai đoạn phát
triển chung của đất nước.
5
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ QUA CÁC GIAI ĐOẠN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã có những thành công bước đầu trong
việc hình thành và hoàn thiện cơ chế thị trường, cũng như điều chỉnh tương ứng vai trò
của Nhà nước đối với nền kinh tế. Trước hết đó là sự thay đổi cơ bản quan niệm về
chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế. Nếu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
chỉ dừng lại ở mức độ xác định nhiệm vụ "Bộ máy nhà nước từng bước chuyển sang
chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành kinh doanh "
thì đến Đại hội VIII, quan điểm này được cụ thể hoá hơn "Nhà nước định hướng phát
triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực, thiết lập khuôn khổ pháp luật, xây dựng
chính sách nhất quán, phân phối lại thu nhập, hạn chế tiêu cực của thị trường". Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ định hướng đổi mới chính sách căn
bản là "Tiếp tục đổi mới các công cụ vĩ mô của quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế.
Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, nâng cao công tác xây dựng các chiến lược,
quy hoạch và kế hoách phát triển kinh tế - xã hội”. Nhà nước cũng đã bước đầu phát
huy vai trò của mình trong việc sửa chữa "những khiếm khuyết của thị trường" thông
qua các chính sách bảo trợ xã hội, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên và môi
trường.
Nhà nước tham gia vào quá trình kinh tế thị trường với tư cách vừa là bộ máy
quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các tư cách
đó, Nhà nước thực hiện ba chức năng:

- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;
- Phân phối lại thu nhập quốc dân;
- Bảo vệ môi trường.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm ba chức năng đó, thể hiện ở cả ba
lĩnh vực kinh tế cơ bản như sau:
- Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở
hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn
6
bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò
chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân.
- Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách… tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định
tham gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch
phát triển của doanh nghiệp.
- Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế
do mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực – trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà
nước – để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng
ưu tiên phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với
thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn
đáp nghĩa…
Để thực hiện tối đa vai trò của nhà nước trong cả ba lĩnh vực kinh tế kể trên, thì
Nhà nước dựa vào hệ thống pháp luật để thực thi các cơ chế, chính sách mà nhà nước
ban hành. Sự tác động của pháp luật đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh được thực
hiện thông qua một cơ chế phức tạp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiến hành
thông qua hoạt động có ý thức của con người và phải tuân theo những quy luật kinh tế
khách quan. Pháp luật không đặt ra các quy luật mà chỉ tác động đến hành vi của
người kinh doanh, đặt ra các tiêu chuẩn cho con người tuân thủ, chấp hành. Đồng thời

pháp luật còn thể hiện yêu cầu của Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế dưới dạng
quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Do vậy, pháp luật đã trở thành một công cụ vô cùng
quan trọng giúp nhà nước quản lý kinh tế. Hơn nữa quản lý kinh tế bằng pháp luật là
một cách quản lý vô cùng khoa học, vì có tính dự báo nên nó có khả năng (dù không
hoàn toàn) theo kịp được sự phát triển của kinh tế nước ta.
Quá trình đổi mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác định trên cơ
sở vai trò của Nhà nước và pháp luật đối với nền kinh tế, tương ứng với ba giai đoạn
phát triển của nền kinh tế như sau:
I. Giai đoạn trước năm 1992
1986 – 1987: đổi mới tư duy, chuẩn bị về mặt tư tưởng, đường lối đổi mới và tiến
hành đổi mới trên thực tế ở một số lĩnh vực.
7
- Trên tinh thần Điều 18 Hiến pháp 1980 thì thành phần kinh tế quốc doanh thuộc
sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
- Đại hội Đảng VI: đề ra đường lối đổi mới, trong đó, nhấn mạnh yêu cầu đổi mới
tư duy. Tư tưởng coi việc “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng
thứ hai của cơ chế mới về quản lý” (sau tính kế hoạch), đòi hỏi “sản xuất phải gắn với
thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và
đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng”, v.v. được ghi
trong Báo cáo Chính trị của Đại hội là đột phá quan trọng về tư tưởng và đường lối
phát triển kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
- 1987: Sửa đổi Luật Đất đai, ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài – một
đạo luật được coi là rất thông thoáng. Chuyển sang chính sách tỷ giá sát với tỷ giá thị
trường. Mở cửa cho xuất khẩu các loại nông sản, đặc biệt là gạo.
Thực trạng: nền kinh tế trong giai đoạn lạm phát phi mã, khủng hoảng nặng nề.
Tình hình này tạo áp lực phải tiến hành đổi mới trên thực tế một cách mạnh mẽ và
quyết liệt. Một số đổi mới thực tế ban đầu theo hướng thị trường và mở cửa đã tạo ra
những chuyển biến có sức thuyết phục, tăng thêm quyết tâm đổi mới hệ thống, đồng
bộ và mạnh mẽ.
1988 – 1991: Tiến hành đổi mới một cách có hệ thống, tương đối đồng bộ và triệt để

trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
- 5/1990 – Pháp lệnh Ngân hàng ra đời, hệ thống Ngân hàng chính thức chuyển
sang hoạt động theo mô hình hai cấp. Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ quản lý
Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân
hàng.
- Xoá bỏ chế độ hai giá, áp dụng hệ thống giá thị trường, thống nhất hệ thống tỷ
giá và thực hiện chế độ lãi suất dương để chống lạm phát;
- Thông qua Pháp lệnh về các NHTM và các Tổ chức tín dụng;
- Sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài;
- Ban hành Luật Công ty.
- 1991: Đại hội Đảng VII, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
8
kỳ quá độ lên CNXH”. Cương lĩnh khẳng định đường lối “Phát triển một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò
chủ đạo Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và
các công cụ khác.”
Kết quả: Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới; lạm phát phi mã
được kiềm chế và kiểm soát. Năm 1990, GDP tăng trưởng 8,3%. Vốn FDI đăng ký đạt
hơn 1 tỷ USD; khai thác được hơn 2 triệu tấn dầu thô.
II. Giai đoạn 1992 – 2006
1992 – 1996: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới thể chế và định hình khung cấu trúc thể chế
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
- Năm 1992, thông qua Hiến pháp mới, chính thức thừa nhận nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần;
- Thí điểm cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước (1992), bắt đầu triển khai rộng
từ năm 1996.
- Ban hành Luật Đất đai năm 1993 thay thế Luật đất đai năm 1987, ban hành Luật
Phá sản; Luật DNNN.
- Đẩy mạnh quan hệ song phương, đa phương và khu vực.

- Năm 1993, lệnh cấm vận của Mỹ được tháo bỏ.
- Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên ASEAN và bình thường hoá quan hệ
với Mỹ.
- Bãi bỏ nhiều loại giấy phép xuất khẩu và chế độ quản lý bằng hạn ngạch.
- Nhận thức được nhiều thiếu sót trong vấn đề thuế, Nhà nước đã thực hiện cải
cách thuế bước 1 từ năm 1990-1995 nhằm hình thành một hệ thống thuế thống nhất áp
dụng cho tất cả các thành phần kinh tế.
Kết quả: Nhờ các biến đổi thể chế được tiến hành đồng bộ và nhất quán, nền kinh
tế đã đạt được những kết quả tăng trưởng và phát triển “ngoạn mục”:
• Ngoại thương tăng trưởng 25-40%/năm;
9
• GDP tăng trưởng đạt kỷ lục năm 1995 là 9,54%.
• FDI đăng ký đạt 10 tỷ USD năm 1994 và 27 tỷ USD năm 1996.
• Đà tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh được xác lập, tỷ lệ người
nghèo giảm nhanh.
1996 – 2000: Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 đề ra nhiệm vụ “đẩy mạnh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế”
- Bắt đầu bước vào thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, đặt mục tiêu đến năm
2020 đưa nước ta “về cơ bản trở thành nước công nghiệp”.
- Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1996-2000 lần thứ I.
- Tháng 3/1996, Việt Nam đã tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu ASEM
- Năm 1998, Chính phủ áp dụng chính sách "kích cầu đầu tư" nhằm khắc phục
xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng và tình trạng trì trệ trong nền kinh tế.
- Tháng 11/1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-
Thái Bình Dương APEC.
- Năm 2000 ban hành Luật DN, bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh
doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ
những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí.
- Thực hiện cải cách thuế từ 1996-2000 với mục tiêu không làm giảm nguồn thu

ngân sách NN và hệ thống thuế phải góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo
hướng CNH-HĐH, phù hợp với thông lệ quốc tế, minh bạch và đơn giản.
Kết quả: Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực
(giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước
ta trước những thử thách khốc liệt; tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông – lâm
- ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng
10
5,2%. Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là
7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần.
2001 – 2006:
- Đưa ra nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp, kinh tế tư nhân thông qua việc ban hành
Luật đất đai 2003 và Luật doanh nghiệp năm 2005. Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng
chung cho cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn
sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các
doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu. Điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu
tư của Việt Nam, đẩy mạnh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho nhà đầu tư nước
ngoài để tạo thêm hấp dẫn.
- Trong Đại hội X năm 2006 cho phép Đảng viên được làm kinh tế tư nhân
(trước kia đây là điều cấm kị, nếu làm sai có thể khai trừ khỏi Đảng cộng sản vì Đảng
Cộng Sản là chống tư hữu, quan niệm làm kinh tế tư nhân là theo con đường tư sản).
- "Tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông
thôn đến năm 2010".( Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003)
- Đề ra nhiệm vụ, kế hoạch và Triển khai chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 – 2010 và Kế hoạch 5 năm lần thứ II 2001 - 2005 với mục tiêu, nhiệm vụ lớn hơn
kế hoạch 5 năm lần thứ I.
- Cải cách thuế bước 3 từ 2001-2010 với mục tiêu và quan điểm hệ thống thuế
phải góp phần lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô.
Kết quả: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm
sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;

trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành
dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005
đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người
khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang
phát triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập
khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo
11
lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu;
đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Kết quả đạt được thể hiện qua biểu đồ:
*Tích cực:
1/ GDP bình quân đầu người qua các năm (USD)
Bảng 1: GDP bình quân đầu người tăng qua các năm (%)
12
Bảng 2:
2/ Tình hình Xuất nhập khẩu của Việt Nam qua các năm - (Đơn vị t ính: Tỷ USD,
Nguồn: Tổng cục thống kê)
Bảng 3: Xuất nhập khẩu Việt Nam qua các năm
*Tiêu cực
13
Ngoài các thành quả đạt được trong quá trình đổi mới, sự bất cập trong chính
sách quản lý dẫn đến xảy ra một số tiêu cực đáng tiếc. Đã xảy ra một số vụ tiêu cực
như: vụ đất đai tại Đồ Sơn (Hải Phòng), vụ siêu lừa Nguyễn Đức Chi tại dự án
Rusalka ở Khánh Hòa, và nổi bật là vụ tham nhũng PMU 18.
Vụ PMU 18 (PMU: Project Management Unit – Đơn vị quản lý dự án): là một vụ
bê bối liên quan đến tham những trong Bộ giao thông vận tải đầu năm 2006. Vụ này
đã gây xôn xao dự luận tại Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp viện trợ
phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, đã khiến Bộ trưởng Bộ GTVT Đào Đình
Bình phải từ chức và Thứ trưởng thường trực Nguyễn Việt Tiến bị bắt giam. Và điều
không ngờ là người ta đã ném quá nhiều tiền vào cá cược và bao gái…Nguyên nhân

vụ PMU 18 chủ yếu là do Cơ chế xin cho và cán bộ yếu.
Thứ nhất, là cơ chế xin cho. Trong số 10 tỉnh/bộ được khảo sát, cơ chế xin-cho
được xem như nguyên nhân tham nhũng ở Bộ GTVT đạt tỷ lệ vào loại cao nhất với
85,3% số người được hỏi đồng ý, trong đó tỷ lệ bình quân là 72%.
Thứ hai, là công tác cán bộ yếu. Theo đánh giá của một bộ phận khá lớn cán bộ
và nhân dân, những người yếu về chuyên môn, kém về tư cách, phẩm chất đạo đức mà
vẫn được tuyển dụng thì chắc chắn là sẽ gây hại nhiều hơn có lợi cho tập thể, cho đất
nước. Công tác tuyển dụng, bố trí sắp xếp cán bộ không min bạch, không dựa vào
chính năng lực của cán bộ, mà lại được thực hiện theo kiểu chạy chọt, sự nâng đỡ của
người có thế lực, dựa vào mối quan hệ thân quen…thì chẳng những sẽ làm hại chính
đơn vị đó, mà nguy hiểm hơn, nó còn gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, gây bức xúc trong dư luận.
Thứ ba, là chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ. Ở bộ GTVT, 56% người được hỏi
cho rằng chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ. Đây là tỷ lệ cao nhất trong 7 tỉnh và 3 bộ
được điều tra, tỷ lệ trung bình về vấn đề này ở các đơn vị khác là 40%. Do chưa thực
hiện tốt quy chế dân chủ, chưa làm tốt các quy định để “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, giám sát” nên việc phát hiện, tố cáo tham nhũng cũng lại trở thành một
bài toán cực khó. Tham nhũng ít bị phát hiện, nên không thể xử lý và kết quả là nó vẫn
tồn tại.
14
Thứ tư, là cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức và người có
chức có quyền chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ, ít tính khả thi.
Luật Đất đai 1993, hết thời hạn giao đất, nếu nông dân có nhu cầu và sử dụng đất
đúng pháp luật sẽ được cho thuê tiếp. Điều này đúng về mặt lý thuyết nhưng trên thực
tế lại không có ý nghĩa. Bởi theo cơ chế hiện hành, người xác nhận hiệu quả sử dụng
đất để người có đất được tiếp tục sử dụng hay không là chính quyền địa phương. Cơ
chế này tiềm ẩn nguy cơ xung đột lợi ích. Trong nhiều trường hợp, người dân buộc
phải cầu cạnh chính quyền để giữ đất, cơ hội cho nguy cơ tham nhũng rất cao.
- Một số chính sách thuế như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt còn nặng về
bảo hộ sản xuất trong nước không làm tăng tính cạnh tranh, doanh nghiệp trong nước

không đẩy mạnh nâng cao chất lượng.
- Các bước cải cách thuế vẫn còn nhiều bất cập:
• Bước 1 : thuế quá chồng chéo, trùng lắp và phức tạp
• Bước 2: chưa khắc phục được nhược điểm cơ bản của bước 1, chưa tiên đoán
đầy đủ những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, tình trạng trốn thuế và tránh thuế
chưa được giải quyết triệt để.
• Bước 3 : Cơ cấu không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những
khó khăn nhất định.
- Quá trình cổ phần hóa các DNNN trên thực tế vẫn còn thấp.
- Mặc dù, các doanh nghiệp Nhà nước đang chiếm giữ một nguồn lực rất lớn của
xã hội, nhưng sự đóng góp cho nền kinh tế không tương xứng, xét về tỷ trọng đóng
góp cho GDP, giải quyết việc làm, hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất (đất đai, tiền
vốn, nguyên vật liệu…) kém hơn các loại hình doanh nghiệp khác.
- Phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng yếu,
chủ chốt của nền kinh tế như dầu khí, điện lực, xi măng, sắt thép, khai khoáng nhưng
hiệu quả sinh lợi không cao; trình độ công nghệ, năng suất lao động của khá nhiều
doanh nghiệp còn thấp; sức cạnh tranh còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế và chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước.
15
III. Giai đoạn 2006 – nay
Nhà nước và pháp luật đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế. Nhà nước ban hành các chính sách pháp luật nhằm hỗ trợ kinh tế và
kiềm chế lạm phát.
 Một số các chính sách có tác động lớn đến nền kinh tế trong giai đoạn trên
như:
 Chính sách giảm trần lãi suất huy động
Bảng 4: Diễn biến trần lãi suất huy động từ 2011 đến nay
 Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) được thành lập
theo Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 2006. Với chức năng quản lý, đầu tư và

kinh doanh vốn nhà nước, sự ra đời của SCIC nằm trong tiến trình cải cách kinh tế nói
chung và cải cách doanh nghiệp Nhà nước nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn nhà nước. SCIC là đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, thực
hiện đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nhằm tăng cường vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc thị trường.
 Nhà nước độc quyền vàng miếng: Ngày 25/05/2012, Nghị định về Quản lý
hoạt động kinh doanh vàng bắt đầu có hiệu lực, đưa thị trường vàng miếng vào tầm
kiểm soát. Từ chỗ có trên dưới 10 đơn vị gia công, dập đúc và hàng nghìn điểm kinh
doanh tự phát, giờ đây chỉ Ngân hàng Nhà nước mới có quyền sản xuất vàng miếng.
SJC trở thành vàng miếng thương hiệu quốc gia do Ngân hàng Nhà nước quản lý, các
16
thương hiệu khác tiếp tục được lưu hành nhưng không sản xuất thêm. Tất cả các cửa
hàng nếu muốn tiếp tục kinh doanh vàng miếng phải đăng ký lại với điều kiện khắt
khe về năng lực tài chính và quy mô hoạt động.
 Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam – VAMC thành
lập theo Quyết định số 1459/QĐ – NNHNN ngày 27/06/2013 của Thống đốc NHNN
Việt Nam, là công cụ đặc biệt của NHNN nhằm góp phần đẩy nhanh xử lý nợ xấu,
lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và
thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý. VAMC hoạt động theo Luật doanh nghiệp và
Nghị định 53 của Chính phủ ngày 18/5. VAMC là doanh nghiệp đặc thù do Nhà nước
sở hữu 100% vốn, dưới sự quản lý, thanh tra của NHNN.
 Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hạn chế thất nghiệp và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
 Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.
 Chính sách triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
 Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật
nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên
thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu
dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…;

ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng
sản.
 Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình
giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo,
vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng
các chính sách về an sinh xã hội.
 Kết quả của những chính sách của nhà nước và pháp luật tác động đến
nền kinh tế:
Năm Lạm phát Tốc độ tăng trưởng GDP
2006 6.60% 8.23%
2007 12.36% 8.46%
2008 22.97% 6.31%
2009 6.88% 5.32%
17
2010 11.75% 6.78%
2011 18.58% 5.89%
2012 6.81% 5.03%
Mặt tích cực
 Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đã
chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp
sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một trong
những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới của Việt Nam.
 Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đưa ra mục tiêu tổng quát là ưu tiên
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, đảm bảo
an sinh xã hội…
 Nhận thức lý luận và tư duy kinh tế đã có bước đổi mới, được vận dụng vào
xây dựng đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam. Đường lối đổi mới này đã được
thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
 Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế đã được đổi mới một cách

căn bản với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong
đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
 Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong
cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước đã đi vào cuộc sống, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh
nhân được tự chủ kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
 Giải quyết các vấn đề về xã hội, như thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
xóa đói, giảm nghèo,… một cách tích cực. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện một bước đáng kể.
 Tạo lập một sân chơi bình đẳng hơn cho mọi chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Chính tại sân chơi bình đẳng này, sân chơi được thực hiện thông
qua các quy chế, luật, các pháp lệnh, nghị định về cho vay vốn, cấp và cho thuê mặt
bằng sản xuất, thuế, ưu tiên xuất nhập khẩu, bảo lãnh, thuê mướn lao động, luật bảo
18
hiểm xã hội, chế độ đấu thầu…; rào cản kinh doanh, đặc biệt là ở lĩnh vực xuất nhập
khẩu đã được giảm thiểu, khả năng tiếp cận tới các nguồn lực của những doanh nghiệp
ngoài quốc doanh đã được gia tăng.
 Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm
việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước.
Mặt tiêu cực
 Việc vận dụng một số chủ trương, chính sách và áp dụng các quy định pháp
luật chưa sát với tình hình thực tiễn, thiếu hiệu quả như việc minh bạch tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức, xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng…Việc tự phát hiện hành vi tham nhũng ngay trong từng cơ quan, tổ chức, đơn
vị còn rất hạn chế. Số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện và xử lý còn thấp,
chưa tương xứng với tình hình. Một số vụ việc, vụ án tham nhũng xử lý chậm, kéo dài,
sự phối hợp chưa đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, việc
thông tin chưa đầy đủ, kịp thời đã gây tâm lý hoài nghi trong nhân dân. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền suy thoái đạo đức, lối sống, với nhiều

hình thức, thủ đoạn tham nhũng ngày càng tinh vi, gây bức xúc xã hội.
 Đã có nhiều chính sách, sáng kiến luật pháp và luật ban hành không không
hợp lý và không khả thi đã phải ngừng ban hành hay bãi bỏ:
 Tháng 4 năm 2012, Chính phủ đã phải ngừng ban hành phí hạn chế phương
tiện giao thông cá nhân của Bộ Giao thông-vận tải do người dân không thể chấp nhận
phí này khi họ phải trả tiền mà không sử dụng một dịch vụ nào của Nhà nước.
 Việc đánh giá hệ thống pháp lý chỉ dựa trên hệ thống các văn bản pháp quy
được ban hành mà không tính đến hiệu lực thi hành sẽ dẫn đến kết quả sai lệch.
 Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Diệp Kỉnh Tần cho biết quyết định dừng hiệu
lực thi hành thông tư 33 (có yêu cầu bán thịt trong 8 tiếng) và thông tư 34 (yêu cầu
trứng bán lẻ phải qua khử trùng, đóng gói, có nhãn mác), trước khi cả 2 thông tư có
hiệu lực do các quy định đó không thể thực hiện và kiểm chứng được trong thực tế.
19
CHƯƠNG 3:KINH TẾ VIỆT NAM SO VỚI CÁC NƯỚC KHÁC – KIỆN TOÀN
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ HOÀN THIỆN LUẬT PHÁP TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI
I. Kinh tế Việt Nam so với một số quốc gia tương đồng
Bảng 5: Chỉ số giá tiêu dùng qua các năm
Bảng 6: GDP qua các năm
II. Kiến nghị kiện toàn bộ máy Nhà nước và hoàn thiện luật pháp trong thời kỳ
đổi mới
20
- Về luật pháp: Trên thực tế, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn
thiếu những quy định cần thiết trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Việc phổ biến, giáo dục
pháp luật còn bị xem nhẹ. Công tác thanh kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật
của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập. Công cuộc đổi mới ở nước ta đặt ra
nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật trong
việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của pháp luật
không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế đất nước. Để làm được điều đó đòi hỏi phải tiến hành một cách

đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng.
Thứ nhất – Cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò của pháp
luật trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức đầy đủ
vấn đề này là một quá trình khó khăn và lâu dài. Việc xây dựng và từng bước hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền là vấn đề thực sự có ý nghĩa cấp bách trong điều kiện và
yêu cầu phát triển mới của đất nước, góp phần tăng cường cơ sở pháp lý để người dân
thực hiện quyền làm chủ của mình.
Thứ hai – Cần xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng lộ trình pháp luật hội
nhập kinh tế một cách khoa học nhằm tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
đồng thời bảo vệ được doanh nghiệp Việt Nam trước sự lấn lướt ồ ạt của doanh nghiệp
nước ngoài.
Thứ ba – Quan tâm đến chất lượng của các cơ quan làm luật và đội ngũ cán bộ
thực thi pháp luật. Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy, đội ngũ cán bộ trực tiếp
thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách nhiệm,
mà còn thiếu cái tâm của con người. Có quá nhiều trường hợp cán bộ lợi dụng chức
vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật , xử lý không nghiêm
những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi phạm pháp luật.
Thứ tư – Việc thực thi pháp luật phải nghiêm minh, công bằng. Đứng trước pháp
luật, mọi công dân đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Trong thực thi pháp luật, về
phía Nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải rõ ràng; về
phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách nhiệm thực
hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật.
21
Thứ năm – Cần tổ chức tốt việc đưa pháp luật vào đời sống thông qua hoạt động
giáo dục pháp luật.
- Về Nhà nước: Trải qua gần bảy mươi năm, bộ máy Nhà nước ta đã được
củng cố, phát triển và hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, và xây dựng một chế độ xã hội mới.
Tuy nhiên trong tổ chức và hoạt động, bộ máy Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết

điểm và yếu kém như: tổ chức bộ máy Nhà nước cồng kềnh, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức chưa xác định rõ ràng; tình trạng
quan liêu cửa quyền, xa rời quần chúng… Do đó, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn
thấp. Chúng ta còn phải làm nhiều việc để kiện toàn bộ máy Nhà nước hơn nữa.
Thứ nhất – Tiếp tục phát huy bản chất dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp, tham gia tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ Nhà nước, kiểm tra và giám
sát các hoạt động của cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước.
Thứ hai – Kiện toàn bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh giản, gọn
nhẹ, hoạt động có hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức Nhà nước
trước công dân.
Thứ ba – Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững
bản chất của Nhà nước, đảm bảo quyền lực nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phát triển bền vững, ổn định./.
22

×