Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

bài tập lớn môn kinh tế , khoa kinh tế biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.46 KB, 44 trang )

BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
MỤC LỤC
PHẦN I LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN II NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: Nền kinh tế Việt Nam hiện nay với đầu tư nước ngoài 3
1. Giới thiệu môn học, vị trí của môn học trong chương trình Đại học 3
2. Giới thiệu chung về nền kinh tế Việt Nam sau thời kì đổi mới đến nay 5
3. Giới thiệu về FDI, nêu rõ vai trò và tầm quan trọng của FDI đối với nền kinh
tế Việt Nam 15
CHƯƠNG 2: Đánh giá vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam giai
đoạn 1987 đến nay
18
1.Tìm hiểu và phân tích số liệu về FDI, nêu rõ lợi ích của FDI đối với nền kinh
tế nước ta 18
2.Thống kê số liệu về FDI từ năm 1987 đến nay, lập bảng và vẽ biểu đồ về sự
thay đổi của FDI 23
3. Thống kê đầy đủ các nước đầu tư vào nước ta và phân tích số liệu
30
4.Thống kê đầy đủ các ngành chủ yếu được đầu tư trực tiếp nước ngoài 36
5. Cơ hội thu hút FDI khi ra nhập WTO 38
6.Các biện pháp mà chính phủ sử dụng để thu hút nhiều hơn FDI 40
PHẦN III KẾT LUẬN 43
Kết luận 43
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 1
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Lời mở đầu
Để đánh giá đúng tầm quan trọng của kinh tế vĩ mô, bạn chỉ cần đọc báo và
nghe đài. Các phương tiện truyền thông đại chúng hàng ngày thông tin về chiều
hướng phát triển của nền kinh tế. Những tiêu đề in đậm trên trang nhất như THU
NHẬP CÁ NHÂN TĂNG BỐN PHẦN TRĂM, QUỸ DỰ TRỮ LIÊN BANG
CHUYỂN SANG CHỐNG LẠM PHÁT, hoặc CỔ PHIẾU GIẢM DO MỌI


NGƯỜI LO SỢ TÌNH TRẠNG SUY THOÁI hầu như không ngày nào không
xuất hiện trên báo chí.
Tất cả các biến số kinh tế vĩ mô đều đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta.
Khi dự báo nhu cầu sản phẩm của chính mình, hội đồng quản trị ở các doanh
nghiệp phải đoán xem thu nhập của người tiêu dùng tăng nhanh đến mức nào.
Người già sống bằng thu nhập cố định thường băn khoăn về tốc độ tăng giá.
Những công nhân thất nghiệp đang tìm kiếm việc làm hi vọng nền kinh tế phục
hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm người. Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi
thực trạng của nền kinh tế.Thực trạng nền kinh tế ra sao thì lại đòi hỏi chúng ta
quản lý nguồn nhân lực hiện có ra sao? Và phát triển nó ra thế nào…?
Việc quản lí nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có tính
khan hiếm. Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức sử dụng các nguồn lực
khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu không có giới hạn của chúng ta một cách
tốt nhất có thể.
Kinh tế học vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học, nghiên cứu về cách
ứng xử nói chung của mọi thành phần kinh tế, cùng với kết quả cộng hưởng của
các quyết định cá nhân trong nền kinh tế đó. Những vấn đề then chốt được kinh tế
học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, lạm phát, thất nghiệp, mức
giá chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế…
Đặc biệt, sau một thời gian bị lãng quên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam lại
đực quan tâm chặt chẽ và kiềm chế lạm phát hiện đang là nhiệm vụ ưu tiên hàng
đầu.Trong bối cảnh nền kinh tế chung bị khủng hoảng trầm trọng,cả thế giới đang
chống chọi với sự khủng hoảng tài chính chưa từng có trong lịch sử, đặc biệt là
cuộc khủng hoảng năm 2008 thì vấn đề đầu tư nước ngoài vào Việt Nam diễn biến
thế nào? Việt Nam đã làm gì để thu hút FDI sau khi hội nhập?

LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 2
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Nền kinh tế Việt Nam hiện nay với đầu tư nước ngoài.

1. Giới thiệu về môn học, vị trí của môn học trong chương trình đại học.
1.1 Giới thiệu môn học:
Kinh tế học
-Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào
nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu
của cá nhân và toàn xã hội
Kinh tế học vĩ mô
-Kinh tế học vĩ mô - một phân nghành của kinh tế học - nghiên cứu sự vận
động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong kinh tế học vĩ mô chúng ta tìm cách giải quyết hai vấn đề. Thứ nhất,
chúng ta tìm cách nắm bắt phương thức hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Thứ
hai, chúng ta tìm cách giải đáp câu hỏi là liệu chính phủ có thể làm điều gì để cải
thiện thành tựu chung của toàn bộ nền kinh tế. Tức là chúng ta quan tâm đến cả
giải thích và khuyến nghị về chính sách.
Giải thích liên quan đến nỗ lực để hiểu hành vi của nền kinh tế trên bốn
phương diện cơ bản: sản lượng và tăng trưởng kinh tế; việc làm và thất nghiệp; sự
biến động của mức giá chung; và thu nhập ròng nhận được từ thương mại và tài
chính quốc tế. Kinh tế học vĩ mô tìm cách giải thích điều gì quyết định đến các biến
số đó, tại sao chúng lại biến động theo thời gian và mối quan hệ giữa chúng.
Trong kinh tế học vĩ mô chúng ta tìm hiểu phương thức hoạt động của toàn
bộ nền kinh tế. Tuy nhiên chúng ta không thể xem xét mọi giao dịch cá nhân trên
tất cả các thị trường trong nền kinh tế. Trái lại chúng ta cần phải đơn giản hóa,
trừu tượng hóa thế giới hiện thực. Chúng ta sử dụng phương pháp trừu tượng hóa
để giảm bớt các chi tiết phức tạp của nền kinh tế, nhằm tập trung phân tích những
mối quan hệ kinh tế then chốt, qua đó dễ dàng phân tích, đánh giá và dự báo hành
vi của các biến số quan trọng. Quyết định nghiên cứu các biến số tổng hợp, chứ
không phải nghiên cứu các biến số đơn lẻ cũng là một sự trừu tượng hóa. Đặc biệt
trong những năm gần đây và dự đoán trong nhiều năm tới, các mô hình kinh tế
lượng vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý thuyết kinh tế học vĩ

mô hiện tại.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 3
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Một quốc gia, có thể có những lực chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng
buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị xã hội. Song sự lựa
chọn đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính
khách quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức
và công cụ phân tích kinh tế đó. Ngày nay, những kiến thức và công cụ phân tích
này càng được hoàn thiện thêm để có thể mô tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô
cùng phức tạp của chúng ta.
Phương pháp nghiên cứu:
Mỗi quốc gia có thể những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng buộc
của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song, sự lựa chọn
đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính khách
quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và công
cụ phân tích kinh tế đó. Những kiến thức và công cụ phân tích này được đúc kết từ
nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc
nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay, chúng càng được hoàn thiện thâm để có thể mô
tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta.
Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh
tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng hợp, tức là
xem xét sự cân bằng đồng thời tất cả các thị trường hàng hóa và các nhân tố. xem
xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ của nền kinh tế, từ đó
xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng. Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô cũng
sử dụng những phương pháp nghiên cứu phổ biến như: tư duy trừu tượng, phương
pháp phân tích thống kê số lớn, mô hình hóa kinh tế, Đặc biệt những năm gần
đây và tương lai, các mô hình kinh tế lượng, kinh tế vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng trong các lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
1.2 Vị trí của môn học trong chương trình học đại học:
Kinh tế học vĩ mô là một trong những chủ đề quan trọng nhất đối với sinh

viên vì tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của sinh viên. Mức
việc làm và mức thất nghiệp chung sẽ quyết định khả năng tìm kiếm việc làm sau
của chúng ta sau khi tốt nghiệp, khả năng thay đổi công việc và khả năng thăng
tiến trong tương lai. Mức lạm phát sẽ ảnh hưởng đến lãi suất mà chúng ta có thể
nhận được từ khoản tiết kiệm của chúng ta trong tương lai.
Kinh tế vĩ mô sẽ giúp cung cấp cho chúng ta những nguyên lý cần thiết để
hiểu rõ tình hình kinh tế của đất nước, đánh giá các chính sách kinh tế mà Chính
phủ đang thực hiện và dự đoán các tác động của những chính sách đó tới đời sống
của chúng ta như thế nào?
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới,
đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, trong đó tất cả
hàng hóa và dịch vụ được lưu chuyển qua biên giới các quốc gia.Lần đầu tiên mọi
người đều chơi theo một luật chơi chung “ Luật chơi của kinh tế thị trường toàn cầu “
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 4
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Đây là một thách thức rất lớn. Người thắng sẽ có lợi nhuận ,thu nhập cao, thành đạt
trong cuộc sống và kẻ thua cuộc sẽ tụt lại đằng sau nhiều khi còn dẫn đến phá sản. Vì
vậy , vị trí bộ môn kinh tế trong các trường đại học có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Nó trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về kinh tế học. về kinh tế vi
mô hay kinh tế vĩ mô. Nó giúp cho sinh viên làm quen với các khái niệm kinh tế
2. Giới thiệu chung về nền kinh tế Việt Nam sau thời kì đổi mới đến nay.
2.1 T×nh h×nh kinh tÕ x· héi ViÖt Nam.–
2.1.1. Những thành tựu mới.
a.Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việt Nam là một nước đang phát triển với dân số đông, trong hơn 30 năm
qua đang phải phục hồi khỏi sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát chỗ dựa về tài
chính sau khi Liên bang Xô viết tan rã và sự cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung. Sau nhiều năm với các cuộc chiến tranh kéo dài, trong hoàn cảnh bị cô lập
về chính trị và trì trệ về kinh tế, Việt Nam đang nhanh chóng hòa mình vào dòng chảy

chung của kinh tế và chính trị thế giới. Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện
chính sách Đổi Mới (cải cách kinh tế), hướng tới một nền kinh tế thị trường. Trong
môi trường tự do đầu tư, những nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đang thể hiện rõ
sự quan tâm chưa từng có đối với Việt Nam.
Tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Việt Nam đạt mức 8-9,5% trong
suốt hơn mười năm cho đến năm 1997. Mặc dù vậy, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế Châu Á, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giảm xuống còn 5,8% năm
1998, 4,7% năm 1999 nhưng sau đó phục hồi và đạt mức 6,7% năm 2000, 7% năm
2002, 7,7% năm 2004, 8% năm 2006 và 8,5% năm 2007. Tăng trưởng công nghiệp
đạt trung bình từ 12 đến 14% trong suốt hơn một thập kỉ vừa qua. Đại hội Đảng lần
thứ 10 diễn ra năm 2005 đúc kết những mục tiêu kinh tế then chốt cho kết hoạch phát
triển kinh tế xã hội năm năm 2006-2010 như sau:
Tốc độ tăng trưởng GDP: từ 7,5 đến 8% / năm trong đó:
- Nông, lâm, ngư nghiệp: 3% đến 3,2% / năm.
- Công nghiệp và xây dựng: 9,5% đến 10,2% / năm.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 5
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
- Dịch vụ : 7,7% đến 8,2% / năm.
Cơ cấu kinh t ế năm 2010:
- Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm : 15% đến 16% GDP
- Công nghiệp và xây dựng chiếm : 43% đến 44% GDP
- Dịch vụ chiếm : 40% đến 41% GDP
Các cơ quan chức năng Việt Nam một lần nữa thể hiện cam kết của mình về
tự do hóa kinh tế và hội nhập quốc tế. Chính phủ đã thực hiện cải cách cơ cấu tổ chức,
điều cần thiết để hiện đại hóa nền kinh tế và sản xuất ra những mặt hàng công nghiệp
có sức cạnh tranh cao hơn cũng như hướng về xuất khẩu. Việc Việt Nam gia nhập khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và kí kết có hiệu lực Hiệp định thương mại song
phương Việt Nam- Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2001 đã tạo ra những sự thay đổi nhanh
chóng hơn đối với thể chế kinh tế và thương mại của Việt Nam. Nó đồng thời sẽ tạo
ra một cú hích quan trọng cho nền kinh tế và giúp đảm bảo tiến trình cải cách tiến tới

tự do hóa. Bên cạnh đó, việc gia nhập các tổ chức trên cũng giúp Việt Nam. Nó đồng
thời sẽ tạo ra một cú hích quan trọng cho nền kinh tế và giúp đảm bảo tiến trình cải
cách tiến tới tự do hóa. Bên cạnh đó, việc gia nhập các tổ chức trên cũng giúp Việt
Nam tận dụng được sự lệch pha của Hiệp định dệt may, giúp xóa bỏ hạn ngạch đối
với hàng dệt may và vải vóc đối với các thành viên của WTO từ 1 tháng 1 năm 2005.
Tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo, được xác định bằng tỉ lệ dân số sống dưới mức 1
USD / ngày, đã giảm đáng kể và thấp hơn các nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ và
Philippines. Việt Nam đang cố gắng tạo việc làm để đáp ứng nhu cầu của lực lượng
lao động mỗi năm tăng hơn 1 triệu người, đồng thời hướng đến tỉ lệ tăng trưởng kinh
tế hàng năm ở mức 7,5 đến 8% trong suốt 5 năm tới.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu là nền kinh tế bằng sông Hồng ở miền Bắc
và đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam là hai khu vực nông nghiệp chủ yếu với
những nông sản chính bao gồm gạo, hồ tiêu, đay, cao su, đường mía, cà phê, chè, cây
họ lạc và thuốc lá. Nhờ những cải cách lớn trong lĩnh vực nông nghiệp, chẳng hạn
việc áp dụng hình thức khoán, cùng với sự tăng lên của đầu tư trực tiếp, các ưu đãi về
thuế và giá thu mua lương thực cao hơn từ Chính phủ, tổng sản lượng lương thực gia
tăng lên đáng kể từ 1988 trở đi.
Một trong những tác động của sự phát triển quá nhanh của công nghiệp ở Việt
Nam chính là việc đất nông nghiệp bị chuyển đổi sang đất khu công nghiệp. Điều này
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 6
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: tỉ trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ
20,6% năm 2006 xuống còn 24,5% năm 2000. (Ngành công nghiệp và dịch vụ đóng
góp tới hơn 90% tổng tăng trưởng GDP năm 2007) Sản lượng chè, cà phề và cao su tự
nhiên đã giúp đẩy mạnh xuất khẩu trong ngành nông nghiệp. Nhu cầu tăng cao từ các
thị trường nước ngoài cũng giúp củng cố thêm sức tăng trưởng của ngành ngư nghiệp.
Hiện tại Việt Nam là nước sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất thế giới, đứng thứ 2
sau Thái Lan về xuất khẩu gạo, thứ 2 sau Bra-xin về cà phê và sau Ấn Độ về hạt điều,
đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu cao su và thứ 7 thế giới về xuất khẩu chè. Chính
phủ đang tập trung mạnh vào các cây hoa màu với tiềm năng xuất khẩu cũng như tập

trung vào xây dựng ngành công nghiệp chế biến nông sản. Với mục đích khuyến
khích nông dân đầu tư lâu dài và tăng năng suất, Luật Đất đai mới đã được kì họp
Quốc hội vào tháng 7 năm 1993 thông qua, trong đó công nhận những quyền của
nông dân trong việc trao đổi, chuyển giao, cho thuê và thừa kế phần đất đã được phân
phối. Cơ cấu thuế cũng đã có thêm một số thay đổi liên quan đến chuyển giao quyền
sử dụng đất để đảm bảo sự cân bằng trong mức thu thuế của chính quyền trung ương
và địa phương. Mặc dù vậy, đất đai vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước, phù hợp với
Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các nhà đầu tư coi Việt Nam là điểm đến hấp dẫn thứ nhì trong khu vực sau
Trung Quốc. Trong 7 tháng đầu năm 2008, đã có hơn 45,49 tỉ USD vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI được cấp giấy chứng nhận đầu tư vào Việt Nam. Về tổng vốn
cam kết, 654 dự án đầu tư mới đăng ký tổng vốn 43,7 tỉ USD và 188 dự án đang hoạt
động quyết định tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt 788 triệu USD. Tổng kim ngạch
buôn bán trong 7 tháng đầu năm 2008 đạt 88,77 tỉ USD nhưng mức thâm hụt thương
mại trong cùng khoảng thời gian cũng lên tới 15 tỉ USD.
Tuy vậy, nếu so với thành tích tăng tỉ lệ tăng trưởng cao trong những năm gần
đây thì tăng trưởng kinh tế đang chậm lại. Theo nguồn của chính phủ Việt Nam, trong
quý hai năm 2008, GDP thực tế tăng chỉ 5,6% so với cùng kì năm ngoái, mức tăng
thấp nhất kể từ năm 2000. Đây cũng là kết quả của chính sách có tính toán từ trước
giảm tăng trưởng của tín dụng nội địa nhằm kiềm chế lạm phát. Trong bảy tháng đầu
năm 2008, chỉ số CPI tăng 19,78%. Nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư
nghiệp) tăng 3% trong nửa đầu năm 2008, tăng nhẹ so với con số 2,8% trong nửa đầu
năm 2007. Toàn ngành công nghiệp đạt mức tăng trưởng 7% trong hai quý đầu, giảm
so với mức 9,9% đạt được nửa đầu năm
2007. Nguyên nhân chính của của sự suy giảm này chính là sự sụt giảm mạnh
của ngành xây dựng. Sản xuất, mặc dù vậy, vẫn tăng trưởng tốt, đạt mức tăng 11,4%
trong nửa đầu ngoái. Mặc dù mức tăng GDP khá khiêm tốn, sản lượng công nghiệp
vẫn tiếp tục tăng vọt lên mức 16,5% trong nửa đầu năm 2008.
Quan hệ kinh tế của Việt Nam đã được đa dạng hóa một cách rõ rệt và trao đổi
kinh tế của Việt Nam với các nước láng giềng trong ASEAN, với Hoa Kỳ, Liên minh

LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 7
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Châu Âu, Hàn Quốc, Australia và Singapore đã được mở rộng và tăng trưởng nhanh
chóng. Một số ngân hàng nước ngoài đã được cấp giấy phép mở chi nhánh tại Việt
Nam và rất nhiều trong số đó đã bắt đầu hoạt động ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Singapore, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc chính là những nhà đầu tư lớn
nhất vào Việt Nam.
Nhân tố then chốt giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển chính là thương mại.
Trong giai đoạn 2001-2007, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mỗi năm 17,5%. Cả thành
phần và chất lượng của các mặt hàng xuất khẩu được nâng lên trông thấy. Tỉ lệ sản
phẩm công nghiệp trong các sản phẩm xuất khẩu tăng lên đáng kể. Tổng kim ngạch
nhập khẩu tăng 18,8% mỗi năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt 520 USD một đầu người.
Mặc dù vậy, do phải nhập khẩu số lượng lớn cây trồng, thiết bị và vật liệu cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cho các dự án đầu tư nước ngoài nên thâm hụt
thương mại đã tăng lên trong suốt 3 năm vừa qua. Quan hệ buôn bán với các nước
bạn, đặc biệt là các nước khác trong khu vực được mở rộng.
Sự tăng trưởng của khu vực tư nhân chính là một trong những đặc điểm nổi bật
của sự phát triển kinh tế ở Việt nam trong suốt hơn một thập kỉ qua. Khu vực tư nhân
và vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm hơn một nửa GDP năm 2007. Các ước tính sơ bộ
chỉ ra rằng doanh nghiệp tư nhân tạo ra gần 90% trong tổng số 7,5 triệu việc làm được
tạo ra trong suốt 5 năm từ 2001-2005. Một phần lớn trong số 1,6 triệu việc làm mới ở
Việt Nam cần tạo ra mỗi năm từ 2006 đến 2010 được trông cậy vào khu vực tư nhân.
Tuy vậy, việc thiếu lao động có tay nghề đã trở thành một vấn đề hiển hiện. Các nhà
chức trách của các khu công nghiệp và khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh cho
biết các trường dạy nghề trong thành phố chỉ đáp ứng được khoảng 15% trong số
lượng 500.000 công nhân mà ngành công nghiệp của thành phố có khả năng sẽ cần
đến qua 2010.
Về mặt chính sách, một chiến lược cải cách ngân hàng đã được Chính phủ
dự thảo từ tháng 5 năm 2006. Ngân hàng Nhà nước Việt nam sẽ được chuyển đổi
thành mô hình ngân hàng trung ương, được ủy thác cũng như có chức năng điều hành

chính sách tiền tệ và giám sát các định chế tài chính. Đến năm 2010, các ngân hàng
thương mại quốc doanh sẽ được tái cấu trúc, cổ phần hóa hoặc tư nhân hóa một phần
với nỗ lực cải thiện năng lực hoạt động của các ngân hàng này. Vào tháng 12 năm
2006, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt danh sách các công ty nhà nước sẽ cổ
phần hóa trong giai đoạn từ 2007 đến 2010, bao gồm cả những công ty lớn như Việt
Nam Airlines, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), v.v. Một số ngân
hàng trong nước cũng đã chọn những ngân hàng lớn trên thế giới làm đối tác chiến
lược. Hai ngân hàng nước ngoài là HSBC và Standard Chartered nhận giấy cấp phép
vào tháng 9 năm 2008 để hoạt động tại Việt Nam như các doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Đây là một bước tiến lớn, dỡ bỏ rào cản cho hai ngân hàng này.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 8
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Thị trường chính khoán phát triển vượt xa sức mong đợi chỉ trong một vài năm
gần đây. Một bộ luật liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng quán đã được
thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1 năm 2007. Số công ty niêm yết tăng theo
cấp số nhân và tổng giá trị thị trường tăng gấp gần 20 lần so với thời điểm năm 2005.
Mặc dù vậy, từ năm 2007, thị trường cổ phiếu bắt đầu gặp phải những khó khăn và
vẫn đang trong thời kì lao đao. Chỉ số giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
liên tục giảm điểm trong 9 tháng gần đây, từ mức khá cao gần 1100 điểm vào giữa
tháng 10 năm 2007 xuống còn dưới 500 điểm tại thời điểm hiện tại. Giai đoạn bùng
nổ ban đầu của thị trường cỏ phiếu cũng thúc đẩy nhiều công ty nhà nước phát hành
cổ phần ra các nhà đầu tư hơn. Chi nhánh của một vài công ty nhà nước lớn trong các
lĩnh vực như thủy điện cũng có đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng thành
công.
Việt Nam đang có những bước chuyển mình để cải thiện khả năng quản lý các
doanh nghiệp và điều chỉnh thị trường. Số vốn tối đa mà bên nước ngoài có thể nắm
giữ tại các công ty niêm yết tăng từ 30% lên 49%. Số lượng khách du lịch nước ngoài
đến Việt Nam đạt 4 triệu lượt năm 2007. Việt Nam đã kí các bản ghi nhớ hợp tác và
các hiệp định với một số nước như Malaysia hay Ả rập Xê út về vấn đề xuất khẩu lao
động.

Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến năm 1995, lần đầu tiên, hầu hết các chỉ
tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1991-1995 được hoàn thành và hoàn
thành vượt mức. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền
đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. 1986 – 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ
bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới
đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất.
Từ năm 1991 – 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy
thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân
năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh
CNH – HĐH đất nước.
Từ năm 1996 - 2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu
vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những
thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 9
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng,
tương đương với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1
triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.
Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4
về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và
chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất
và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn

vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi năm đã khai thác
được khoảng gần 20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá
trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công
nghệ ngày càng hiện đại.
Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị
trường lớn. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và xây
dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm
2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc
độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường và
điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính ngày càng được tăng
cường, thu ngân sách tăng trên 18%/năm; chi cho đầu tư phát triển bình quân chiếm
khoảng 30% tổng chi ngân sách.
Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD/năm, đến nay tổng
kim ngạch xuất khẩu đã vượt hơn 50% GDP, tức là trên 25 tỷ USD/năm.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 10
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Một số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới với
những thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng rất nhanh, tăng
15,7%/năm, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở
rộng sang những nền kinh tế lớn.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng khoảng
19%/năm, nhập siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Nhập siêu tuy còn cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm dần.
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công
nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 36% năm 2005, hàng
nông, lâm thuỷ sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công nghiệp nh‹ và tiểu thủ công
nghiệp tăng từ 38,8% lên 39,8%.
Qua 25 năm, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đạt được những thành tựu
như ngày hôm nay là nhờ có Đảng lãnh đạo và do Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng
tạo trong đổi mới tư duy về kinh tế. Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hội VI
(1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ
của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó
có đổi mới tư duy về kinh tế, đột phá khẩu cho đổi mới các lĩnh vực tiếp theo. Tuy
nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi phải xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy
chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới mạnh hơn nữa tư duy kinh tế cho phù hợp với điều
kiện của đất nước, xu hướng phát triển của thế giới và của thời đại. Bước ngoặt trong
đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế là phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn
bản và đến nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều
thành phần kinh tế khác nhau. Qua quá trình phát triển nhận thức, cũng như tư duy lý
luận về các thành phần kinh tế ngày một hoàn chỉnh.
PGS, TS LÊ QUỐC LÝ, Phó giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh.
b. Huy động vốn đầu tư đạt kết quả cao, tạo nguồn lực tăng cường kết cấu hạ
tầng kinh tế-xã hội.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 11
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1

Đầu tư phát triển là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và
giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Vì hoạt động này trực tiếp làm tăng tài sản cố định,
tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực ;
đồng thời góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc
gia nhằm nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí; bảo vệ môi trường sinh thái
và đưa các chương trình phát triển kinh tế-xã hội khác vào cuộc sống
Do nhận thức được vai trò quan trọng của đầu tư phát triển như vậy nên trong
những năm vùa qua có nhiều chính sách và giải pháp khơi dậy nguồn nội lực và tranh
thủ các nguồn lực từ bên ngoài để huy động vốn đầu tư cho phát triển. Riêng năm
2006, Việt Nam đã thu hút được 4,1 tỷ USD FDI, trong đó 2,3 tỷ USD là dự án mới
còn 1,8 tỷ là vốn bổ sung. Doanh nghiệp FDI đóng góp gần 15% GDP, chiếm trên
30% tổng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp 4,9% tổng thu ngân sách nhà nước. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo việc làm cho 34 vạn lao động trực tiếp và
hơn 1 triệu lao động gián tiếp. Nguồn vốn ODA đã giải ngân 7,2 tỷ USD, là một
trong những nguồn vốn của nền kinh tế, bảo đảm tăng trưởng sản xuất ổn định của
các ngành sản xuất và dịch vụ.
Tại Việt Nam, lần đầu tiên hình thành và dần phát triển các loại thị
trường chứng khoán, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất
động sản…
Ngành giao thông vận tải đã làm mới,nâng cấp và cải tạo được 4575km
quốc lộ và trên 65 nghìn km đường giao thông nông thôn; năng lực thông qua
các cảng biển tăng 23,4 triệu tấn; năng lực thông qua các cảng sông tăng 17,2
triệu tấn và năng lực thông qua của các sân bay tăng 8 triệu lượt khách. Ngành
bưu điện tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng và đổi mới công nghệ nên mạng vienx
thồn phát triển nhanh. Đến cuối năm 2005 cả nước có trên 15,8 triệu thuê bao
điện thoại, trong đó 8,7 triệu thuê bao di động và 7,1 triệu thuê bao cố định, nâng
số máy cố định bình quân 100 dân từ 4,2 máy năm 2000 lên 19,1 máy năm
2005.Một phần vốn đầu tư đã dành cho chương trình phát triển kinh tế- xã hội và
xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ tại các xã đặc biệt khó khăn. Tính chung từ năm
1999 đến hết năm 2005 chương trình đã được đầu tư trên 8850 tỷ đồng. Nhờ vậy,

đến hết năm 2004 đã có 97% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung
tâm xã;100% số xã có trạm y tế; 70% số xã có điể bưu điện văn hóa; 90% số xã
có trạm truyền thanh; 65% số xã có cong trình nước sạch và 50% số hộ được sử
dụng nước sạch.
c.Đời sống dân cư tiếp tục được cải thiện ; sự nghiệp văn hóa giá dục,
chăm sóc sức khỏe dân cư và một số lĩnh vực khác có những tiến bộ đáng kể.
Kết quả các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình do “Tổng cục thống kê” tiến hành
những năm vừa qua cho thấy thu nhập bình quân một người một tháng theo giá thực tế
đã tăng từ 356,1 nghìn đống/người/tháng năm 2001-2002 và 636 nghìn
đồng/người/tháng năm 2005-2006. Tính ra thu nhập bình quân một người một tháng theo
giá thực tế năm 2005-2006 tăng 64,2% so với năm 2001.Thu nhập tăng đã tạo điều kiện
tăng tiêu dùng cho đời sống và tăng tích lũy. Chi tiêu cho đời sống bình quân một người
một tháng đã tăng từ 269 nghìn đồng năm 2001-2002 và 460 ngìn đồng năm 2005-2006 .
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 12
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Sự nghiệp giáo dục có những mặt tiến bộ. Đến cuối năm 2005 đã cơ bản
hoàn thành chương trình kiên cố hóa trường học, lớp học.Đến nay 64 tỉnh thành
phố trực thuộc trung ương đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, trong đó 24
địa phương đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và 26 địa phương đạt tiêu
chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp, nhất là dạy nghề được củng cố và có bước phát triển nhất định. Năm học
2004-2005 cả nước có 230 trường đại học và cao đẳng; 285 trường trung học
chuyên nghiệp; 236 trường dạy nghề và 1,5 nghìn cơ sở dạy nghề. So với năm
2000, số trường dạy nghề tăng 70% với quy mô đào tạo tăng 40%. Trong báo cáo
giám sát Giáo dục Toàn cầu năm 2005 , UNESCO đánh giá về tiến độ thực hiện
mục tiêu “giáo dục cho tất cả đến năm 2015” do Lên Hợp Quốc đề ra, chỉ số giáo
dục cho tất cả của nước ta xếp vị trí 64/127, đứng trên một số nước trong khu vực
như In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-pin, Ấn-độ…
Công tác y tế và chăm lo sức khỏe cộng đồng không ngừng mở rộng mạng
lưới phục vụ. Đến hết năm 2004 cả nước có 97,6% số xã, phường, thị trấn có trạm y

tế. Số bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh công lập năm 2004 tăng 27,8% so với
năm 2000, bình quân 1 vạn dân có 6,1 bác sĩ, tăng 1,1 bác sĩ so với bình quân năm
2000. Đáng chú ý là năm 2003 nước ta đã khống chế được dịch viêm đường hô hấp
cấp (SARS ), được Tổ chức Y tế thế giới công nhận là quốc gia đầu tiên khống chế
thành công dịch bệnh này.Những năm 2004-2005 cũng đã khống chế được sự lây
lan của dịch cúm gia cầm H5N1.Hoạt động của ngành y tế những năm vừa qua đưa
tuổi thọ bình quân của dân số nước ta tăng: Trong vòng 4 thập kỷ qua, Việt Nam
đứng thứ 8 trên thế giới trong danh sách các quốc gia có nhiều tiến bộ về thu nhập
bình quân đầu người (tăng gấp 5 lần). Tuổi thọ trung bình ở Việt Nam tăng đáng
kể, từ 49 tuổi vào năm 1970 lên mức 75 tuổi vào năm nay, cao hơn Thái Lan
(69,3), Philippines (72,3) và tuổi thọ bình quân ở khu vực Đông Á - Thái Bình
Dương (72,8).
Về bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 58/138 quốc gia có đủ số liệu, được
đánh giá là thực hiện tốt khi xét tới tỷ lệ sinh sản tuổi vị thành niên, tỷ lệ nữ trong
Quốc hội và tỷ lệ nữ tham gia lao động.
Theo Báo cáo phát triển con người 2010 của Chương trình phát triển Liên
hợp quốc (UNDP), Việt Nam đứng thứ 113/169 trong bảng xếp hạng về chỉ số
phát triển con người (HDI), cao hơn năm 2009 một bậc.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam “ sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
tất cả các nước” đã đem lại những kết quả rất tích cực. Đến nay, Việt Nam có quan
hệ ngoại giao với 168 nước trên thế giới và quan hệ thương mại với 165 nước và
vùng lành thổ. Hiện nay, là thành viên tích cực của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế
và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN , APEC, ASEM…Việt Nam cũng mới gia
nhập WTO năm 2007, tạo nhiều thời cơ và thách thức cho các doanh nghiệp trong
và ngoài nước.
2.1.2. Hạn chế và bất cập
a. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp và
chứa nhiều mặt mất cân đối.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 13
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1

Những năm vừa qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng bình quân mỗi năm
7,51% là một thành công, nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh
tế còn nhỏ bé, giá trị tăng thêm của 1% tăng lên không cao và do vậy đén nay
nước ta vẫn chưa thoát khỏi danh sách những nước đang phát triển có thu nhập
thấp.
Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người tính bằng đô la Mỹ theo tỷ
giá hối đoái năm 2006 của nước ta chỉ bằng 53,05% của Phi-lip-pin; 44,21% của
In-đô-nê-xi-a; 35,86% của Trung Quốc ;22,23% của Thái Lan và bằng 12,53% của
Ma-lai-xi-a. Nếu tính theo sức mua tương đương thì cũng có tình trạng thấp thua
tương tự. Chính do tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người thấp nên mặc
dù chỉ số tuổi thọ trung bình và chỉ số giáo dục tương đối cao nhưng chỉ số HDI
vẫn rất thấp ( Trong báo cáo Phát triển con người năm 2005 của UNDP về các
thành tố cấu thành chỉ số HDI thì chỉ số tuổi thọ trung bình của nước ta đạt 0,76;
chỉ số giáo dục đạt 0,82, nhưng chỉ số tổng sản phẩm trong nước chỉ đạt 0,54%
nên chỉ số HDI bị kéo xuống mưc 0,704).
Do tiềm lực còn hạn hẹp nên sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta thấp thua
nhiều so với các nước trong khu vực và trên Thế giới.Theo báo cáo Cạnh tranh Toàn
cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế Giới (WEF) công bố những năm gần đây thì chỉ số
cạnh tranh tăng trưởng (GCI) của nền inh tế nước ta từ vị trí thứ 60/101 năm 2003 đã
lùi xuống vị trí 79/104 năm 2004 và 81/117 năm 2005; chỉ số cạnh tranh doanh
nghiệp (BCI) cũng thụt từ vị trí 50/102 năm 2003 xuống 79/104 năm 2004 và 80/116
năm 2005, nhưng đến năm 2010 chỉ số cạnh trạnh tăng trưởng là 59/131 so với nền
kinh tế thế giới, vượt 13 bậc so với năm ngoái( 75/ 133 quốc gia).
b.Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc
chậm được khắc phục.
Trong những năm vừa qua, tỷ lệ hộ nghèo của nước ta đã giảm đáng kể,
nhưng đến nay vẫn còn tương đối cao. Một bộ phận dân cư, nhất là dân cư sinh
sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người đời sống vẫn rất
khó khăn.
Một thực tế đáng quan tâm khác là tuuy thu nhập trong những năm vừa qua

của tất cả các nhóm dân cư đều tăng với tốc độ khá, nhưng xét về lượng tăng tuyệt
đối thì lại có sự chênh lệch đáng kể. Thu nhập bình quân một người một tháng của
nhóm thu nhập cao nhất năm 2003-2004 tăng 309,4 nghìn đồng, nhưng của nhóm
ngành thấp nhất chỉ tăng 34,1 nghìn đồng, bằng 11% mức tăng của nhóm thu nhập
cao nhất. Với mức tăng 34,1 nghìn đồng/người/tháng, trong bối cảnh chỉ số giá
tiêu dùng tăng tương đối cao trong những năm vừa qua thì thu nhập thực tế của
nhóm thu nhập thấp được cải thiện không nhiều.
Một vấn đề bức xúc khác chậm được giải quyết đang gây áp lực lớn đối với
việc giải quyết nhiều vấn đề về kinh tế xã hội có liên quan, đó là tình trạng thất
nghiệp và thiếu việc làm. Theo kết quả điều tra lao động và việc làm, những năm
vừa qua tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị có giảm
nhưng rất chậm và đến nay vẫn còn ở mức 5-6% .
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 14
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
3. Giới thiệu về FDI, nêu rõ vai trò và tầm quan trọng của FDI đối với nền
kinh tế Việt Nam
3.1. Khái quát về đầu tư, đầu tư nước ngoài(FDI) :
3.1.1 Khái niệm và đặc điểm của đầu tư:
Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ
sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội.
Nguồn vốn đầu tư này có thể là những tài sản hữu hình như đất đai, nhà
cửa, nhà máy, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng chế, phát
minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương
mại Các doanh nghiệp còn có thể đầu tư bằng cổ phần, trái phiếu, các quyền về
sở hữu tài sản khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc các quyền có giá trị về mặt
kinh tế như các quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Đối với nền kinh tế nói chung, toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một
thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm, đáp

ứng nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu
tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh
tế, mức độ cải thiện đời sống trong tương lai.
3.1.2 Khái niệm và đặc điểm của đầu tư nước ngoài(FDI):
Đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài
để tiến hành sản xuất kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục
tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Thuật ngữ FDI là viết tắt của từ “Foreign Direct Investment”
Đầu tư nước ngoài mang đầy đủ những đặc trưng của đầu tư nói chung.
Tuy nhiên, nó có thêm một số đặc điểm quan trọng khác so với đầu tư nội địa:
- Chủ đầu tư là người nước ngoài. Đặc điểm này có liên quan đến các khía cạnh
về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán, Nói chung, đây là các yếu
tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các chủ đầu tư ở nước ngoài.
- Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới. Đặc điểm này có liên quan chủ
yếu đến các khía cạnh về chính sách, pháp luật, hải quan và cước phí vận chuyển.
Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình
thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ
xung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các
công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Nhiều trường hợp, việc buôn bán hàng hoá
ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật lệ để đi đến quyết định đầu tư.
Đến lượt mình, việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở tại lại là điều
kiện để xuất khẩu máy móc, vật tư nguyên liệu và khai thác tài nguyên của nước
chủ nhà.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 15
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài
ngày càng phát triển mạnh mẽ hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính
quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu. Sự phát triển của đầu tư quốc tế gắn liền
với quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các quốc gia và sự phát triển của xu
hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Nhu cầu về vốn của các nước đang phát triển và

sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn làm cho đầu tư
nước ngoài diễn ra với quy mô ngày càng lớn, đa dạng và rộng khắp.
3.2 Phân loại đầu tư nước ngoài:
3.2.1. Đầu tư tư nhân:
Đầu tư tư nhân bao gồm ba loại: Đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng khoán, tín
dụng thương mại. Ở đây, ta sẽ tìm hiểu kĩ về đầu tư trực tiếp.
Đầu tư trực tiếp: là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp
vào quá trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như
phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể
được thực hiện dưới các dạng: hợp đồng, liên doanh, công ty cổ phần, công ty
trách hiệm hữu hạn.
Đây là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư
toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành
hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ
thương mại.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm sau :
Đây là hình thức đầu tư bằng vốn tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định
đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình
thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về
chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. Chủ đầu tư nước ngoài
điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỉ lệ góp vốn của
mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham
gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%;
51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật Đầu tư nước
ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước
ngoài và quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự
án.
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công

nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý Đây là những mục tiêu mà
các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Nguồn vốn đầu tư này không
chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định
trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển
khai hoặc mở rộng dự án cũng như
vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 16
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
3.2.2. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn
lại và các khoản viện trợ có hoàn lại của chính phủ, các tổ chức liên hợp quốc, các
tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho chính phủ và nhân
dân nước nhận viện trợ.
Hỗ trợ phát triển chính thức có các đặc điểm sau :
- Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp
điều hành dự án, nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ
trợ chuyên gia. Tuy nước chủ nhà có quyền quản lí sử dụng vốn ODA, nhưng
thông thường danh mục dự án ODA phải có sự thoả thuận với các nhà tài trợ. Hỗ
trợ phát triển chính thức chủ yếu dành cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như
giao thông vận tải, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội.
- Các nước nhận vốn ODA phải hội đủ một số điều kiện nhất định mới
được nhận tài trợ. Điều kiện này tuỳ thuộc vào quy định của từng nhà tài trợ.
Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. Tuy
vậy nếu quản lí, sử dụng vốn ODA kém hiệu quả vẫn có thể để lại gánh nặng nợ
nần cho tương lai.
3.3 Tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh
tế:
3.3.1. Vị trí:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng. Nó thúc đẩy
nền kinh tế phát triển nhanh và toàn diện hơn.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm tăng khả năng về vốn, kinh nghiệm quản
lý cho nước nhận đầu tư.
- Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nước nhận đầu rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một yếu tố cần thiết và
quan trọng để có thể đưa nền kinh tế bắt kịp với thế giới.
3.3.2. Ý nghĩa:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với nền
kinh tế của một nước.
- Tạo thu nhập cho nước nhận đầu tư.
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động.
3.3.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là yêu cầu tất yếu của quá trình toàn cầu
hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Với những đặc điểm của mình, FDI đóng
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 17
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
vai trò quan trọng trong nền kinh tế đối với cả nước nhập khẩu đầu tư và nước
xuất khẩu đầu tư, thúc đẩy các nước này gia tăng liên kết, nhằm duy trì nhịp độ
tăng trưởng kinh tế của nước mình. FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển của bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. FDI đã đem lại một hơi thở mới
cho nền kinh tế thế giới, mở cửa cho sự toàn cầu hóa lan rộng khắp thế giới.
-FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích lũy
nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện khoa học, kỹ thuật
thế giới phát triển mạnh.
-Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài đã
chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho nước tiếp nhận đầu
tư, do đó các nước tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật
tiên tiến, hiện đại, những kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing, đội ngũ lao
động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt ( trình độ kỹ thuật, phương pháp làm

việc, kỷ luật lao động )
-Đầu tư FDI làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, thúc đẩy
tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu
quả các tiềm năng của đất nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tích cực.
-Với việc tiếp nhận FDI, không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu
những ràng buộc về chính trị, xã hội. FDI góp phần tăng thu cho ngân sách nhà
nước thông qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với
nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư cso điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới.
Như vậy, các nước có khả năng tốt hơn trong việc huy động tài chính cho các dự
án phát triển.
Tuy nhiện, bên cạnh những ưu điểm, FDI cũng có những hạn chế nhất định.
Đó là nếu đầu tư vào nơi có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu
tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho
đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dễ dẫn đến đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tham
nhũng, tài nguyên thiên nhiên bị khi thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
Chương 2: Đánh giá vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn
1987 đến nay
1.Tìm hiểu và phân tích số liệu FDI, nêu rõ lợi ích của FDI đối với nền kinh tế
nước ta
Việt Nam bắt đầu chủ trương hội nhập kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII (1996), chủ trương này càng được đẩy mạnh. Hội nhập kinh tế
của Việt Nam diễn ra càng ngày càng nhanh và càng sâu. Từ chỗ chỉ hợp tác
thương mại thông thường đã tiến tới hợp tác kinh tế toàn diện, từ chỗ hợp tác song
phương đã tiến tới hợp tác kinh tế đa phương. Cho đến giữa năm 2007, Việt Nam
đã có quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã ký hơn 350
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 18
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1

hiệp định hợp tác phát triển song phương, 87 hiệp định thương mại, 51 hiệp định
thúc đẩy và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định tránh đánh thuế hai lần, 81 thoả thuận về
đối xử tối huệ quốc. Đỉnh cao về hợp tác kinh tế song phương là việc ký hiệp định
đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản ,còn về hợp tác kinh tế đa phương là việc ký
hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tiêu chuẩn “WTO Plus”,
nghĩa là chấp nhận các đòi hỏi về tự do hóa thương mại (hàng hóa và dịch vụ), đầu
tư, mua sắm của chính phủ cao hơn so với mức độ quy định trong các văn kiện có
hiệu lực đang áp dụng của WTO.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục xu thế gia tăng và sự hiện diện
mạnh mẽ của các khoản đầu tư tài chính gián tiếp là điểm khác biệt nổi trội giữa
các giai đoạn 2007-2008 và 1997-1998, 1991-1992. Trong những năm đầu của
thập kỷ 1990, qui mô FDI vào Việt Nam ở quanh mức 2 tỉ USD/năm, thấp hơn
lượng vốn đăng ký FDI của những năm 1999-2003, sau khủng hoảng tài chính
châu Á. Khủng hoảng khu vực năm 1997 ngay lập tức tấn công vào hệ thống tín
dụng-ngân hàng và tạo thành làn sóng rút vốn đầu tư ra khỏi châu Á. Những nhà
đầu tư lớn vào Việt Nam đến từ các quốc gia láng giềng trong khu vực cũng tức
thì lâm vào trạng thái thiếu tiền mặt. Một vài nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận ngắn
hạn xuất hiện và đã vận hành khá tốt tại Việt Nam. Tuy nhiên, những rào cản hạn
chế khả năng chuyển đổi từ tiền đồng sang ngoại tệ và cơ chế hành chính cồng
kềnh tại Việt Nam đã tạo lợi thế cạnh tranh cho các nền kinh tế Thái Lan và Hàn
Quốc. Số lượng dự án đăng ký mới giảm sút từ 349 năm 1997 xuống còn 285 và
327 trong các năm 1998 và 1999. Nhưng quy mô vốn đầu tư mới thực sự là yếu tố
suy giảm mạnh. Năm 1997 có 5,6 tỉ USD FDI đăng ký vào Việt Nam. Con số này
chỉ còn 5 tỉ USD trong năm 1998. Và trong hai năm tiếp theo, lượng vốn đăng ký
chỉ còn khoảng 50% của năm 1997. Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ
1998 - 2000 dừng ở mức trên 2,3 tỉ USD mỗi năm.
Trong thời gian tới Việt Nam vẫn có thể là điểm đầu tư thu hút sự quan tâm của
cộng đồng tài chính quốc tế, với một số căn cứ quan trọng sau đây: Dòng vốn FDI
tiếp tục tăng, không có hiện tượng dòng chảy FPI xáo trộn lớn; Chính sách thắt
chặt tiền tệ tiếp tục được đồng thuận, duy trì và bắt đầu có hiệu quả; Các phương

pháp điều khiển tín hiệu rõ hơn với nền kinh tế, điều mà Việt Nam không làm
được trong suốt thời kỳ biến động của nửa đầu năm 2008; Việc tăng cường kiểm
soát hệ thống siêu quyền lực ngân hàng là bước đi hợp lý; Quá trình điều hành cơ
chế tỷ giá hỗn hợp đang hình thành và hiệu chỉnh dần độ lệch trong ngắn hạn,
phần lớn gây ra bởi tâm lý đầu cơ và bất an. Sự nới lỏng kiểm soát sẽ giúp hệ
thống dự trữ quốc gia bền vững hơn.
Việt Nam đã công nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam trên nhiều phương
diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả năng thanh toán quốc tế, phát triển xuất khẩu,
tham gia vào các thị trường quốc tế, ….
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 19
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt nam tính đến hết tháng 05/2011
26/05/2011
Theo các báo cáo nhận được, tính đến ngày 20 tháng 5 năm 2011 cả nước có 313
dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 3,52 tỷ USD, bằng 42,7% so
với cùng kỳ năm 2010. Đến 20 tháng 5 năm 2011, có 101 lượt dự án đăng ký tăng
vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 1,161 tỷ USD, tăng 49,5% so với
cùng kỳ năm 2010. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 5 tháng đầu năm
2011, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 4,688 tỷ USD,
bằng 51,9% so với cùng kỳ 2010.
1.1 Tình hình hoạt động:
1.1.1 Vốn thực hiện:
Trong 5 tháng đầu năm 2011, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã giải ngân được 4,52 tỷ USD, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2010.
1.1.2 Tình hình xuất, nhập khẩu:
Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu khí) trong 5 tháng đầu năm 2011
dự kiến đạt 19,017 tỷ USD, tăng 34,2% so với cùng kỳ năm 2010 và chiếm
54,73% kim ngạch xuất khẩu. Nếu không tính dầu thô, khu vực ĐTNN dự kiến
xuất khẩu 16,028 tỷ USD, chiếm 46,12% tổng xuất khẩu và tăng 33,7% so với

cùng kỳ 2010. Nhập khẩu của khu vực ĐTNN tính đến tháng 5 năm 2011 đạt
17,64 tỷ USD, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm 2010 và chiếm 42,67% kim ngạch
nhập khẩu. Tính chung 5 tháng, khu vực ĐTNN xuất siêu 1,376 tỷ USD, trong khi
cả nước nhập siêu 6,589 tỷ USD; nếu không tính xuất khẩu dầu thô, khu vực
ĐTNN nhập siêu 1,613 tỷ USD.
1.2 Tình hình cấp GCNĐT:
Theo các báo cáo nhận được, tính đến ngày 20 tháng 5 năm 2011 cả nước
có 313 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 3,52 tỷ USD,
bằng 42,7% so với cùng kỳ năm 2010.
Đến 20 tháng 5 năm 2011, có 101 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với
tổng vốn đăng ký tăng thêm là1,161 tỷ USD, tăng 49,5% so với cùng kỳ năm
2010.
Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 5 tháng đầu năm 2011, các nhà
đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 4,688 tỷ USD, bằng 51,9% so
với cùng kỳ 2010.
1.2.1 Theo lĩnh vực đầu tư:
Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đứng thứ nhất với 151 dự án đầu tư
đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 2,737 tỷ USD, chiếm 58,4%
tổng vốn đầu tư đăng ký từ đầu năm đến nay. Trong khi đó, đứng thứ 2 là lĩnh vực
Xây dựng với 36 dự án đầu tư mới, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là
352,66 triệu USD, chiếm 7,5%. Tiếp theo là lĩnh vực Dịch vụ lưu trú và ăn uống
với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 350,98 triệu USD.
1.2.2 Theo đối tác đầu tư::
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 20
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Tính từ đầu năm 2011 đến nay, đã có 31 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư tại Việt Nam. Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và
tăng thêm là 1,132 tỷ USD, chiếm 24,2% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hồng
Kông đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là
627,03 triệu USD, chiếm 13,4% tổng vốn đầu tư;Trong tháng 5/2011, Hàn Quốc

đã vươn lên đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là
522,89 triệu USD, chiếm 11,2% tổng vốn đầu tư; Tiếp theo là Malaysia đứng ở vị
trí thứ 4 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 416,08 triệu USD, chiếm
8,9% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng thứ 5 với tổng vốn đăng ký
cấp mới và tăng thêm là 375,73 triệu USD, chiếm 8% tổng vốn đầu tư vào
Việt Nam.
1.2.3Theo địa bàn đầu tư:
Tính đến thời điểm hiện tại, TP Hồ Chí Minh là địa phương thu hút nhiều
vốn ĐTNN nhất với 1,274 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Trong tháng
này, Hà Nội đã vươn lên đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là
446,86 triệu USD. Đà Nẵng đứng thứ 3 với 423,57 triệu USD vốn đăng ký cấp
mới và tăng thêm. Tiếp theo là Đồng Nai, Ninh Thuận, Bắc Giang với quy mô vốn
đăng ký lần lượt là 296,29 triệu USD, 266 triệu USD và 254,5 triệu USD.
Một số dự án lớn được cấp phép trong 5 tháng đầu năm 2011 là: dự án
Công ty TNHH sản xuất First Solar Việt nam, thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến
chế tạo do Singapore đầu tư tại TP Hồ Chí Minh với tổng vốn đầu tư hơn 1 tỷ
USD; dự án Công ty TNHH Gamuda Land Việt Nam do Malaysia đầu tư, tổng
vốn đầu tư 322,2 triệu USD với mục tiêu thiết kế, xây dựng và lắp đặt các hạng
mục công trình xử lý nước thải tại Hà Nội; dự án Công ty TNHH một thành viên
Enfinity Ninh thuận với tổng vốn đầu tư 266 triệu USD do Hồng Kông đầu tư với
mục tiêu sản xuất điện tại Ninh Thuận; dự án Công ty TNHH Wintek Việt Nam,
tổng vốn đầu tư 250 triệu USD do Samoa đầu tư tại Bắc Giang với mục tiêu sản
xuất và gia công tấm cảm ứng, thiết bị thể hiện tinh thể lỏng LCD modum; dự án
Công ty Bến du thuyền Đà Nẵng của nhà đầu tư BritishVirginIslands với tổng vốn
đầu tư 174 triệu USD, dự án Công ty TNHH Whitestone Investmnet Hội An do
Síp đầu tư tại Quảng Nam với tổng vốn đầu tư là 137 triệu USD, đầu tư vào lĩnh
vực dịch vụ du lịch.
Lợi ích của FDI đối với nền kinh tế nước ta.
- FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu
đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam: doanh nghiệp FDI đóng góp 13,3% GDP, 35% sản lượng công nghiệp, 23%
xuất khẩu, 25% tổng số thu ngân sách nhà nước năm 2001, nhưng chỉ có 0,3% lao
động tổng thể. Gián tiếp FDI đã cung cấp một số việc làm nhiều hơn thông qua
các nhà thầu phụ hoặc các nhà cung cấp . Một mặt nó là dành cho Việt Nam là một
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 21
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
hiệu suất ấn tượng xem xét cổ phần của cam kết FDI mỗi 1000 đô la Mỹ GDP tại
Việt Nam (1999) là US $ 56 cao hơn so với Thái Lan (49 USD), Malaysia (47
USD), Trung Quốc (US $ 41), hơn gấp đôi trung bình của ASEAN (US $ 21)
(UNCTAD 2000) .Mặt khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút vào Việt Nam là
tiêu chuẩn khu vực khá khiêm tốn ( FDI vào Việt Nam là khoảng 2% vốn đầu tư
nước ngoài vào Trung Quốc), nhưng số tiền này nhỏ của FDI đạt cao tầm quan
trọng để nền kinh tế quốc dân như các dữ liệu của minh họa vì tương đối nhỏ kích
thước của nền kinh tế của Việt Nam (GDP năm 2000 30,3 tỷ USD, IMF ). Cho
đến nay các nhà đầu tư từ 73 quốc gia và nền kinh tế khác nhau đã đầu tư vào Việt
Nam , nhưng Châu Á chiếm 64%, châu Âu 21%, Mỹ và Ca-ri-bê nước
13%. Singapore nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất với 254 dự án và US $ 6,9 tỷ USD
vốn đăng ký, tiếp theo là Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông và Hàn Quốc. Những
năm nền kinh tế hàng đầu đã đầu tư trong 2,062 dự án (59,7% tổng số các dự án
được cấp phép) với tổng vốn cam kết US $ 22,6 tỷ (53,5% của tổng số vốn cam
kết) . Sau đây lớn tiếp theo năm nhà đầu tư Pháp, Quần đảo Virgin thuộc Anh, Hà
Lan, Nga và Vương quốc Anh "top mười" các nhà đầu tư chiếm trên 75% tổng số
các dự án được cấp phép và vốn cam kết tại Việt Nam.
- FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao
năng lực sản xuất công nghiệp:
Trong cơ cấu kinh tế, các nhà đầu tư nước ngoài đã tập trung vào các ngành công
nghiệp (dầu mỏ và khí đốt, sản xuất và chế biến ngành công nghiệp như hàng may
mặc và giày dép, sản phẩm thực phẩm ,đồ uống) chiếm 2,743 dự án với tổng vốn
cam kết 23 tỷ USD,tương ứng với 60,0% số dự án và 55% vốn cam kết. Nông

nghiệp, đánh cá và chia sẻ lâm nghiệp chỉ có 11% số dự án (428 dự án) và 3,6%
vốn cam kết . Các ngành đại học (khách sạn, nhà hàng, vận chuyển và thông tin
liên lạc và dịch vụ khác ngành công nghiệp như bảo hiểm ) chiếm 21,6% về số
dự án và 40% trong tổng số vốn cam kết.Cho đến nay tất cả 61 tỉnh, thành phố
trực thuộc tại Việt Nam đã thu hút FDI nhưng thực sự nước ngoài nhà đầu tư tập
trung đầu tư của họ về mặt địa lý trong các lĩnh vực kinh tế trọng điểm phía Nam
như
Hồ Chí Minh-thành phố, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và các khu
vực kinh tế trọng điểm
Bắc như Hà Nội, Hà Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và Quảng Ninh, trong khi
Trung ương
- FDI thúc đẩy chuyên giao công nghệ:
FDI góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát
triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và
khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy Nhất
là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản
xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh
vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 22
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực FDI cao hơn hoặc bằng các thiết
bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các
doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối
và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, FDI đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng
kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
- FDI góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc
tế:
Làm sâu sắc thêm sự trao đổi văn hóa với các quốc gia khác. Có rất nhiều cựu
nhân viên nước ngoài công ty có vốn đầu tư được đào tạo trong một công ty có

vốn đầu tư nước ngoài và sau đó chuyển sang được các doanh nhân tư nhân thành
công trong lĩnh vực tư nhân trong nước. Diễn đàn khu vực tư nhân ban đầu được
tổ chức bởi FDI-người quản lý, bây giờ đổi tên thành như một diễn đàn kinh
doanh, cũng là một kênh để cung cấp phản hồi của chính phủ về cải cách về cải
cách cần thiết.
- Tác động lan tỏa của FDI đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh
tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp FDI được nâng cao qua số lượng các
doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động
lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh
nghiệp có vốn FDI với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh
doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn FDI. Sự lan tỏa này có thể theo
hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các
doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp FDI cũng tạo
động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối
cảnh toàn cầu hóa.
- FDI đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô:
Rõ ràng FDI đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
trong một phần tư thế kỷ qua trên nhiều mặt: đem lại nguồn vốn quan trọng, riêng
năm 2010 chiếm 25,8% tổng số vốn đầu tư thực hiện của toàn xã hội; tăng thu
ngân sách; đóng góp trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% giá trị xuất
khẩu và khoảng trên dưới 20% GDP; thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng gia tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; chuyển giao công nghệ và
kỹ năng quản lý; tạo nhiều công ăn việc làm; mở rộng thị trường thế giới.
2. Thống kê số liệu về FDI từ năm 1987 đến nay, lập bảng và vẽ biểu đồ về
sự thay đổi FDI
I. Thống kê số liệu về FDI từ năm 1987 đến nay
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 23
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 20

năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, FDI
thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả đối với các nước
đang phát triển.
Nhìn lại 20 năm trước, trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam trên
nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh
quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị
trường quốc tế Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á
thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới.
Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang
nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh
tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào
năm 1987, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn
trầm trọng.
Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển kinh tế-
xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới”
toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành bộ
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của
chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng vào
thành công của sự nghiệp đổi mới trong chặng đường vừa qua.
Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi
trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và
chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn
cảnh mới. Nhờ đó, nhịp độ thu hút FDI tăng nhanh trong giai đoạn 1987-1996,
nhất là thời kì 1991-1996.Tuy nhiên ,do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính trong khu vực và nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, từ
năm 1997 đến năm 2004, FDI vào Việt Nam có xu hướng chững lại và suy giảm.
Năm 2005 đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng tăng trở lại và đặc biệt
vào năm 2006, với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, Việt

Nam đã thu hút hơn 10,2 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, đây là mức kỷ
lục về thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian trước đó.
* Cơ cấu vốn FDI chung từ 1988 đến 2007:
(1) Theo ngành: Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất, chiếm
66,8% về số dự án, 60,2% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện; Lĩnh vực
dịch vụ chiếm 22,2% về số dự án, 34,4% số vốn đăng ký và 24,5% vốn thực hiện;
Nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 10,8% về số dự án, 5,37% tổng vốn đăng ký và
6,7% vốn thực hiện.
(2) Theo vùng và lãnh thổ: Từ năm 1988 đến hết năm 2007, các tỉnh phía Bắc đã
thu hút 2.220 dự án với vốn đầu tư khoảng 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án,
29% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước. Các tỉnh
phía Nam từ Ninh Thuận trở vào thu hút được 5.452 dự án với tổng vốn 46,8 tỷ
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 24
BÀI TẬP LỚN KINH TẾ VĨ MÔ 1
USD, đã góp vốn thực hiện đạt 15,68 tỷ USD, chiếm 63% về số dự án, 56% về
vốn đăng ký và 51% vốn thực hiện của cả nước, trong đó, Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam gồm 8 địa phương (TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Tây Ninh, Long An, Bình Phước) chiếm 64,3% về số dự án và 55,7%
về vốn đăng ký và 48,4% vốn thực hiện của cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long
tuy là vựa lúa, vựa trái cây, giàu tiềm năng thuỷ, hải sản của cả nước nhưng thu
hút vốn FDI còn rất thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4%
về vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước. Bắc và Nam Trung Bộ, trong
đó Quảng Nam và Đà Nẵng đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn FDI, nhất là đầu
tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn
quốc tế. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn FDI quá ít như vùng Đông Bắc
và Tây Bắc.
(3) Theo hình thức đầu tư: Doanh nghiệp (DN) 100% vốn nước ngoài chiếm
74,4% tổng số dự án và 50,7% tổng vốn đăng ký; DN liên doanh chiếm 22,2%
tổng số dự án và 38% tổng vốn đăng ký; Hợp tác kinh doanh chiếm 3,1% tổng số
dự án và 8,3% tổng vốn đăng ký; DN BOT có 6 dự án (0,1% tổng số dự án) với

tổng vốn đăng ký 1,4 tỷ USD (2,7% tổng vốn đăng ký); DN cổ phần có 8 dự án
(0,1% tổng số dự án), với tổng vốn đăng ký 199 triệu USD (0,4% tổng vốn đăng
ký); Công ty quản lý vốn (công ty mẹ-con) có 1 dự án (0,02% tổng số dự án) với
tổng vốn đăng ký 14,4 triệu USD (0,03% tổng vốn đăng ký).
(4) Theo đối tác đầu tư: Đã có 82 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam trong
tổng vốn đăng ký trên 80 tỷ đô la Mỹ, các nước Châu á chiếm 69,1%; các nước
thuộc EU chiếm 16,2%; các nước Châu Mỹ chiếm 11,8%, riêng Hoa Kỳ chiếm
4%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 thì vốn
đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5
trong tổng số 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Số vốn đầu tư
còn lại thuộc các nước tại khu vực khác.
LƯƠNG THỊ LOAN KTB51-ĐH2 trang 25

×