Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Nghiên cứu khoa họcTÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.69 KB, 46 trang )

SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

LỜI NHẬN XÉT
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………………
1


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình của giảng viên: Ths Nguyễn Văn Huyên – Giảng viên bộ môn Luật kinh doanh quốc
tế trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại. Và thư viện trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại
với những tư liệu bổ ích, đã giúp e hiểu hơn về đề tài nghiên cứu Học thuyết ngang giá lãi
suất cũng như là hoàn thành tốt bài tiểu luận này.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô Trường Cao đẳng Kinh
tế Đối ngoại đã tận tình dạy bảo cho em những kiến thức quý báu trong thời gian
vừa qua.

Em xin chân thành cảm ơn!

2


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Có thể nói đặc trưng quan trọng, cơ bản, nổi bật nhất của kinh tế thế giới hiện nay là
xu hướng tồn cầu hóa, trong đó quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế luôn được củng cố và
phát triển.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ đó thì cũng phát sinh ngày càng
nhiều những tranh chấp thương mại không chỉ dừng lại ở sự gia tăng về số lượng mà độ
phức tạp của các tranh chấp cũng ngày một nâng cao. Trong quan hệ kinh tế quốc tế,
trong kinh doanh thương mại… tranh chấp phát sinh luôn là hiện tượng đương nhiên, giải
quyết tranh chấp là việc làm tất yếu và đang là một vấn đề được bàn đến nhiều của nền
kinh tế thế giới hiện nay.
Điều đó cũng giúp định hướng tư duy của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
kinh tế có phát sinh tranh chấp các phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu trong đó có
trọng tài. Theo đánh giá của Tổng thư ký Tòa án trọng tài quốc tế thì trọng tài được coi là
lựa chọn có nhiều ưu thế nổi bật là tính liên tục, mềm dẻo, bí mật và phán quyết trọng tài
có giá trị chung thẩm…Với tính năng ưu việt của mình mà phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài được coi là lựa chọn được ưa chuộng của các doanh nghiệp trên thế
giới. Tuy nhiên, thực trạng Việt Nam lại cho thấy các doanh nghiệp chưa thực sự "mặn
mà" với việc đem tranh chấp của mình ra giải quyết tại trọng tài, theo thống kê có hơn
95% tranh chấp thương mại trong nước được đưa ra Tịa án có thẩm quyền giải quyết
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Sở dĩ có tình trạng trên thì bên
cạnh ngun nhân chủ quan từ phía các doanh nghiệp cịn có ngun nhân xuất phát từ hệ
thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam, đó là hệ thống chưa thực sự tạo ra một hành
lang pháp lý an toàn, hiệu quả để doanh nghiệp trong và ngoài nước tự tin khi lựa chọn
trọng tài.
Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại (TTTM) năm 2003 đã đánh dấu một
bước tiến mới trong việc hình thành và hồn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt Nam,
đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của cộng đồng doanh
nghiệp. Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trong hơn 6 năm qua, tuy được đánh giá có nhiều
điểm tiến bộ cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới như việc Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), việc ban hành Luật Thương mại năm 2005, Luật Đầu

tư năm 2005… nhưng một số quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ sự bất cập như thẩm
3


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

quyền của trọng tài còn nhiều hạn chế, đội ngũ trọng tài viên trong nước chưa phát triển,
cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài chưa hiệu quả…
Xuất phát từ thực tế trên đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang thực thi các cam kết
khi gia nhập WTO thì việc ban hành Luật TTTM là một tất yếu khách quan. Sự ra đời
của Luật TTTM với nhiều quy định mới về cơ bản phù hợp với pháp luật và thơng lệ
quốc tế góp phần tạo niềm tin cho các cá nhân, tổ chức khi lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Một trong những điểm mới đáng ghi nhận là Luật TTTM
chính thức quy định hai hình thức hoạt động trọng tài là trọng tài quy chế và trọng tài vụ
việc và có các quy định nhằm hỗ trợ cho cả hai hình thức trọng tài có cơ hội phát triển
ngang bằng nhau và khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng cả hai hình thức này. Tuy
nhiên để các quy định này khơng chỉ có hiệu lực trên giấy thì cần có sự đánh giá khách
quan, chính xác những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành các quy định về hình
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc để thực tiễn hóa các quy định này vào
đời sống kinh tế của các cá nhân, tổ chức. Với mong muốn được luận bàn chun sâu,
góp phần hồn thiện pháp luật trọng tài ở Việt Nam, em chọn đề tài: "Tài phán thuong
mại trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong thực tiễn và trong khoa học pháp lý đã có một số bài viết và một số cơng trình
nghiên cứu ở cấp độ khác nhau về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, có
thể nêu một số cơng trình như: "Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế", Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Đình Thơ,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007; "Pháp luật giải quyết tranh chấp bằng hình thức
trọng tài", Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Phương Thủy, Trường Đại học Luật

Hà Nội, 2004; "Những vấn đề pháp lý về thỏa thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng ở Việt
Nam", Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Kim Liên, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2006; "Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới", của Dương Văn Hậu,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1999; và một số bài viết trên các tạp chí chuyên
ngành… Tuy nhiên các cơng trình trên chỉ đề cập một cách khái quát về phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung mà chưa có cơng trình nào đề cập một cách
chuyên sâu về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc. Từ đó có thể
khẳng định đây là cơng trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu
chuyên biệt về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.
a. Mục đích.

4


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

Luận văn tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận để từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng tài vụ việc vào giải
quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam, đề xuất hướng hoàn thiện những quy định
pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung và trọng tài vụ
việc nói riêng.
b. Nhiệm vụ.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra các nghiên cứu:
• Luận giải cơ sở lý luận của các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại.

• Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật về trọng tài thương mại; đánh giá
thực trạng sử dụng phương thức trọng tài thương mại trong thực tiễn giải quyết các
tranh chấp thương mại tại Việt Nam.
• Việt Nam từ đó chỉ ra các khó khăn, vướng mắc đang và sẽ gặp phải và các
nguyên nhân liên quan đến việc sử dụng trọng tài thương mại giải quyết tranh
chấp.
• Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc áp dụng và điều
chỉnh pháp luật phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
nhằm lựa chọn những kinh nghiệp hay, phù hợp cho việc áp dụng vào Việt Nam.
• Đưa ra những giải pháp nhằm thực tiễn hóa một cách hiệu quả các quy định của
pháp luật nhằm khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng phương thức trọng tài
thương mại khi cần giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là tài phán thương mại và các hình thức của nó, “Luật trọng tài
thương mại” và thực tiễn tình hình tài phán tại Việt Nam, “Luật trọng tài thương mại”
của 1 số tổ chức trên thế giới như WTO…
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những quy định pháp luật về các phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, kinh nghiệm quốc tế và đi sâu nghiên
cứu phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại theo pháp
luật Việt Nam.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu bài
luận sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
5


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế


sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khác như phương pháp bình luận, diễn giải, so sánh, tổng hợp, phân tích…
7. Kết cấu bài luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 7 chương:
Chương 1. TÀI PHÁN.
Chương 2. TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI.
Chương 3. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
Chương 4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI.
Chương 5. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHUNG
ĐỂ HỒN THIỆN HÌNH THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI.
Chương 6. TÒA ÁN VÀ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TÒA ÁN VỚI TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI.
Chương 7. MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.

6


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

Chương I.
I.


TÀI PHÁN.

Định nghĩa tài phán.

Pháp luật với tư cách là công cụ để nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội, có chức
năng đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
trong xã hội, giai cấp nắm quyền lực nhà nước. Cùng với việc ban hành các quy phạm
pháp luật, nhà nước đồng thời có các biện pháp bảo đảm cho các quy phạm pháp luật ấy
được thực hiện bởi mọi chủ thể. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, khi tham
gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể vẫn thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật,
xâm phạm lợi ích nhà nước, xã hội, tập thể và quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công
dân.
Những tranh chấp và xung đột pháp lý, những vi phạm pháp luật không loại trừ xảy ra
ngay cả trong nhà nước xã hội chủ nghĩa khi pháp luật thể hiện ý chí tuyệt đại đa số nhân
dân lao động. Để phản ứng lại những hành vi vi phạm pháp luật, nhà nước áp dụng các
biện pháp cưỡng chế khác nhau đã được pháp luật dự kiến trước trong các chế tài của các
quy phạm pháp luật. Song, những biện pháp cưỡng chế nhà nước chưa thể áp dụng ngay
được nếu như chưa có sự phán xét, đánh giá những hành vi được coi là vi phạm pháp luật
hay những tranh chấp pháp lý cụ thể.
Vì vậy, nhà nước cần có một hay nhiều các tổ chức, cơ quan thay mặt nhà nước đứng
ra thực hiện chức năng xem xét khía cạnh pháp lý của sự việc, giải quyết những tranh
chấp và áp dụng chế tài theo luật định. Hoạt động mà các cơ quan đó thực hiện chính là
“hoạt động tài phán” và bản thân cơ quan đó là “cơ quan thực hiện chức năng tài phán”
Thuật ngữ “tài phán” có gốc từ tiếng La Tinh là “jurisdictio” có nghĩa là tổng thể
những quyền hạn của Tịa án hoặc cơ quan hành chính về việc đánh giá khía cạnh pháp
lý của những sự kiện cụ thể, trong đó có việc giải quyết tranh chấp và áp dụng những chế
tài theo luật định.
Như vậy, có thể nói khái niệm “tài phán” rộng hơn khái niệm “xét xử” ở nhiều khía
cạnh. Hoạt động tài phán có thể thực hiện bởi nhiều loại cơ quan khác nhau. Khơng chỉ
tịa án mà các cơ quan hành chính hay các cơ quan khác cũng có quyền tài phán. Quyền

tài phán có thể do một cơ quan độc lập, chuyên trách thực hiện hoặc có thể do một cơ
quan thực hiện nhiều chức năng, trong đó có chức năng tài phán. Điều đó phụ thuộc vào
cơ cấu, phương thức tổ chức quyền lực trong bộ máy nhà nước, vào thẩm quyền mỗi cơ
quan theo quy định của pháp luật.

7


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

Tài phán được hiểu là toàn bộ các hoạt động, hành vi của tổ chức, cơ quan hay cá nhân có
thẩm quyền theo luật định trong việc giải quyết các vụ việc tranh chấp pháp lý. Quyền tài
phán là quyền năng theo pháp luật, phù hợp với pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
Quyền tài phán theo pháp luật là dạng quyền tài phán do pháp luật đặt ra. Cũng có thể đó
là quyền tài phán khơng phải được pháp luật trực tiếp lập ra nhưng được quy phạm pháp
luật cho phép các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền lập ra.
Hành vi tài phán là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức, hoặc cơ quan có quyền tài phán.
Hành vi tài phán được đặt trong phạm vi, bối cảnh nhất định, tức là có giới hạn.
Thể chế tài phán là các quy tắc pháp lý, bao gồm các quy tắc nền tảng và các quy tắc nội
dung về tài phán, ở cả diện rộng hoặc hẹp (bao trùm hoặc trong phạm vi một lĩnh vực).
Thiết chế tài phán là cơ cấu vật chất của tài phán. Nó chỉ rõ ai là "chủ thể" của tài phán,
mang quyền tài phán.
II.

Phân loại.
Theo tính chất, tài phán có hai dạng chính: tài phán tư pháp và tài phán hành chính.

Tài phán tư pháp: hoạt động xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, lao động,
thương mại của tòa án để đưa ra những phán quyết cuối cùng (phân xử ai đúng ai sai).

Tài phán hành chính: là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phán xét
những khiếu kiện của cá nhân, tổ chức đối với cơ quan hành chính (hoặc những cơ quan
nhà nước khác) đưa ra những quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính mà cá nhân
tổ chức cho là trái pháp luật hoặc là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Theo phương thức pháp lý, tài phán có hai dạng: Toà án và Trọng tài.
Chương II.
I.

TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI.

Định nghĩa Tranh chấp thương mại.

Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại của các thương nhân được gọi là tranh chấp thương mại. Là một hiện
tượng kinh tế - xã hội tất yếu xuất hiện trong điều kiện kinh tế thị trường, hiểu một cách
khái quát, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền
và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Dưới tác
động của quy luật cạnh tranh và sự tự do hóa thương mại, tranh chấp thương mại có xu
hướng ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại, phức tạp về nội dung.
II.

Đặc điểm.
8


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179


Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

Chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân. Quan hệ thương mại có
thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên không
phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một
bên là thương nhân. Ngồi ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng
có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại: tranh chấp giữa công ty – thành viên công
ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, hợp nhất, giải thể, chia, tách…công ty;…
Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm
pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có hợp
đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi
ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể ó những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng
khơng làm phát sinh tranh chấp.
Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích
của các bên trong hợp đồng thương mại. Các quan hệ thương mại có bản chất là lợi ích
các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế
của các bên.
III.

Các phương thức giải quyết tranh chấp.

Tranh chấp thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của
các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của cơng dân, góp phần ngăn ngừa sự vi
phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
Hiện nay, tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thức:
Thương lượng: là phương thức giải quyết trah chấp thông qua vệc các bên tranh chấp
cùng nhau bàn bạc, dàn xếp để tháo gỡ những bất đồng phát sinh nhằm loại bỏ tranh chấp
mà khơng cần có sự giúp hay phán quyết của bên thứ ba.

Hòa giải: là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm
trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp
nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Tòa án: Giải quyết tranh chấp thương mại tại tịa án là hình thức giải quyết tranh chấp
do các cơ quan tài phán nhà nước thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến
hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Kết quả của quá
trình tố tụng là đưa ra bản án có giá trị pháp luật bắt buộc đối với đương sự. nếu các bên
đương sự khơng tự nguyện thi hành thì sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước. do đó, các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của toán án như một
giải pháp cuối cùng để bảo về có hiệu quả quyền và lợi ích chính đáng của mình khi họ
9


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

có thể thât bại dưới hình thức thương lượng, hịa giải hoặc khơng muốn lựa chọn trọng tài
để giải quyết tranh chấp.
Trọng tài: Là phương thức có tính chất tài phán, quyết định giải quyết tranh chấp do
một bên chủ thể thứ ba nêu ra, có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp.
Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung tủ tục, trình tự tiến
hành. Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà
mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính
chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
Lịch sử hình thành chế định trọng tài.

Chương III.
I.


Khoa học pháp lý chưa khẳng định được chính xác phương thức trọng tài bắt đầu
xuất hiện từ khi nào, nhưng có thể khẳng định đây chính là hình thức tiền thân của việc
hình thành các tịa án sau này. Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để
giải quyết bất hòa giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia.
1. Lịch sử hình thành chế định trọng tài trên thế giới.

Khoa học pháp lý chưa khẳng định được chính xác phương thức trọng tài bắt đầu xuất
hiện từ khi nào, nhưng có thể khẳng định đây chính là hình thức tiền thân của việc hình
thành các tịa án sau này. Tòa Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để
giải quyết bất hòa giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La
Mã cổ đại đã biết sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai về
trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái buôn được tự phân xử bất hịa của
mình khơng cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau Luật La Mã cho phép mở rộng
phạm vi tranh chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà cịn ở những nước La Mã có
trao đổi hàng hóa, có nghĩa là trải rộng trên hầu khắp lục địa Châu Âu.
Trong hệ thống luật của Anh, văn bản pháp luật đầu tiên về trọng tài phải kể đến Luật
Trọng tài 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua, đây đã là một phương thức rất
phổ biến (phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh được đưa ra vào năm 1610). Tuy nhiên
các quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống luật common law thể hiện một hạn chế
cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp nào cũng có thể khước từ việc thực hiện phán
quyết của trọng tài nếu thấy phán quyết đó bất lợi cho mình. Hạn chế này đã được khắc
phục trong Luật năm 1697. Trong Hiệp ước Jay năm 1794, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa
các vấn đề còn đang tranh chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở
trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp này kéo dài 7 năm, và được coi là kết thúc thành
công. Từ đầu thế kỷ XX, các nước (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt đầu thơng qua các đạo
luật quy định và khuyến khích việc phân xử ở cấp trọng tài thay cho kiện tụng ở tòa án
vốn được cho là kém hiệu quả hơn.

10



SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

Trước sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài cũng phát triển, dẫn tới việc hình thành những tổ chức trọng tài quốc
tế để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp đồng thương mại quốc tế. Tầm
quan trọng của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng được thừa nhận rộng
rãi, đặc biệt là trong các thập kỷ gần đây. Các quốc gia sửa đổi luật pháp về trọng tài cho
phù hợp với tình hình thực tế; các điều ước quốc tế về trọng tài đang có thêm những
thành viên mới; trọng tài trở thành một môn học trong chương trình đào tạo ngành luật;
các doanh nghiệp ngày càng tin tưởng vào một phương thức giải quyết tranh chấp linh
hoạt, công bằng, với phán quyết được công nhận rộng rãi trên phạm vi thế giới. hậm chí,
trọng tài hiện nay còn giải quyết tranh chấp “trực tuyến” (thường được biết đến với thuật
ngữ ODR – online dispute resolution nghĩa là giải quyết tranh chấp trực tuyến). Trọng tài
trực tuyến tiến hành khi có khiếu nại trực tuyến, thủ tục tố tụng diễn ra trên internet,
trọng tài phân xử và ra phán quyết dựa vào hồ sơ do các bên xuất trình.
Ở tất cả các nước trên thế giới, các tranh chấp dân sự dù có hay khơng có yếu tố nước
ngồi đều được giải quyết khơng chỉ bằng toà án mà bằng cả trọng tài. Trọng tài là một
cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn
xét xử quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế. Cuối thế kỷ 19, người ta
đã cố gắng hợp thức hố tính cách pháp lý cho hình thức trọng tài qua hai Hội nghị Quốc
tế. Đó là hội nghị Hồ bình tổ chức tại La – Hay Hà Lan vào năm 1899 và 1907. Hai hội
nghị này đã đi đến việc soạn thảo quy chế và thủ tục và nỗ lực hướng dẫn các quốc gia áp
dụng triệt để các hiệp ước trọng tài. Cũng như các thuật ngữ khoa học pháp lý khác, khái
niệm “Trọng tài” được đề cập nhiều trong luật quốc tế. Định nghĩa sớm nhất về trọng tài
được nêu trong Công ước La-Hay năm 1988, theo đó: “Trọng tài là nhằm để giải quyết

những bất đồng giữa các bên thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa chọn trên
cơ sở tôn trọng luật pháp”. Hiệp định La-Hay 1907 qui định: “Trọng tài quốc tế có đối
tượng giải quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia qua sự can thiệp của những trọng
tài viên do các quốc gia tranh chấp tự chọn và đặt trên cơ sở của sự tôn trọng luật pháp”.
Theo giáo sư Ph.Farrchar thuộc trường đại học Pans II thì: “Trọng tài là một phương thức
giải quyết tranh chấp, theo đó các bên giao cho một cá nhân (trọng tài viên) thẩm quyền
giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau”. Luật sư toà thượng thẩm Paris Didier
Skonicki định nghĩa ngắn gọn: “Trọng tài là tồ án tư, do ý chí của đơi bên tranh chấp.
Nó cũng xét xử như tồ án nhà nước”.
2. Lịch sử hình thành chế định trọng tài tại Việt Nam.

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta ln
ln là mục tiêu, định hướng phấn đấu của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, tuỳ thuộc
điều kiện, hoàn cảnh và chủ trương của mỗi thời kỳ, cùng với các thiết chế khác, pháp
luật nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng đã có những bước phát triển mới phục
vụ cho mục tiêu này.

11


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

Sau khi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền bắc cơ bản hồn thành, Đảng ta đã
xác định vì hoạt động kinh tế là hoạt động làm nền tảng cho những hoạt động xã hội
khác, đồng thời là một nhiệm vụ tương đối mới mẻ và khó khăn đối với Nhà nước ta, cho
nên trước hết phải đặc biệt chú ý tăng cường hiệu lực của Nhà nước ta về mặt tổ chức
quản lý kinh tế. Theo đó, nguyên tắc tập trung, chun mơn hóa, hợp tác hóa… trong các
ngành kinh tế được đề cao. Mọi hoạt động kinh tế trong chế độ ta đều diễn ra theo kế
hoạch, mà kế hoạch Nhà nước là công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế. Cơng tác kế hoạch

hố của Nhà nước kết hợp với đề cao trách nhiệm và phát huy sáng tạo của các ngành,
các địa phương và cơ sở. Bộ máy quản lý kinh tế cũng được xây dựng trên nguyên tắc kết
hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, bảo đảm hình
thành các ngành kinh tế – kỹ thuật, các tổ chức kinh tế liên hiệp, các vùng kinh tế và các
cơ cấu kinh tế địa phương.
Xét về mặt lịch sử, Trọng tài kinh tế xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời của chế
độ hợp đồng kinh tế. Năm 1960, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 04/TTg ngày
04/01/1960 để ban hành Điều lệ tạm thời về Hợp đồng kinh tế. Ngày 14/11/1960, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/TTg về Tổ chức Trọng tài kinh tế Nhà
nước. Theo Nghị định này, ngành Trọng tài kinh tế được tổ chức ở cấp Trung ương, khu,
thành phố, tỉnh và bộ với chức năng chủ yếu là xử lý các tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Quy định này nhằm làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của các bộ quản lý ngành kinh
tế – kỹ thuật, thể hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương
và vùng lãnh thổ, tích cực xây dựng cấp huyện và phân định trách nhiệm giữa huyện và
tỉnh, thành phố.
Tiếp theo, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 54-CP ngày 10/03/1975 về chế
độ hợp đồng kinh tế thay Nghị định số 04-TTg, thì ngày 14/04/1975, Chính phủ đã ra
Nghị định số 75-CP để ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Trung tâm Trọng tài
kinh tế. Theo Bản Điều lệ này, Trọng tài kinh tế được thành lập như một cơ quan nhà
nước có chức năng quản lý cơng tác hợp đồng kinh tế. Đó là chức năng giữ vững tính kỷ
luật Nhà nước về hợp đồng kinh tế, giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế và xử
lý vi phạm hợp đồng kinh tế.
Với Nghị định số 24/HĐBT ngày 10/08/1981 của Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng
Trọng tài kinh tế được thống nhất tên gọi là Trọng tài kinh tế, ngạch Trọng tài viên được
xác lập. Ngày 17/04/1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 62/HĐBT quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trọng tài kinh tế bộ, tỉnh,
huyện. Trọng tài kinh tế cấp huyện được thành lập theo Nghị định này. Ngày 10/01/1990,
Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh về Trọng tài kinh tế quy định tổ chức, phân cấp
thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế. Đặc biệt, Pháp lệnh Trọng tài
kinh tế đã bỏ Trọng tài cấp Bộ, nguyên tắc các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn Trọng

tài đứng ra giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế được ghi nhận.

12


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

Như vậy, Trọng tài kinh tế là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan chấp hành và điều hành
của Nhà nước (Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban nhân dân các cấp), có chức năng quản lý nhà
nước đối với công tác hợp đồng kinh tế. Nét đặc thù của Trọng tài kinh tế thể hiện ở chỗ,
hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế cũng chính là phương
tiện để đạt được mục đích trực tiếp điều hành, tổ chức các quan hệ kinh tế.
Nhìn khái quát từ góc độ lịch sử, ta thấy Trọng tài kinh tế từ chỗ là cơ quan Nhà nước
có chức năng chủ yếu là xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế (Nghị định số 20/TTg ngày
14/01/1960), đã phát triển thành một cơ quan Nhà nước có chức năng chủ yếu là quản lý
công tác hợp đồng kinh tế (Nghị định số 75/CP ngày 14/04/1975, Nghị định số 24/HĐBT
ngày 10/08/1981, Nghị định số 62/HĐBT ngày 17/04/1984, Pháp lệnh Trọng tài kinh tế
ngày 12/01/1990). Q trình phát triển đó của Trọng tài kinh tế tương ứng với việc ngày
càng mở rộng vai trò của hợp đồng kinh tế.
Trọng tài kinh tế Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ: giải quyết tranh chấp hợp đồng
kinh tế; kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật; hướng dẫn thực
hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và Trọng tài kinh tế; bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp
đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.
II.

Khái niệm trọng tài thương mại.


Vấn đề trọng tài thương mại đã và đang được nghiên cưú dưới nhìêu góc độ khác
nhau do đó hiện nay có nh quan niệm khác nhau về trọng tài:
Luật Trọng tài mẫu của UNCITRAL (điều 2.a) đưa ra khái niệm “Trọng tài nghĩa là
mọi hình thức trọng tài có hoặc khơng có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường
trực”.
Theo Hội đồng trọng tài Mĩ (AAA):”Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp
bằng cách đệ trình vụ việc tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết
và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có quyết định bắt buộc các bên tranh chấp phải thi
hành”.
Ở Việt Nam, trọng tài đã xuất hiện từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa vào những năm
đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ XX dưới tên gọi là “trọng tài kinh tế”. Trọng tài kinh tế khi
đó có những đặc trưng phản án sự vận hành của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, vừa mang
chức năng quản lý và chức năng giải quyết tranh chấp; do đó, trọng tài kinh tế ở
Việt Nam thời đó khơng phải là tổ chức trọng tài theo đúng nghĩa. Chính sách Đổi mới đã
dẫn đến sự phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền dẫn tới sự chấm
dứt tồn tại của một số định chế đặc trưng cho kế hoạch hóa, trong đó có hợp đồng kinh tế
và trọng tài kinh tế. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã dẫn đến nhu cầu thành lập các
trung tâm trọng tài đúng nghĩa (phi Chính phủ) ở Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam có 7

13


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

trung tâm trọng tài kinh tế đang hoạt động (ACIAC, VIAC, HCMCAC, HCAC, CCAC,
PIAC. VID.ARCE).
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại: “Trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của

luật này”.
Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài nhưng nhìn chung hiện nay
trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới hai góc độ:
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại,
được thực hiện bởi hội đồng trọng tài hoặc một số trọng tài viên duy nhất với tư cách là
bên thứ 3 độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một số phán quyết trên cơ
sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc với các bên.
Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập tự nguyện bởi các trọng
tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo
yêu cầu của các bên tranh chấp.
III.

Các hình thức trọng tài thương mại.

Trọng tài thương mại tồn tại dưới 2 hình thức: Trọng tài vụ việc và trọng tài thường
trực.
 Trọng tài vụ việc:
Là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ
tranh chấp giữa các bên và trọng tài vụ việc sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ
tranh chấp. đây là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở các
nước trên thế giới cũng như Việt Nam.
Từ định nghĩa trên, ta có thể rút ra được một số đặc điểm của trọng tài vụ việc như
sau:
− Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm
dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
− Thứ hai, trọng tài vụ việc khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều hành
và khơng có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc
chỉ định có thể là người có tên hoặc người ngồi danh sách trọng tài viên của bất
cứ trung tâm trọng tài nào.
− Thứ ba, trọng tài vụ việc khơng có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy

tắc tố tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố
14


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài uy tín ở trong
nước và quốc tế.
 Trọng tài thường trực:
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức những hình
thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện trọng tài
nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường được tổ chức dưới dạng các trung tâm
trọng tài. Ta có định nghĩa: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách
phán nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Từ khái niệm trên, ta có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản về hình thức trọng tài
này như sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, khơng nằm trong hệ
thống cơ quan Nhà nước. Thể hiện:
− Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sang kiến của các trọng tài viên
sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được
thành lập bởi Nhà nước. Do đó, nó khơng nằm trong hệ thống cơ quan quản lý
Nhà nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
− Hoạt động của các trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không
được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước.

− Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực
Nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
− Dù không thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt dưới
sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban hành các
văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của
trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập,
giấy đăng ký hoạt động của trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong
việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong
việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi
hành quyết định trọng tài…
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa
các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của
trung tâm trọng tài gồm có Ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Cụ thể:
15


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

− Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và
có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trọng tài cử.
− Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham gia vào việc giải
quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố
tụng riêng. Thể hiện:
− Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm trọng tài
có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở rộng
hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.

− Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được
xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với
quy định của pháp luật vể trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội
đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này/
− Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở là
một số quy tắc trọng tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản
quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài
viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp
chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì cậy, hoạt động xét xử
của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên chính của trung tâm.
IV.

Đặc điểm của trọng tài thương mại.

Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài mang những
đặc điểm sau:
− Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang
tính chất xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài.
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ 3- một
trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài, với tư cách là người cầm cân nảy
mực.
− Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một số thủ tục tố tụng chặt
chẽn mà pháp luật trọng tài, điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy
định.

16


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã

MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

− Tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa
thuận làm tiền đề cho phán quyết và khơng thể có phán quyết thoát ly những yếu
tố đã được thỏa thuận.
− Tố tụng trọng tài đảm bảo cho đương sự quyền tự định đoạt của mình một cách
cao nhất, các đương sự có quyền lựa chọn trọng tài viên, quyền lựa chọn địa điểm
giải quyết tranh chấp, lựa chọn quy tắc tố tụng…
− Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất
cứ cơ quan, tổ chức nào. Về nguyên tắc, trọng tài không xét xử cơng khai, do đó
ngồi ngun đơn và bị đơn, trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần
thiết.
− Kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại là phán
quyết do trọng tái tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp.
− Quy tắc tố tụng trọng tài của các quốc gia rất khác nhau, nhưng nhìn chung quy
tắc lựa chọn trọng tài viên và thủ tục của hầu hết các trung tâm trọng tài trên thế
giới đều theo khuôn mẫu của Quy tắc trọng tài mẫu UNCITRAL.
V.

Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại.

Khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các bên có thể thương
lượng, hịa giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp hai bên khơng thể tự
hịa giải được thì có thể đưa vụ việc ra giải quyết bằng trọng tài hoặc tòa án. Trong các
tranh chấp có yếu tố nước ngồi thường thì các bên có xu hướng ngại đưa vụ tranh chấp
ra giải quyết bằng tòa án. Nếu giải quyết tòa án ở quốc gia của một trong hai bên của
đương sự thì tất nhiên bên kia sẽ khơng tin tưởng vì e ngại rằng thẩm phán sẽ có “ưu ái”

hơn cho đương sự bên nước họ hơn. Còn nếu tố tụng ở nước thứ ba thì cả hai bên đều gặp
khó khăn khi đối mặt với các quy tắc, thủ tục và trình tự tố tụng ở nước đó. Ngồi ra, tố
tụng tòa án đòi hỏi nhiều thủ tục rất phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền của. Do đó
trong thực tiễn, trọng tài đóng một vai trị cực kì quan trọng trong việc giải quyết các
tranh chấp thương mại, đặc biệt là tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài khi mà
các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng hợp tác nhiều với các doanh nghiệp nước ngoài,
hoạt động thương mại xuất nhập khẩu sôi nổi như hiện nay.
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý kiến của các bên
đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài nhằm giải
quyết một cách có hiệu quả nhất tranh chấp mà ít tốn chi phí về mặt thời gian cũng như
tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bởi một trọng tài viên hay một
hội đồng trọng tài thùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
17


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính ràng buộc các bên đương
sự về mặt pháp lý. Điều đó làm cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hữu hiệu
hơn biện pháp hòa giải hay thương lượng. Hịa giải hay thương lượng chỉ mang tính chất
khuyến nghị chứ khơng có tính ràng buộc thực hiện về mặt pháp lý đối với các bên tranh
chấp. Còn quyết định trọng tài mang hiệu lực thi hành các bên có nghĩa vụ phải thực
hiện.
Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn tòa án. Trong cơ chế
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên lựa chọn có quyền
xét xử và đưa ra các quyết định xét xử một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở chứng cứ,
tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng con đường khác như các trọng tài viên tự
điều tra xem xét hay giám định viên và nhân chứng cung cấp trên cơ sở những quy định
của pháp luật. điều này khiến nhiều người liên tưởng tới tố tụng tòa án. Nhưng về bản

chất quyền lực của trọng tài và tòa án khác hẳn nhau. Tòa án đại diện cho quyền lực nhà
nước còn trọng tại đại diện cho ý chí của bên đương sự. do đó, trong tố tụng trọng tài, các
bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn cơ quan giải quyết khi có tranh chấp.
Nhưng trong tố tụng tịa án, các bên khơng có quyền lựa chọn thẩm phán, khơng có
quyền lựa chọn tịa án xét xử cho mình.
Thứ tư, tố tụng trọng tài thường nhanh hơn so với tố tụng tòa án. Đặc điểm của tố
tụng trọng tài chỉ là xét xử một lần và phán quyết có giá trị trung thẩm, chỉ trong một số
trường hợp đặc biệt thì tịa án mới xem xét lại quyết định của trọng tài. Đối với các tranh
chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải quyết này là lý do các bên tranh
chấp thường hay chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp
Thứ năm, trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xử kín, tức là khơng cần phải đưa các
tranh chấp, cơ sơ quyết định của trọng tài về vụ tranh chấp vào quyết định trọng tài. Đây
là một đặc điểm khác biệt của trọng tái so với tòa án. Trọng tài khơng cần xét xử cơng
khai như tịa án nếu các bên u cầu. Như vậy mà có thể giữ bí mật những chi tiết, sơ
liệu, thông tin cụ thể mà các bên tranh chấp không muốn công khai (liên quan đên bí mật
cơng nghệ, scandal…) giúp tránh được những hậu quả không lường và thiệt hại sau này
cho các bên tranh chấp. Chính vì vậy mà các bên tranh chấp thường chọn biện pháp trọng
tài để giải quyết những tranh chấp về thương mại.
Với những đặc điểm và vai trò như vậy của mình, biện pháp trọng tài đã đáp ứng
được yêu cầu đề ra đối với việc giải quyết tranh chấp sinh trong quan hệ pháp luật dân sự
theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi nói riêng và trong quan hệ quốc tế nói chung. Có
thể nói, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính khả thi nhất và là
phương thức phổ biến nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm ổn định và thúc
đẩy sản xuất phát triển.
18


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179


Chương IV.
I.

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI.

Cơ cấu tổ chức của trọng tài thương mại.

Theo Khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 thì trung tâm trọng
tài gồm Ban điều hành và các trọng tài viên. Ban điều hành trung tâm trọng tài gồm chủ
tịch, một hoặc các phó chủ tịch, có thể có Tổng thư ký do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
Những người được trung tâm trọng tài mời làm trọng tài viên phải có đủ điều kiện quy
định tại Điều 12 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.
II.

Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.

Để áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp, các chủ thể
tham gia giải quyết tranh chấp cần tuân thủ một số những nguyên tắc cơ bản sau (điều 4
Luật trọng tài thương mại 2010):
1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài.
Nguyên tắc này có thể được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết
tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận đó có hiệu lực.
Thỏa thuận trọng tài khơng chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận của các
bên mà còn là một căn cứ pháp lý dựa vào đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi
phạm thực hiện nghĩa vụ. đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định đối với việc
có hay khơng áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo Điểm a Khoản

2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, nếu khơng có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa
thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì phán quyết của hội đồng
sẽ bị hủy. ngun tắc này đóng vai trị quan trọng và cần được áp dụng trước tiên khi tiến
hành xem xét một vụ tranh chấp bằng trọng tài thương mại vì nếu nó khơng được đảm
bảo thì những ngun tắc sau cũng trở nên khơng có ý nghĩa.
2. Ngun tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan.
Một số tổ chức yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng họ đang và sẽ độc
lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kì sự việc hoặc chi tiết nào có thể
khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. trọng tài viên phải có đủ tư cách điều kiện
nhất định quy định tại điều 20 Luật trọng tài thương mại.
Khi tham gia giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải thật sự là người thứ ba độc lập,
vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như khơng có bất kì lời ích nào
liên quan đến vụ tranh chấp đó. Nếu vi phạm một trong những quy định trên, trọng tài
19


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc các bên có quyền yêu cầu đổi trọng tài
viên vụ tranh chấp. trang quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào
các tình tiết của vụ tranh chấp, xác minh sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào
chứng cứ mà mình thu thập được chứ khơng để bị chi phối bởi bất lỳ tổ chức, cá nhân
nào. Khơng ai có quyền can thiệp, chỉ đạo vào việc giải quyết tranh chấp của trọng tài
viên. Và quyết đình của trọng tài viên phải đúng với sự thật khách quan.
3. Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ và tuân thủ vào pháp luật.
Để giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các bên trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật. nếu trọng tài viên
không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên
thì các bên có quyền yêu cầu đổi trọng tài. Tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp

luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng tài viên mới giải quyết được các tranh chấp một
cách vô tư, khách quan. Có như vậy mới tạo được uy tín và sự tín nhiemj của các nhà
kinh doanh.
4. Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên.
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục
giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tông trọng, nếu không sẽ đẫn đến hậu quả là
quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị hủy theo yêu cầu của các bên. Khoản 1 Điều 4 quy
định: “Trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó khơng vi
phạm các điều cấm và đạo đức xã hội”.
Đây là điểm đặc biệt chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp
do các bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề như vậy và trọng tài
viên bắt buộc phải tuân theo.
5. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành công khai, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác (khoản 4 Điều 4 Luật trọng tài thương mại
2010).
Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động kinh doanh. Theo nguyên tắc
này, các buổi xét xử trọng tài chỉ gồm trọng tài viên, các đương sự và các bên có liên
quan đến vụ tranh chấp. những người khơng có trách nhiệm khơng liên quan đến vụ tranh
chấp không được tham dự. và quyết định của trọng tài cũng như các căn cứ để trọng tài
đưa ra phán quyết sẽ không được công bố cơng khai nếu các bên khơng có u cầu.
6. Nguyên tắc giải quyết một lần.
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc tranh chấp thương mại là nhanh
chóng, tránh dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh
20


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế

GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

nghiệp. với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại khơng có cơ quan
cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm (Khoản 5 Điều 4), không bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, khơng có
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các
tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài theo quy định tại khoản 5
Điều 4 Luật trọng tài thương mại “Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm”.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc,
nếu được các bên có thẩm quyền lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định thẩm
quyền theo lãnh thổ, vì các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kì một tổ
chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp của họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như
trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có cấp
trọng tài và lại càng khơng phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có
thẩm quyền giải quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Khi các bên đã thỏa thuận đưa
vụ tranh chấp ra giải quyết bằng cong đường trọng tài, tức là họ đã trao cho hội đồng
trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định sự xét xử đó của tịa án trừ khi
thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
III.

Thẩm quyền của trọng tài thương mại.

Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại.
nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này
có hiệu lực.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc,
nếu được các bên có "vụ việc" lựa chọn đích danh. các nguyên tắc phân định thẩm quyền
theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuận của nguyên đơn
không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. thẩm quyền của trọng tài không được phân

định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ
chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như
trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một
cấp trọng tài và lại càng khơng phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài
chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng tài,
tức là họ đã trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định
thẩm quyền xét xử đó của tịa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy
thỏa thuận trọng tài.

21


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

Nói tóm lại, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào được
pháp luật quy định là tranh chấp thương mại, tranh chấp này phát sinh trong hoạt động
thương mại giữa cá nhân kinh doanh và tổ chức kinh doanh và các bên có thỏa thuận
trọng tài. nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải
quyết của trọng tài thương mại.
Trên cơ sở Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và các văn bản pháp luật hiện hành
có liên quan, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về thẩm quyền của trọng tài thương mại
thông mại thông qua 2 điều kiện trên:
1. Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại phải là tranh
chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh.
Như ta đã biết, trong hoạt động giao kết hợp đồng giữa 1 bên là thương nhân với một
bên là các cá nhân, tổ chức (khơng phải là thương nhân), nếu có phát sinh tranh chấp thì
Luật thương mại 2005 cho phép bên có hoạt động khơng nhằm mục đích sinh lợi (bên có
hành vi dân sự) có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải quyết.

Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch
với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy nhưng bên khơng nhằm
mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ
pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ này phải được quan niệm là
tranh chấp thương mại. ví dụ như: tranh chấp giữa cơng ty với thành viên công ty hay
tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau thực chất là tranh chấp thương mại hiểu
theo nghĩa rộng vì tranh chấp này phát sinh từ hoạt động đầu tư với mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, loại tranh chấp nói trên khơng
thuộc thẩm quyền của trọng tài vì khơng thỏa mãn điều kiện các bên tranh chấp là cá
nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh (điều 2 Nghị định số 25/2004/NĐ - CP ngày
15/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh trọng tài
thương mại) và cũng không thuộc loại tranh chấp về kinh doanh, thương mại theo điều 29
Bộ luật tố tụng dân sự 2004. bởi vậy, tranh chấp này theo pháp luật Việt Nam hiện hành
thuộc thẩm quyền giải của tịa dân sự, song bên có hoạt động khơng nhằm mục đích sinh
lợi có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải quyết. tương tự, các tranh chấp về sở
hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ cũng chỉ thuộc thẩm quyền của trọng tài khi các bên
tranh chấp là cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh.
Tóm lại, trọng tài thương mại Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các bên là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức
kinh doanh. như vậy, so với pháp luật một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam ta
khơng mở rộng hồn tồn thẩm quyền của trọng tài thương mai.
22


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên


2. Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ.
Thỏa thuận trọng tài
Trước hết, có thể hiểu thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải
quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động
thương mại. như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau
khi có tranh chấp. khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án - cơ quan tài phán nhà
nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có quyền
đệ đơn u cầu tịa án có thẩm quyền giải quyết mà khơng cần có sự thỏa trước , việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài địi hỏi phải có sự thỏa thuận của các bên. ngun tắc
chung là "khơng có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, khơng có tố tụng
trọng tài".
Thỏa thuận trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp đồng
và phải được và phải được lập thành văn bản. các hình thức thỏa thuận qua thư, điện báo,
Telex, Fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện ý chí của các bên giải quyết
vụ tranh chấp bằng trọng tài đều được coi là thỏa thuận trọng tài. ngay cả khi hợp đồng
giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trong tài vẫn phải lập
thành văn bản. khi nộp đơn kiện cho trung tâm trọng tài , nguyên đơn phải nộp kèm theo
thỏa thuận trọng tài. nếu khơng có thỏa thuận trọng tài, trung tâm trọng tài sẽ khơng có
thẩm quyết giải quyết.
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ là thỏa thuận trọng tài đó khơng bị vơ hiệu. điều này có
nghĩa là, ngay cả khi có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu thỏa thuận trọng tài đó vơ hiệu thì
trọng tài cũng khơng có thẩm quyền giải quyết. các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô
hiệu được quy định tại điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. sau đây, trên cơ sở
điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các trường
hợp thỏa thuận vơ hiệu, từ đó kéo theo việc loại trừ thẩm quyền của trọng tài thương mại
để giải quyết tranh chấp trong những trường hợp này:
− Thứ nhất, tranh chấp phát sinh khơng thuộc hoạt động thương mại (ví dụ: tranh
chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa văn phịng luật sư hoặc cơng ty luật sư với
doanh nghiệp. pháp luật Việt Nam không quan niệm đây là tranh chấp kinh doanh,

thương mại).
Với cách quy định này dường như nhà làm luật có sự trùng lặp giữa thỏa thuận
trọng tài khơng có hiệu lực với vụ việc khơng thuộc thẩm quyền của trọng tài? bản
23


Nghiên cứu khoa học
TÀI PHÁN THƯƠNG MẠI trong tiến trình Việt Nam hội nhập Kinh tế quốc tế

thân lí do tranh chấp không thuộc hoạt động thương mại đã loại trừ thấm quyền
của trọng tài. như vậy, quy định thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu trong trường hợp
này thực sự khơng có ý nghĩa.
− Thứ hai, người kí thỏa thuận trọng tài khơng có thẩm quyền kí kết. quy định này
cần được hiểu được hai khía cạnh.
Ở khía cạnh thứ nhất, một bên kí thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực chủ thể
(ví dụ: chi nhánh, văn phịng đại diện).
Ở khía cạnh thứ hai, người kí thỏa thuận trọng tài không phải là người đại diện
hợp pháp cho pháp nhân hoặc kí thay cá nhân khơng được ủy quyền.
− Thứ ba, một bên kí thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
(người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự).
− Thứ tư, thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ về đối tượng
tranh chấp hay tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó
các bên khơng có thỏa thuận bổ sung. (ví dụ: Điều khoản trọng tài ghi chung
chung như "Tranh chấp giữa các bên được giải quyết tại cơ quan trọng tài Việt
Nam").
Cốt lõi của thỏa thuận trọng tài là phải thể hiện rõ ý chí và sự thống nhất ý chí của các
bên trong việc lựa chọn tổ chức trọng tài có thẩm quyền. cịn những sai sót về mặt kỹ
thuật trong soạn thảo điều khoản trọng tài không làm sai lệch ý chí của các bên thì sẽ
khơng khơng làm cho thỏa thuận trọng tài vơ hiệu. (ví dụ: trong hợp đồng giữa một bên là

doanh nghiệp của Việt Nam với một bên là doanh nghiệp nước ngoài có ghi: "mọi tranh
chấp phát sinh giữa các bên được giải quyết tại tòa án trọng tài Việt Nam bên cạnh Phịng
thương mại và cơng nghiệp Việt Nam". thỏa thuận trọng tài này không bị coi là vô hiệu
mặc dù khái niệm "tịa án trọng tài" khơng phù hợp với tên gọi thực của hình thức trọng
tài mà các bên hướng tới. đó là sai sót về mặt kỹ thuật nhưng khơng làm sai lệch ý chí
của các bên trong việc lựa chọn tổ chức trọng tài, đó là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam bên canh Phòng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam.
Vì vậy, thỏa thuận này hồn tồn có hiệu lực.
− Thứ năm, thỏa thuận trọng tài khơng được lập thành văn bản (ví dụ: các bên thỏa
thuận miệng, trao đổi qua điện thoại...
− Thứ sáu, bên kí kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa và có yêu cầu tuyên
bố thỏa thuận trọng tài đó vơ hiệu.

24


SV thực hiện: Nguyễn Thị Trúc Nhã
MSSV: 1210010179

Môn: Luật Kinh doanh quốc tế
GV hướng dẫn: Ths Nguyễn Văn Huyên

Như vậy, thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu khi thỏa thuận đó khơng thể hiện đầy
đủ, thể hiện khơng đúng ý chí của các bên hoặc ý chí của các bên không phù hợp quy
định của pháp luật. thỏa thuận trọng tài vô hiệu không tạo ra thẩm quyền cho trọng tài.
khi đó vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án.
IV.

Số lượng Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài do các bên thỏa thuận.


Pháp luật trọng tài Việt Nam có đề cập cụ thể về số lượng TTV trong Hội đồng tại
khoản 1 Điều 39 Luật Trọng tài Thương mại 2010 (Luật TTTM 2010) có hiệu lực từ
1/1/2011, nhưng lại đặt dưới tiêu đề là Thành phần HĐTT: Thành phần HĐTT có thể bao
gồm một hoặc nhiều TTV theo sự thỏa thuận của các bên.
Luật TTTM 2010 cho phép các bên tự do lựa chọn số lượng TTV khi thành lập
HĐTT. Các bên có thể thỏa thuận về việc HĐTT được cấu thành bởi một hay nhiều TTV.
Trường hợp HĐTT chỉ bao gồm một TTV duy nhất rất cụ thể và tương đối đơn giản. Tuy
nhiên, vấn đề rắc rối lại phát sinh khi HĐTT được thành lập từ nhiều TTV. Theo ngơn
ngữ phổ thơng, thì nhiều TTV có thể được hiểu là hai, ba, bốn, năm thậm chí sáu, bảy…
TTV. Cách quy định khơng rõ như vậy của Luật TTTM 2010 trên thực tế sẽ phát sinh
nhiều điều bất cập.
Pháp luật trọng tài của một số quốc gia và tổ chức trên thế giới cũng quy định tương
tự như khoản 1 Điều 39 Luật TTTM 2010 của Việt Nam. Khoản 1 Điều 10 Luật mẫu về
trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL cho phép các bên tồn quyền trong việc
thỏa thuận sẽ có bao nhiêu TTV tham gia HĐTT. Tuy nhiên, khi đề cập đến trường hợp
các bên đã đạt được thỏa thuận về số lượng TTV, nhưng khơng chỉ định được TTV thì
Khoản 3 Điều 11 Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL cũng chỉ gói
gọn ở hai khả năng là HĐTT bao gồm một hoặc ba TTV.
V.

Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại.

Tranh chấp giữa các bên có thể được giải quyết tại trung tâm trọng tài hoặc hội đồng
trọng tài do các bên thỏa thuận. song dù chọn hình thức nào thì các bên cũng cần trải qua
một số trình tự sau:
+ Nộp đơn và thụ lý đơn
+ Thành lập Hội đồng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên.
+ Lựa chọn địa điểm giải quyết, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài và pháp
luật áp dụng.
+ Công tác điều tra trước khi xét xử.

+ Hòa giải.
25


×