TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
MÔN: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
ASEAN – VIỆT NAM
Nhóm 3 - MBA8: CHỀNH HẾNH PHU
LÊ THỊ BÍCH NGỌC
TRẦN QUỐC TẾ
LÊ TRỌNG ĐOAN
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 5 năm 2010
2
PHẦN 1 – TỔNG QUAN VỀ ASEAN
I. GIỚI THIỆU VỀ ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (tiếng Anh: Association of Southeast Asia
Nations, viết tắt là ASEAN) được thành lập ngày 08-08-1967 nhằm tăng cường hợp
tác kinh tế, văn hóa – xã hội giữa các thành viên, đồng thời để thích nghi với xu thế
khu vực hóa và toàn cầu hóa. Sau hơn 40 năm hình thành và phát triển, ASEAN đã có
những chuyển hóa căn bản về chất, hình thức, và nội dung hợp tác; trở thành một tổ
chức hợp tác khu vực thành công nhất thế giới, có vai trò quan trọng đối với hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á và trên thế giới. Thành công nhất trong
hơn 40 năm qua là hình thành một ASEAN bao gồm cả 10 nước Đông Nam Á, đến
những thay đổi căn bản về chất của Hiệp hội cũng như tình hình Đông Nam Á, thúc
đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực. Mục tiêu phát triển trong
giai đoạn mới của Hiệp hội là xây dựng một Cộng đồng ASEAN trên 3 trụ cột là
chính trị - an ninh, kinh tế, và văn hoá - xã hội vào năm 2015.
Khẩu hiệu của ASEAN là "Một tầm nhìn, một bản sắc, một cộng đồng"
Logo của ASEAN Cờ của ASEAN
Các nước ASEAN có vị trí chiến lược trên bản đồ chính trị, quân sự và kinh tế của thế
giới do nằm ở ngã tư đường nối các khu vực Đông Bắc Á, Nam Á, châu Đại Dương;
nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Trong những năm gần đây, khu vực này
đã có những tác động to lớn và sâu sắc đến các nền kinh tế và đời sống chính trị thế
3
giới. ASEAN là một tổ chức khu vực có vai trò quan trọng và ảnh hưởng đáng kể đối
với các nước lớn cũng như các trung tâm kinh tế, chính trị trên thế giới. Những nhân
tố quan trọng của ASEAN là:
Về kinh tế: ASEAN có tiềm năng và lợi thế phát triển tự nhiên. Khu vực này có
nguồn tài nguyên cơ bản dồi dào, bao gồm dầu mỏ, gỗ, cây công nghiệp, thủy sản và
cây lương thực. ASEAN là vựa lúa của thế giới, là một trong những nơi cung cấp
những sản phẩm nhiệt đới cho các nền kinh tế thế giới. ASEAN kiểm soát khoảng
40% tổng nguồn cung dầu lửa và khí đốt trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Riêng hai loại sản phẩm này hàng năm mang lại cho khu vực 45-50 tỷ USD.
Nhờ có các cánh rừng nhiệt đới, ASEAN cũng là nhà cung cấp gỗ và các sản phẩm gỗ
lớn bậc nhất thế giới. ASEAN chiếm 19% thị phần thế giới về gỗ tròn; 10% về đồ gỗ
nội thất; 12% về gỗ xẻ và 10% về gỗ vật liệu xây dựng.
ASEAN cũng nằm trong số những nhà cung cấp hàng đầu thế giới về dầu cọ, cà phê
và cao su tự nhiên. ASEAN cũng là đối tác lớn hàng đầu về thủy sản (đóng góp 10%
sản lượng cá thế giới). Các sản phẩm của ASEAN như tôm, cá có vị thế cạnh tranh rất
lớn trên thị trường thế giới.
Với tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng; lực lượng lao động dồi dào, giá nhân
công thấp; hàng tiêu dung rẻ; cùng với hành lang pháp lý mở rộng, Đông Nam Á trở
thành nơi thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài. Các trung tâm kinh tế lớn đều đến khu
vực này đầu tư và buôn bán ngày một tăng. Đông Nam Á có nền kinh tế tăng trưởng
cao và năng động vào loại nhất nhì thế giới. Các nước trong khu vực đang nỗ lực cao
nhất để phát triển các ngành công nghiệp nặng theo hướng “chiến lược công nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu” và đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
4
Về an ninh – chính trị: Đông Nam Á là khu vực phứt tạp, không thuần nhất về chế
độ chính trị. Do tác động của cục diện thế giới trước và sau chiến tranh lạnh, Đông
Nam Á luôn diễn ra sự phân hóa về chính trị. Trong nhiều thập kỷ, nhiều nước Đông
Nam Á bị lôi kéo của Mỹ và phương Tây đã tiến hành chính sách thù địch đối với
cách mạng và Đông Dương. Nhưng kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN, quan hệ
chính trị - an ninh trong khu vực đã có sự “khởi sắc”: một mặt đã phá tan được những
khác biệt về chế độ chính trị trước đây để cùng nhau xây dựng một khu vực hòa bình,
ổn định, thịnh vượng và mở rộng hợp tác quốc tế; mặt khác, các nước ASEAN đóng
vai trò nồng cốt trong diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), duy trì các nguyên tắc “đồng
thuận”, cùng nhau xây dựng một khối thống nhất, đoàn kết, tin cậy lẫn nhau.
Hợp tác về chính trị - an ninh hiện nay đang đóng một vai trò quan trọng để các bên
liên quan đối thoại và giải quyết các mâu thuận, xung đột, ngăn ngừa đối đầu hoặc
nguy cơ xảy ra chiến tranh trong khu vực. ASEAN bày tỏ thiện chí và khuyến khích
các quan hệ hợp tác tích cực với các nước, nhưng cũng cương quyết phản đối một số
nước phương Tây lợi dụng “chống khủng bố”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”,
“tôn giáo” … để can thiệp vào công việc nội bộ của ASEAN.
Về văn hóa – xã hội: Đông Nam Á có vị trí nằm ở giữa trục giao lưu với 4 phương
(cả phương Đông, phương Tây, phương Bắc và phương Nam), trở thành ngã tư của
nền văn minh nhân loại, do vậy về văn hóa, Đông Nam Á là khu vực có nền văn hóa
đa dạng, kết hợp bản địa với bên ngoài. Trong đó những yếu tố bản địa là nền tản văn
hóa vững chắc của cả khu vực. Đông Nam Á còn là nơi giao lưu của các nền văn
minh khu vực. trong lịch sử cũng như thời hiện đại, khu vực này luôn diễn ra các cuộc
đấu tranh gay gắt để bảo vệ những giá trị văn hóa về dân tộc, chống lại mọi sự lai
căng và bác bỏ những giá trị áp đặt từ bên ngoài.
5
Xuất phát từ vị thế địa – chính trị mà khu vực Đông Nam Á có vai trò ngày càng tăng
trong đời sống khu vực và quốc tế, là nơi mà các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới
vá các nước lớn tranh giành ảnh hưởng.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ASEAN có tiền thân là một tổ chức được gọi là Hiệp hội Đông Nam Á, thường được
gọi tắt là ASA, một liên minh gồm Philippines, Malaysia và Thái Lan được thành lập
năm 1961. Tuy nhiên, chính khối này, được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi
các bộ trưởng ngoại giao của năm quốc gia – Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, và Thái Lan – gặp gỡ tại toà nhà Bộ ngoại giao Thái Lan ở Bangkok và ký
Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là Tuyên bố Bangkok. Năm vị bộ trưởng ngoại
giao – Adam Malik của Indonesia, Narciso Ramos của Philippines, Abdul Razak của
Malaysia, S. Rajaratnam của Singapore, và Thanat Khoman của Thái Lan – được coi
là những người cha sáng lập của tổ chức.
Những động cơ cho sự ra đời của ASEAN là để các thành viên giới tinh tuý cầm
quyền có thể tập trung cho việc xây dựng quốc gia, nỗi sợ hãi chung về chủ nghĩa
cộng sản, đã làm giảm lòng tin ở hay mất tin cậy vào những cường quốc nước ngoài
trong thập niên 1960, cũng như một tham vọng về phát triển kinh tế; không đề cập tới
tham vọng của Indonesia trở thành một bá chủ trong vùng thông qua việc hợp tác cấp
vùng và hy vọng từ phía Malaysia và Singapore để kiềm chế Indonesia và đưa họ vào
trong một khuôn khổ mang tính hợp tác hơn. Không giống như Liên minh châu Âu,
ASEAN được thiết kế để phục vụ chủ nghĩa quốc gia.
Năm 1971, trước sự xoay chuyển nhanh chóng cục diện khu vực và thế giới, đặc biệt
trong quan hệ giữa các nước lớn, ASEAN ra Tuyên bố về Khu vực Hòa bình, Tự do
và Trung lập (ZOPFAN), nhấn mạnh quyết tâm giữ khu vực trung lập, không liên kết,
6
qua đó giữ vững hòa bình, ổn định và an ninh khu vực, hạn chế can thiệp của lực
lượng bên ngoài vào công việc nội bộ của khu vực.
Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất và các nước Đông Dương khác giành độc lập,
Hiệp hội đã ra Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN (hay còn gọi là Tuyên bố Bali I) thể
hiện quyết tâm hợp tác khu vực, đồng thời gửi đi tín hiệu thân thiện, hợp tác với các
quốc gia khác trong khu vực thông qua Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á
(TAC), kêu gọi các quốc gia trong khu vực cùng hợp tác vì hòa bình, an ninh chung
của khu vực, giải quyết xung đột, tranh chấp bằng đàm phán hòa bình. Cũng trong
năm này nhà nước Melanesian Papua New Guinea được trao quy chế quan sát viên.
Trong suốt thập niên 1970, tổ chức này bám vào một chương trình hợp tác kinh tế, sau
Hội nghị thượng đỉnh Bali năm 1976. Nó đã giảm giá trị hồi giữa thập niên 80 và chỉ
được hồi phục khoảng năm 1991 nhờ một đề xuất của Thái Lan về một khu vực tự do
thương mại cấp vùng. Sau đó khối này mở rộng khi Brunei Darussalam trở thành
thành viên thứ sáu sau khi gia nhập ngày 8 tháng 1 năm 1984, chỉ một tuần sau khi
học giành được độc lập ngày 1 tháng 1.
Năm 1992, cùng với xu thế thế giới sau Chiến tranh lạnh tập trung vào phát triển kinh
tế và thương mại, ASEAN đã ký Hiệp định khung về chương trình ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung cho Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA), bắt đầu tiến
trình tự do hóa kinh tế khu vực. Cũng trong năm, ASEAN ra Tuyên bố về Biển Đông
xác lập nguyên tắc giải quyết các mâu thuẫn ở khu vực này bằng biện pháp hòa bình.
Từ năm 1993 đến 1994, ASEAN bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại, thúc đẩy đối
thoại về an ninh ở khu vực thông qua việc lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) tại
Hội nghị Bộ truởng ASEAN lần thứ 26 (tháng 7 năm 1993). Diễn đàn ARF đầu tiên
đã được tổ chức năm 1994.
7
Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy. Lào và Myanmar gia nhập
hai năm sau ngày 23/7/1997.
Tháng 12/1997 trước viễn cảnh ASEAN sẽ sớm hoàn tất việc mở rộng bao gồm cả 10
nước Đông Nam Á, mở ra trang sử mới cho khu vực, ASEAN đã thông qua Tầm nhìn
ASEAN 2020, vạch ra mục tiêu hướng tới một cộng đồng khu vực hòa bình, ổn định,
hài hòa và phát triển thịnh vượng.
Năm 1998, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VI tại Hà Nội, ASEAN đã thông
qua Chương trình hành động Hà Nội (HPA) nhằm triển khai thực hiện Tuyên bố về
Tầm nhìn ASEAN 2020 trong 6 năm 1998-2004.
Ngày 30/4/1999, Cambodia được kết nạp vào ASEAN tại Hà Nội, hoàn tất mục tiêu
của ASEAN trở thành một tổ chức khu vực với đầy đủ 10 quốc gia thành viên Đông
Nam Á.
Trong thập niên1990, khối có sự gia tăng cả về số thành viên cũng như khuynh hướng
tiếp tục hội nhập. Năm 1990, Malaysia đề nghị thành lập một Diễn đàn Kinh tế Đông
Á gồm các thành viên hiện tại của ASEAN và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Nhật
Bản và Hàn Quốc, với mục tiêu cân bằng sự gia tăng ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tổ
chức Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) cũng như tại vùng châu Á
như một tổng thể. Tuy nhiên, đề xuất này đã thất bại bởi nó gặp sự phản đối mạnh mẽ
từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Dù vậy, các quốc gia thành viên tiếp tục làm việc để hội nhập
sâu hơn. Năm 1992, kế hoạch Biểu thuế Ưu đãi Chung (CEPT) được ký kết như một
thời gian biểu cho việc từng bước huỷ bỏ các khoản thuế và như một mục tiêu tăng
cường lợi thế cạnh tranh của vùng như một cơ sở sản xuất hướng tới thị trường thế
giới. Điều luật này sẽ hoạt động như một khuôn khổ cho Khu vực Tự do Thương mại
ASEAN. Sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Đông Á năm 1997, một sự khôi phục lại
đề nghị của Malaysia được đưa ra tại Chiang Mai, được gọi là Sáng kiến Chiang Mai,
8
kêu gọi sự hội nhập tốt hơn nữa giữa các nền kinh tế của ASEAN cũng như các quốc
gia ASEAN Cộng Ba (Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc).
Bên cạnh việc cải thiện nền kinh tế của mỗi quốc gia thành viên, khối cũng tập trung
trên hoà bình và sự ổn định của khu vực. Ngày 15/12/1995, Hiệp ước Đông Nam Á
Không Vũ khí Hạt nhân (SEANWFZ) đã được ký kết với mục tiêu biến Đông Nam Á
trở thành Vùng Không Vũ khí Hạt nhân. Hiệp ước có hiệu lực ngày 28/3/1997 nhưng
mới chỉ có một quốc gia thành viên phê chuẩn nó. Nó hoàn toàn có hiệu lực ngày
21/6/2001, sau khi Philippines phê chuẩn, cấm hoàn toàn mọi loại vũ khí hạt nhân
trong vùng.
Sau khi thế kỷ 21 bắt đầu, các vấn đề chuyển sang khuynh hướng môi trường hơn. Tổ
chức này bắt đầu đàm phán các thoả thuận về môi trường. Chúng bao gồm việc ký kết
Thoả thuận về Ô nhiễm Khói bụi Xuyên biên giới ASEAN năm 2002 như một nỗ lực
nhằm kiểm soát ô nhiễm khói bụi ở Đông Nam Á. Không may thay, nó không thành
công vì những vụ bùng phát khói bụi Malaysia năm 2005 và khói bụi Đông Nam Á
năm 2006. Các hiệp ước môi trường khác do tổ chức này đưa ra gồm Tuyên bố Cebu
về An ninh Năng lượng Đông Á, và Đối tác Châu Á Thái Bình Dương về Phát triển
Sạch và Khí hậu, cả hai đều nhằm giải quyết những hiệu ứng có thể xảy ra từ sự thay
đổi khí hậu. Thay đổi khí hậu cũng là vấn đề được quan tâm hiện nay.
Năm 2002, trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp hoà bình cho vấn đề biển Đông, ASEAN
và Trung Quốc ký bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) tại Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở Phnom Penh.
Năm 2003, ASEAN tiến một bước nữa trong tăng cường liên kết khu vực khi cho ra
đời Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II), xác định mục tiêu thành
lập một Cộng đồng ASEAN gồm ba trụ cột: Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng
Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội.
9
Các lãnh đạo của mỗi nước, đặc biệt là Mahathir Mohamad của Malaysia, cũng cảm
thấy sự cần thiết hội nhập hơn nữa của khu vực. Bắt đầu từ năm 1997, khối đã thành
lập các tổ chức bên trong khuôn khổ của họ với mục tiêu hoàn thành tham vọng này.
ASEAN Cộng Ba là tổ chức đầu tiên trong số đó được thành lập để cải thiện những
quan hệ sẵn có với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiếp đó là Hội nghị thượng
đỉnh Đông Á còn rộng lớn hơn, bao gồm tất cả các nước trên cộng Ấn Độ, Australia,
và New Zealand. Nhóm mới này hoạt động như một điều kiện tiên quyết cho Cộng
đồng Đông Á đã được lên kế hoạch, dự định theo mô hình của Cộng đồng châu Âu
hiện đã không còn hoạt động nữa. Nhóm Nhân vật Nổi bật ASEAN đã được tạo ra để
nghiên cứu những thành công và thất bại có thể xảy ra của chính sách này cũng như
khả năng về việc soạn thảo một Hiến chương ASEAN.
Năm 2005, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần đầu tiên được tổ chức tại Kuala
Lumpur với sự tham gia của ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Úc và New Zealand.
Năm 2006, ASEAN được trao vị thế quan sát viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.
Đổi lại, tổ chức này trao vị thế "đối tác đối thoại" cho Liên hiệp quốc. Hơn nữa, ngày
23 tháng 7 năm đó, José Ramos-Horta, khi ấy là Thủ tướng Đông Timor, đã ký một
yêu cầu chính thức về vị thế thành viên và hy vọng quá trình gia nhập sẽ kết thúc ít
nhất năm năm trước khi nước này khi ấy đang là một quan sát viên trở thành một
thành viên chính thức.
Năm 2007, ASEAN kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi đầu, và 30 năm quan hệ ngoại giao
với Hoa Kỳ. Ngày 26/8/2007, ASEAN nói rằng các mục tiêu của họ là hoàn thành
mọi thoả thuận tự do thương mại của Tổ chức này với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand vào năm 2013, vùng với việc thành lập Cộng
đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Tháng 11/2007 các thành viên ASEAN đã ký
10
Hiến chương ASEAN, là một bước phát triển quan trọng nhất của ASEAN từ khi
thành lập, thông qua việc trao tư cách pháp nhân cho tổ chức ASEAN, tạo nền tảng
pháp lý và thể chế để ASEAN xây dựng Cộng đồng. Hiến chương có hiệu lực ngày
15/12/2008. Cùng trong năm ấy, Tuyên bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á tại
Cebu ngày 15/01/2007, của ASEAN và các thành viên khác của EAS (Australia,
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc), khuyến khích an ninh năng
lượng bằng cách tài trợ vốn cho các nghiên cứu về năng lượng thay thế cho các loại
nhiên liệu quy ước.
Tháng 2/2009 tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại Hủa hỉn, Thái Lan, các nhà
Lãnh đạo ASEAN đã thông qua Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN bao gồm các
Kế hoạch tổng thể xây dựng các Cộng đồng trụ cột Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn
hóa Xã hội ASEAN. Ngày 27/2/2009 một Thoả thuận Tự do Thương mại giữa 10
quốc gia thành viên khối ASEAN và New Zealand cùng đối tác thân cận của họ là
Australia đã được ký kết, ước tính rằng Thoả thuận Tự do Thương mại này sẽ làm
tăng GDP của 12 quốc gia lên thêm hơn 48 tỷ đô la trong giai đoạn 2000-2020.
11
III. CÁC THÀNH VIÊN
Hiện nay, ASEAN gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo ngày gia nhập:
Các quốc gia sáng lập (ngày 8 tháng 8 năm 1967)
Cộng hoà Indonesia
Liên bang Malaysia
Cộng hoà Philippines
Cộng hòa Singapore
Vương quốc Thái Lan
Các quốc gia gia nhập sau
Vương quốc Brunei (ngày 08/01/1984)
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (ngày 28/7/1995)
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (ngày 23/7/1997)
Liên bang Myanma (ngày 23/7/1997)
Vương quốc Campuchia (ngày 30/4/1999)
Quan sát viên
Papua New Guinea
Ứng cử viên
Đông Timo
12
██ Thành viên đầy đủ ASEAN
██ Quan sát viên ASEAN
██ Ứng cử viên ASEAN
██ ASEAN + 3
███ Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á
██████ Diễn đàn Khu vực ASEAN
IV. MỤC TIÊU
Các mục tiêu của ASEAN là:
1. Duy trì và thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định và tăng cường hơn nữa các
giá trị hướng tới hòa bình trong khu vực;
2. Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác chính trị, an
ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội;
3. Duy trì Đông Nam Á là một Khu vực không có vũ khí hạt nhân và các loại vũ
khí hủy diệt hàng loạt khác;
13
4. Đảm bảo rằng nhân dân và các Quốc gia thành viên ASEAN được sống hoà
bình với toàn thế giới nói chung trong một môi trường công bằng, dân chủ và
hoà hợp;
5. Xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất với sự ổn định, thịnh
vượng, khả năng cạnh tranh và liên kết kinh tế cao, tạo thuận lợi cho thương
mại và đầu tư, bao gồm sự chu chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và dòng đầu tư;
di chuyển thuận lợi của các doanh nhân, những người có chuyên môn cao,
những người có tài năng và lực lượng lao động, và sự chu chuyển tự do hơn
các dòng vốn;
6. Giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN thông qua hợp
tác và giúp đỡ lẫn nhau;
7. Tăng cường dân chủ, thúc đẩy quản trị tốt và pháp quyền, thúc đẩy và bảo vệ
nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, với sự tôn trọng thích đáng các quyền
và trách nhiệm của các Quốc gia thành viên ASEAN;
8. Đối phó hữu hiệu với tất cả các mối đe dọa, các loại tội phạm xuyên quốc gia
và các thách thức xuyên biên giới, phù hợp với nguyên tắc an ninh toàn diện;
9. Thúc đẩy phát triển bền vững nhằm bảo vệ môi trường khu vực, tính bền vững
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn di sản văn hóa và chất lượng
cuộc sống cao của người dân khu vực;
10. Phát triển nguồn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo lâu dài, trong khoa học và công nghệ, để tăng cường quyền
năng cho người dân ASEAN và thúc đẩy Cộng đồng ASEAN;
11. Nâng cao phúc lợi và đời sống của người dân ASEAN thông qua việc tạo điều
kiện để họ tiếp cận bình đẳng các cơ hội về phát triển con người, phúc lợi và
công bằng xã hội;
12. Tăng cường hợp tác trong việc xây dựng cho người dân ASEAN một môi
trường an toàn, an ninh và không có ma túy;
14
13. Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân, trong đó khuyến khích
mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây dựng
cộng đồng ASEAN;
14. Đề cao bản sắc ASEAN thông qua việc nâng cao hơn nữa nhận thức về sự đa
dạng văn hoá và các di sản của khu vực; và
15. Duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như là động lực chủ chốt
trong quan hệ và hợp tác với các đối tác bên ngoài trong một cấu trúc khu vực
mở, minh bạch và thu nạp.
V. CÁC NGUYÊN TẮC
ASEAN và các Quốc gia thành viên sẽ hoạt động theo các Nguyên tắc dưới đây:
(a) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc
của tất cả các Quốc gia thành viên;
(b) Cùng cam kết và chia sẻ trách nhiệm tập thể trong việc thúc đẩy hòa bình, an
ninh và thịnh vượng ở khu vực;
(c) Không xâm lược, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hay các hành động khác
dưới bất kỳ hình thức nào trái với luật pháp quốc tế;
(d) Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình;
(e) Không can thiệp vào công việc nội bộ của các Quốc gia thành viên ASEAN;
(f) Tôn trọng quyền của các Quốc gia thành viên được quyết định vận mệnh của
mình mà không có sự can thiệp, lật đổ và áp đặt từ bên ngoài;
(g) Tăng cường tham vấn về các vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích
chung của ASEAN;
(h) Tuân thủ pháp quyền, quản trị tốt, các nguyên tắc của nền dân chủ và chính
phủ hợp hiến;
15
(i) Tôn trọng các quyền tự do cơ bản, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, và công
bằng xã hội;
(j) Đề cao Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế bao gồm cả luật
nhân đạo quốc tế mà các Quốc gia thành viên đã tham gia;
(k) Không tham gia vào bất kỳ một chính sách hay hoạt động nào, kể cả việc sử
dụng lãnh thổ của một nước, do bất kỳ một Quốc gia thành viên ASEAN hay
ngoài ASEAN hoặc đối tượng không phải là quốc gia tiến hành, đe dọa đến
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sự ổn định chính trị và kinh tế của các Quốc
gia thành viên ASEAN;
(l) Tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo của người dân
ASEAN, đồng thời nhấn mạnh những giá trị chung trên tinh thần thống nhất
trong đa dạng;
(m) Giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong các quan hệ về chính trị, kinh tế,
văn hoá và xã hội với bên ngoài, đồng thời vẫn duy trì tính chủ động, hướng ra
bên ngoài, thu nạp và không phân biệt đối xử; và
(n) Tuân thủ các nguyên tắc thương mại đa biên và các cơ chế dựa trên luật lệ của
ASEAN nhằm triển khai có hiệu quả các cam kết kinh tế, và giảm dần, tiến tới
loại bỏ hoàn toàn các rào cản đối với liên kết kinh tế khu vực, trong một nền
kinh tế do thị trường thúc đẩy.
VI. CƠ CẤU TỔ CHỨC
Hiến chương ASEAN quy định bộ máy tổ chức của ASEAN gồm các cơ quan chính
sau:
1. Cấp cao ASEAN bao gồm những Người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ
các quốc gia thành viên.
- Cấp cao ASEAN:
16
o Là cơ quan hoạch định chính sách tối cao của ASEAN;
o Xem xét, đưa ra các chỉ đạo về chính sách và quyết định các vấn đề then
chốt liên quan đến việc thực hiện các mục tiêu của ASEAN, các vấn đề
quan trọng liên quan đến lợi ích của các Quốc gia thành viên và tất cả các
vấn đề do Hội đồng Điều phối ASEAN, các Hội đồng Cộng đồng ASEAN
và các Cơ quan cấp Bộ trưởng chuyên ngành đệ trình lên;
o Chỉ đạo các Bộ trưởng liên quan thuộc từng Hội đồng tiến hành các hội
nghị liên Bộ trưởng đặc biệt, và giải quyết các vấn đề quan trọng của
ASEAN có liên quan đến các Hội đồng Cộng đồng. Các quy định về thủ tục
tiến hành các hội nghị này sẽ do Hội đồng Điều phối ASEAN thông qua;
o Tiến hành những biện pháp thích hợp để xử lý các tình huống khẩn cấp tác
động tới ASEAN;
o Quyết định các vấn đề liên quan được trình lên Cấp cao;
o Cho phép thành lập và giải tán các Cơ quan cấp Bộ trưởng chuyên ngành và
các thể chế khác của ASEAN; và
o Bổ nhiệm Tổng Thư ký ASEAN, với hàm và quy chế Bộ trưởng, và Tổng
thư ký ASEAN sẽ phục vụ với sự tin tưởng và hài lòng của những Người
đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ, dựa trên khuyến nghị của Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN.
- Hội nghị Cấp cao ASEAN:
o Tiến hành hai lần một năm, và do Quốc gia thành viên giữ chức Chủ tịch
ASEAN chủ trì tổ chức; và
o Sẽ được nhóm họp khi cần thiết như là các cuộc họp đặc biệt hoặc bất
thường do Quốc gia thành viên giữ chức Chủ tịch ASEAN chủ trì tại địa
điểm được các Quốc gia thành viên ASEAN nhất trí.
17
2. Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) gồm các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN,
họp ít nhất 2 lần một năm.
- Hội đồng Điều phối ASEAN:
o Chuẩn bị cho các cuộc họp Cấp cao ASEAN;
o Điều phối việc thực hiện các thỏa thuận và quyết định của Cấp cao ASEAN;
o Phối hợp với các Hội đồng Cộng đồng ASEAN nhằm tăng cường sự nhất
quán về chính sách, hiệu quả và hợp tác giữa các cơ quan này;
o Phối hợp các báo cáo của các Hội đồng Cộng đồng ASEAN để trình lên
Cấp cao ASEAN;
o Xem xét báo cáo hàng năm của Tổng thư ký về các hoạt động của ASEAN;
o Xem xét báo cáo của Tổng thư ký ASEAN về chức năng và hoạt động của
Ban thư ký ASEAN và các cơ quan liên quan khác;
o Thông qua việc bổ nhiệm và miễn nhiệm các Phó Tổng thư ký ASEAN
theo khuyến nghị của Tổng thư ký; và
o Thực hiện các nhiệm vụ khác được nêu trong Hiến chương này, hoặc các
chức năng khác do Cấp cao ASEAN trao cho.
- Hội đồng Điều phối ASEAN sẽ được các quan chức cao cấp liên quan hỗ trợ.
3. Các Hội đồng Cộng đồng ASEAN bao gồm Hội đồng Cộng đồng Chính trị -
An ninh ASEAN (APSCC), Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AECC) và
Hội đồng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCCC).
- Trực thuộc mỗi Hội đồng Cộng đồng ASEAN sẽ có các Cơ quan chuyên ngành
cấp Bộ trưởng.
- Các Quốc gia thành viên sẽ cử đại diện quốc gia tham dự các cuộc họp của Hội
đồng Cộng đồng ASEAN.
18
- Để thực hiện các mục tiêu của từng trụ cột trong ba trụ cột của Cộng đồng
ASEAN, mỗi Hội đồng Cộng đồng ASEAN:
o Đảm bảo việc thực hiện các quyết định có liên quan của Cấp cao ASEAN;
o Điều phối công việc trong các lĩnh vực phụ trách, và những vấn đề có liên
quan đến các Hội đồng Cộng đồng khác; và
o Đệ trình các báo cáo và khuyến nghị về những vấn đề thuộc phạm vi trách
nhiệm lên Cấp cao ASEAN.
- Mỗi Hội đồng Cộng đồng ASEAN sẽ họp ít nhất hai lần một năm và sẽ do Bộ
trưởng có liên quan của Quốc gia thành viên đang giữ cương vị Chủ tịch
ASEAN chủ trì.
- Mỗi Hội đồng Cộng đồng ASEAN sẽ được các quan chức cao cấp có liên quan
hỗ trợ.
4. Ủy ban các Đại diện thƣờng trực ASEAN (CPR) đặt tại Gia-các-ta, đóng vai
trò là cơ quan đầu mối, theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác hàng ngày
của ASEAN.
- Các Quốc gia thành viên ASEAN sẽ bổ nhiệm một Đại diện thường trực có
hàm Đại sứ bên cạnh ASEAN đặt tại Gia-các-ta.
- Các Đại diện thường trực tạo thành Ủy ban các Đại diện Thường trực:
o Hỗ trợ công việc của các Hội đồng Cộng đồng ASEAN và các Cơ quan
chuyên ngành cấp Bộ trưởng ASEAN;
o Phối hợp với Ban thư ký ASEAN Quốc gia và các Cơ quan chuyên ngành
cấp Bộ trưởng khác của ASEAN;
o Liên hệ với Tổng thư ký ASEAN và Ban thư ký ASEAN về tất cả các vấn
đề liên quan đến công việc của mình;
19
o Hỗ trợ hợp tác giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài; và
o Thực thi các nhiệm vụ khác do Hội đồng Điều phối ASEAN quyết định.
5. Tổng thƣ ký ASEAN và Ban thƣ ký ASEAN đặt tại Gia-các-ta, đóng vai trò
là cơ quan hỗ trợ hành chính cho các hoạt động hợp tác ASEAN.
a. Tổng thƣ ký ASEAN sẽ được Cấp cao ASEAN bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm,
không gia hạn, được lựa chọn trong số các công dân các Quốc gia thành viên
ASEAN, luân phiên theo thứ tự tên nước bằng chữ cái tiếng Anh, có tính đến
sự liêm khiết, năng lực, kinh nghiệm chuyên môn và bình đẳng giới.
- Tổng thư ký ASEAN:
o Thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm của mình theo các quy định trong
Hiến chương và các văn kiện, nghị định thư liên quan, và các tập quán đã
có của ASEAN;
o Tạo điều kiện thuận lợi và theo dõi tiến độ thực hiện các thỏa thuận và
quyết định của ASEAN, và đệ trình báo cáo hàng năm về các hoạt động của
ASEAN lên Cấp cao ASEAN;
o Tham gia vào các cuộc họp Cấp cao ASEAN, các Hội đồng Cộng đồng
ASEAN, Hội đồng Điều phối ASEAN, và các Cơ quan chuyên ngành
ASEAN cấp Bộ trưởng và các cuộc họp liên quan khác của ASEAN;
o Thể hiện quan điểm của ASEAN và tham gia vào các cuộc họp với các đối
tác bên ngoài phù hợp với các đường lối chính sách đã được thông qua và
quyền hạn của Tổng thư ký; và
o Khuyến nghị lên Hội đồng Điều phối ASEAN để phê duyệt việc bổ nhiệm
và miễn nhiệm các Phó Tổng thư ký.
- Tổng thư ký cũng là Quan chức Hành chính cao cấp nhất của ASEAN.
20
- Tổng thư ký được bốn Phó Tổng thư ký với hàm và quy chế cấp Thứ trưởng
giúp việc. Các Phó Tổng thư ký sẽ chịu trách nhiệm trước Tổng thư ký trong
việc thực thi chức trách của mình.
- Bốn Phó Tổng thư ký sẽ không cùng quốc tịch với Tổng thư ký và đến từ bốn
Quốc gia thành viên ASEAN khác nhau.
- Bốn Phó Tổng thư ký bao gồm:
o Hai Phó tổng thư ký có nhiệm kỳ 3 năm, không gia hạn, và được lựa chọn
trong số các công dân của các Quốc gia thành viên ASEAN trên cơ sở luân
phiên theo vần chữ cái tiếng Anh, có tính đến sự liêm khiết, phẩm chất,
năng lực, kinh nghiệm, và bình đẳng giới; và
o Hai Phó tổng thư ký có nhiệm kỳ 3 năm, có thể gia hạn nhiệm kỳ thêm 3
năm nữa. Hai phó Tổng thư ký này sẽ được tuyển chọn công khai dựa trên
năng lực;
b. Ban thƣ ký ASEAN sẽ bao gồm Tổng thư ký và các nhân viên khác tùy theo
yêu cầu đặt ra.
6. Ban thƣ ký ASEAN Quốc gia: nằm trong Bộ Ngoại giao của các nước thành
viên, chịu trách nhiệm theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác ASEAN ở
cấp quốc gia.
- Mỗi Quốc gia thành viên ASEAN sẽ lập một Ban thư ký ASEAN Quốc gia với
nhiệm vụ:
o Đóng vai trò là đầu mối quốc gia;
o Là nơi lưu trữ thông tin về tất cả các vấn đề liên quan đến ASEAN ở cấp độ
quốc gia;
o Điều phối việc triển khai các quyết định của ASEAN ở cấp độ quốc gia;
21
o Điều phối và hỗ trợ công tác chuẩn bị của quốc gia cho các cuộc họp
ASEAN;
o Thúc đẩy xây dựng bản sắc và nâng cao nhận thức về ASEAN ở cấp độ
quốc gia; và
o Đóng góp vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN.
VII. CÁC CUỘC HỌP
Hội nghị cấp cao ASEAN, hay Hội nghị thượng đỉnh ASEAN (ASEAN
Summit) là hội nghị giữa các nhà lãnh đạo của các quốc gia thành viên Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á để thảo luận về các vấn đề hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa,
và an ninh giữa các nước thành viên với nhau cũng như với các thành viên đối thoại
của ASEAN.
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1976, Cấp cao V
được tổ chức vào năm 1995. Từ đó các nhà lãnh đạo ASEAN nhận thấy sự cần thiết
phải tổ chức hội nghị định kỳ hàng năm. Tuy nhiên, trong thời gian đầu, do tính chất
nội dung hội nghị không có gì đặc biệt, nên chỉ tổ chức hội nghị không chính thức. Từ
năm 2001, hội nghị chính thức mới được tổ chức thường niên. Cấp cao XII dự định tổ
chức vào năm 2006, song vì lý do an ninh mà nước chủ nhà Philippines đã quyết định
lùi thời gian tổ chức sang đầu năm 2007. Tới tháng 12/2008, Hiến chương ASEAN
bắt đầu có hiệu lực và cùng với nó, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN được tổ chức một
năm hai lần.
Thông thường, một Hội nghị cấp cao ASEAN bao gồm các phiên họp nội bộ
giữa các nhà lãnh đạo mười nước thành viên, phiên hội nghị giữa các nhà lãnh đạo với
các ngoại trưởng của các nước thành viên trong Diễn đàn Khu vực ASEAN, phiên
họp giữa các nhà lãnh đạo ASEAN+3, phiên họp giữa các nhà lãnh đạo ASEAN,
Australia và New Zealand. Từ Hội nghị cấp cao XI, bắt đầu có thêm phiên hội nghị
22
giữa các nhà lãnh đạo ASEAN với các nhà lãnh đạo của sáu nước Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Australia, New Zealand, và Ấn Độ tổng cộng chiếm tới gần một
nửa dân số thế giới với tên gọi chính thức là Hội nghị cấp cao Đông Á. Ngoài ra còn
có phiên hội nghị giữa các nhà lãnh đạo ASEAN với lãnh đạo Nga.
Các cuộc họp khác
Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) là một quá trình đối thoại không chính thức. Sáng
kiến này được đưa ra năm 1996 với mục tiêu tăng cường hợp tác giữa các quốc gia
châu Á và châu Âu, đặc biệt giữa các thành viên Liên minh châu Âu và ASEAN.
ASEAN, được đại diện bởi vị Tổng thư ký của mình, là một trong 45 đối tác ASEM.
Họ cũng chỉ định một đại diện trong ban quản lý Quỹ Á-Âu (ASEF), một tổ chức văn
hoá xã hội gắn liền với cuộc Gặp gỡ.
Ngoài các cuộc họp ở trên, các cuộc họp thường xuyên khác cũng được tổ chức.
Chúng bao gồm Cuộc họp Bộ trưởng ASEAN Thường niên cũng như các uỷ ban nhỏ
hơn khác, như Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á. Các cuộc họp tập trung
vào các chủ đề riêng biệt, như quốc phòng hay môi trường, và do các Bộ trưởng, thay
vì các nguyên thủ quốc gia tham dự.
VIII. XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG ASEAN
Tuyên bố Băng Cốc đánh dấu sự ra đời của ASEAN đã nêu các mục tiêu gồm đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực.
ASEAN mở rộng, bao gồm cả 10 nước Đông Nam Á với việc Việt Nam tham gia năm
1995, tiếp đó là Lào, Myanmar và Campuchia, đánh dấu bước ngoặt phát triển của
Hiệp hội và tạo điều kiện để hướng tới xây dựng một cộng đồng thịnh vượng và hòa
bình ở Đông Nam Á. Trải qua 4 thập kỷ hình thành và phát triển, nội dung hợp tác
giữa các nước thành viên với nhau và giữa ASEAN với bên ngoài ngày càng trở nên
23
sâu, rộng và hình thức ngày càng phong phú. Quá trình đó cũng đánh dấu sự hình
thành và phát triển các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị, an ninh, kinh tế
cho đến văn hóa-xã hội ASEAN cũng xây dựng được một loạt những văn kiện quan
trọng mang tính định hướng, tạo khuôn khổ cho hợp tác trong ASEAN và giữa
ASEAN với các đối tác bên ngoài. Trước những nhu cầu cấp bách cần phải nâng cao
hiệu quả hợp tác và trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới có nhiều biến chuyển
to lớn, ASEAN đã nỗ lực tăng cường liên kết khu vực, biến Hiệp hội thành một tổ
chức khu vực gắn kết chặt chẽ hơn, có vai trò và vị thế quan trọng ở khu vực và trên
thế giới, góp phần duy trì hoà bình, ổn định, sự phát triển kinh tế năng động của mỗi
nước và cả khu vực.
Năm 1997, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Hiệp hội, Hội nghị cấp cao ASEAN
không chính thức lần II (Kua-la Lăm-pơ, Malaysia, tháng 12/1997), ASEAN đã
thông qua văn kiện quan trọng Tầm nhìn ASEAN 2020, nêu định hướng phát triển lớn
của ASEAN trong những thập kỷ đầu thế kỷ 21, hướng tới mục tiêu xây dựng một tập
hợp hài hòa các dân tộc ở Đông Nam Á, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng,
gắn kết chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ đối tác năng động và một cộng đồng của
các xã hội đùm bọc lẫn nhau. Tầm nhìn ASEAN 2020 cũng nêu những mục tiêu cụ
thể trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội, văn hoá và quan hệ đối ngoại.
Có thể nói đây là một mốc quan trọng mới, đánh dấu bước chuyển giai đoạn của
ASEAN hướng tới một tổ chức chặt chẽ và ràng buộc hơn về pháp lý.
Để triển khai Tầm nhìn 2020, ASEAN đã xây dựng Chương trình Hành động Hà Nội
(HPA) được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 6 (Hà Nội, tháng 12/1998) với
các dự án/hoạt động hợp tác cụ thể trong giai đoạn 1999-2004. Do phải chịu tác động
nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997-1998 nên các hoạt động
hợp tác ASEAN nói chung và các dự án trong khuôn khổ HPA nói riêng giai đoạn này
chủ yếu tập trung vào khôi phục và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khu vực cũng
24
như khắc phục những hậu quả về mặt xã hội của cuộc khủng hoảng đối với các nước
thành viên.
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 8 (Phnôm Pênh, Campuchia, tháng 11/2002),
Thủ tướng Singapore đã đưa ra ý tưởng hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
như một mục tiêu cuối cùng của liên kết kinh tế khu vực như được đề ra trong Tầm
nhìn 2020, biến ASEAN trở thành một thị trường thống nhất, nơi hàng hóa, dịch vụ và
đầu tư, tự do hơn trong lưu chuyển vốn… Tiếp theo ý tưởng xây dựng AEC, năm
2003, Indonesia đề xuất ASEAN nên tiến tới xây dựng Cộng đồng An ninh (ASC)
nhằm tạo dựng một môi trường bền vững nơi các nước cùng chung sống trong hòa
bình, ổn định, giải quyết hòa bình các tranh chấp, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực
đồng thời tăng cường hợp tác để đối phó một cách tốt hơn với những thách thức an
ninh mới nổi lên. Để tạo cân bằng trong sự phát triển, ASEAN sau đó đã nhất trí hình
thành Cộng đồng xã hội-văn hoá.
Tại Hội nghị Cấp cao lần thứ 9 (Bali, Indonesia, tháng 10/2003), ASEAN đã ra Tuyên
bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II - BAC II), khẳng định quyết
tâm xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng An ninh (ASC),
Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Xã hội-văn hoá (ASCC), đồng thời cũng
phác thảo những ý tưởng lớn của từng Cộng đồng. Ban đầu, ASEAN dự kiến hoàn
thành Cộng đồng vào năm 2020, song trước những biến chuyển nhanh chóng của tình
hình khu vực và quốc tế, cũng như nhu cầu đẩy nhanh liên kết khu vực và phát triển
của từng nước thành viên, tại HNCC ASEAN 12 (tháng 1/2007), các nhà Lãnh đạo
ASEAN đã nhất trí phấn đấu đẩy nhanh việc hoàn thành mục tiêu này vào 2015, sớm
hơn dự kiến 5 năm. Các nước ASEAN cũng nhất trí đồng thời tiến hành xây dựng ba
cột trụ trên bởi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
25
Hướng tới mục tiêu đó, ASEAN hiện đã nỗ lực xây dựng và triển khai các chương
trình, kế hoạch hành động quan trọng như Chương trình hành động Viên-chăn (VAP),
các Kế hoạch hành động cụ thể xây dựng từng trụ cột Cộng đồng, đặc biệt là xây
dựng, ký kết và phê chuẩn Hiến chương ASEAN, góp phần đưa ASEAN trở thành
một thực thể chính trị-kinh tế gắn kết hơn và ràng buộc hơn về pháp lý.
Để tạo khuôn khổ và cụ thể hóa các bước đi trong tiến trình xây dựng Cộng đồng, tại
Hội nghị Cấp cao ASEAN 14 (tháng 2/2009), các nhà Lãnh đạo ASEAN đã thông qua
lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN gồm các kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng
đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-xã hội, cùng với
Kế hoạch công tác về Sáng kiến Liên kết ASEAN giai đoạn II (2009-2015), như một
văn kiện kế tục Chương trình Hành động Viên chăn (VAP), giúp ASEAN đẩy mạnh
các nỗ lực gia tăng liên kết khu vực và thực hiện thành công mục tiêu xây dựng Cộng
đồng.
1. CỘNG ĐỒNG CHÍNH TRỊ - AN NINH ASEAN (APSC)
Các nước ASEAN nhận thức rõ phải đưa hợp tác chính trị và an ninh lên một tầm cao
mới, nhằm duy trì hoà bình, ổn định khu vực, đối phó với những thách thức an ninh
truyền thống và phi truyền thống, bên cạnh việc thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực và
mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Năm 2003, Indonesia, với tư cách Chủ tịch
Ủy ban Thường trực ASEAN (2003-2004), một mặt muốn ghi dấu ấn của mình, khôi
phục vai trò, vị thế của mình trong khu vực, mặt khác muốn tạo cân bằng với ý tưởng
hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN, đã đưa ra ý tưởng Cộng đồng an ninh ASEAN.
Ý tưởng đó đã được ASEAN chấp nhận và ủng hộ.
Ban đầu, ASEAN dùng tên gọi Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) trong các văn kiện
như Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II, Chương trình Hành động Viên-chăn (VAP) và Kế
hoạch hành động xây dựng ASC. Sau khi có Hiến chương (2007), Cộng đồng An ninh