Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

tiểu luận môn quản trị sự thay đổi sự thay đổi về mặt xã hội, kỹ thuật và thể chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.53 KB, 79 trang )


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA S AU ĐẠI HỌC


TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ SỰ THAY ĐỔI
ĐỀ TÀI :
SỰ THAY ĐỔI VỀ MẶT XÃ HỘI, KỸ
THUẬT VÀ THỂ CHẾ

Thầy hướng dẫn :
Nguyễn Hữu Lam
Trần Hồng Hải
Nhóm 9:
1. Đào Hùng Anh
2. Lê Thị Hiền
3. Nguyễn Kim Nam
4. Lê Hùng Tú

2
Chương 9: Sự thay đổi về mặt xã hội, kĩ thuật và thể chế
Andrew H. Van de Ven & Timothy J. Hargrave


Điều gì giải thích cho những thay đổi về mặt kĩ thuật và xã hội đáng kể được quan sát ở
nhiều nơi trên thế giới trong suốt thế kỉ qua? Câu trả lời cho vấn đề này là khác nhau, phụ
thuộc vào mức độ giả định rằng cuộc sống xã hội là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân hay
chủ nghĩa tập thể. Những người theo chủ nghĩa cá nhân nhìn nhận sự thay đổi về xã hội
và kinh tế như là sản phẩm của trung gian cá nhân, nơi mà những cá nhân có mục đích và


định hướng mục tiêu thực hiện những mong muốn tự do của mình nhằm xây dựng những
sắp xếp xã hội làm thỏa mãn sở thích và giá trị của bản thân. Những người theo chủ nghĩa
tập thể thì lại có cái nhìn vĩ mô và có cấu trúc hơn. Trong khi không cần phải phủ nhận
tính đại diện của cá nhân, họ nhìn nhận hành động con người thì được quyết định phần
lớn bởi tập thể. Những người theo chủ nghĩa tập thể là những cấu trúc xã hội được xây
dựng bởi con người nhằm cung cấp sự ổn định và ý nghĩa đối với cuộc sống. Đó chính là
“quy luật của trò chơi” (North, 1990) thúc đẩy và điều khiển hành vi con người.
Áp lực và sự ảnh hưởng qua lại giữa hành vi tối đa hóa lợi ích của cá nhân với các ảnh
hưởng mang tính quyết định của tập thể - chẳng hạn, giữa hành động và cấu trúc – là
những chủ đề bất biến trong các thuyết về xã hội và kinh tế. Theo trường phải kinh tế học,
chủ nghĩa tập thể nổi lên vào cuối thế kỉ thứ 19 đáp lại những giả định của chủ nghĩa cá
nhân mang tính phương pháp luận của kinh tế học cổ điển đã nhìn nhận con người như là
những thực thể có lý trí, có xu hướng tối đa hóa lợi ích và mang ý kiến cá nhân (Dorfman,
1963). Một vài người trong số những nhà kinh tế học theo quan điểm tập thể “lỗi thời” –
Veblen, Mitchell, Ayres – ban đầu hứng thú với sự nổi lên và phổ biến của tập quán và
thói quen “hiển nhiên”, trong khi những người khác chẳng hạn như Commons lại tập
trung vào những chuyển biến xã hội (chẳng hạn như tổ chức công đoàn lao động và sự
biến mất của chủ nghĩa độc quyền) và xem xét cách thức mà những quy định làm việc của

3
tập thể được thiết lập nhằm chỉ rõ những nghi hoặc và bất công giữa các đảng và tầng lớp
với quyền lực không tương xứng và lợi ích khác nhau.
Trong phần tư cuối cùng của thế kỉ thứ 20, một trường phái của chủ nghĩa cá nhân nổi lên
trong các nhà xã hội học về tổ chức nhằm xác định các vấn đề về cách thức và nguyên
nhân các tổ chức tiếp nhận các sự sắp xếp về mặt thể chế tương tự nhau. Powell và
DiMaggio (1991) cho rằng chủ nghĩa cá nhân mới mẻ này được xây dựng dựa trên nền
tảng của “cuộc cách mạng về nhận thức” trong xã hội học, phương pháp và phong tục học
(Garfinkel, 1967) và lí thuyết xây dựng xã hội (Berger và Luckmann, 1967). Các tác giả
nhìn nhận sự thể chế hóa (tập thể hóa) như là một tiến trình định hình tập thể mà xem xét
các quy định, giá trị và mâu thuẫn như là thứ yếu và ít quan trọng hơn tiến trình nhận

thức. Những người theo trường phải tập thể mới nhìn nhận sự xây dựng xã hội của chữ
viết, chuẩn mực và phân tầng như là “những thứ mà thể chế được hình thành” (Powell và
DiMaggio, 1991, p. 15). Một vài người cũng tiếp nhận phương pháp mới mang tính phổ
biến mà phương pháp này lại tách khỏi những hành động có tính mục đích và khuôn khổ
của những nhóm lợi ích khác nhau trong những thể chế đang thay đổi. Như chúng ta đã
thấy, một vài học giả theo trường phải tập thể mới bắt đầu nhìn nhận vấn đề này bằng việc
xem xét mối quan hệ qua lại giữa thuyết tiền định về cấu trúc và đại diện cá nhân.
Các học giả ở cả 2 khía cạnh đều nghiên cứu sự thay đổi về thể chế. Các học giả về
chuyển biến xã hội tập trung vào những thay đổi về thể chế xảy ra thông qua các cam
đoan, hành động chính trị và các chiến dịch động viên cơ sở nhằm chỉ rõ chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chiến tranh, vũ khí nguyên tử, vấn đề giới tính, sự tàn phá về môi trường
và những vấn đề xã hội khác. Các học giả về công nghệ thì tập trung vào sự ảnh hưởng
qua lại của thay đổi về kĩ thuật, xã hội và thể chế trong các nghiên cứu của mình về những
cải tiến công nghê, khởi sự và sự nổi lên của ngành công nghiệp. Các học giả ở cả 2
trường phái đều tập trung vào những tiến trình của hành động tập thể, cũng như những
hành động tìm kiếm lợi ích mà những người thực hiện chúng nhằm ảnh hưởng lên các tiến
trình trên.

4
Gần đây các học giả đã quan sát những điểm giống nhau đáng kể trong các tài liệu về sự
thay đổi về xã hội, kĩ thuật và thể chế. Họ đã vẽ ra một sơ đồ khái quát hơn và hệ thống
hơn về nền tảng chung được chia sẻ bởi những lĩnh vực này. Bằng việc xem lại tài liệu,
chương này sẽ cố gắng cung cấp một sơ đồ như thế. Chúng tôi thảo luận về những công
trình mang tính nhận thức và thực nghiệm lớn từ trường phái cũ của kinh tế học thể chế,
trường phải mới của lí thuyết thể chế được tìm thấy trong thuyết tổ chức và xã hội học,
công trình về cải tiến công nghệ và sự nổi lên của ngành công nghiệp trong tài liệu quản
trị, và tài liệu về những chuyển biến xã hội được công bố bởi những nhà xã hội học và các
nhà khoa học về mặt chính trị. Chúng tôi tập trung vào việc xem xét những tương tác
năng động giữa các thể chế, cải tiến công nghệ và sự chuyển biến xã hội. Chúng tôi nhận
diện những điểm giống và khác trong các mặt này và chỉ ra một vài đóng góp thêm vào

mà mỗi khía cạnh mang lại để hiểu hơn về sự thay đổi thể chế.
Chúng tôi nhấn mạnh vào sự thay đổi về mặt thể chế hơn là bản thân thuyết thể chế.
Chúng tôi xem việc nghiên cứu thay đổi về thể chế là cực kì quan trọng vì vài nguyên
nhân. Thứ nhất, những thể chế trở nên quan trọng khi những vấn đề thiết yếu đang bị đe
dọa. Khi đọc Meyer và Rowan (1977), chúng ta có thể kết luận nhầm rằng những thể chế
(tổ chức) là những chuyện hoang đường mang tính biểu tượng không nhằm phục vụ cho
một mục đích hữu ích nào hơn là cung cấp một sự ngụy trang khiến cho tổ chức trở nên
xác thực bởi vì những hoạt động của nó là thỏa mãn những kì vọng của xã hội. Ngược lại,
Stinchcombe (1997) cho rằng tính chính thức và những nghi lễ của thể chế là tăng dần
cùng với tầm quan trọng cơ bản của vấn đề hay quyết định được đưa ra, bởi vì có nhiều
điều được thể chế hóa là vấn đề mà chúng quan tâm.
Nói cách khác, khi hệ thống giá trị thông báo thứ hạng của thể chế như là một thứ gì đó
được ưu tiên cao, thì những người gìn giữ thể chế sẽ có thể chính thức hóa sự phù hợp với
thể chế vào trong nghi lễ được thiết kế để theo dõi, thúc đẩy và ban hành giá trị của thứ
đó. Quyền ưu tiên càng cao thì sự chính thức hóa và nghi lễ càng cao. Một điều càng
mang tính nghi lễ cao trong một tổ chức, thì chúng lại càng ít mang tính đơn thuần là một
nghi lễ bởi nó càng mang tính quan trọng một cách vững chắc…chẳng hạn trong luật pháp

5
chứng minh: sự công bằng càng phụ thuộc vào một lượng bằng chứng bao nhiêu thì luật
pháp bằng chứng mà ở đó có sự giới thiệu về bằng chứng đó càng mang tính chính thức
bấy nhiêu.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai để nghiên cứu về sự thay đổi thể chế là nó cung cấp một
cách thức khác đáng tin cậy để hiểu những tiến trình thay đổi trong nền kinh tế mới nổi
mà những thuyết truyền thống về tổ chức là thiếu trang bị để lí giải. Davis và McAdam
(2000) cho rằng những tiến trình sản xuất “không biên giới” ngày càng tăng, tính ưu thế
của những tiêu chuẩn đánh giá dựa trên thị trường tài chính và những tiến trình xã hội và
chính trị định hình cấu trúc và cải tiến của những tổ chức đang làm suy yếu dần tính hữu
ích mang tính biện minh của thuyết tổ chức chẳng hạn sự phụ thuộc vào tài nguyên và
sinh thái học dân số. Các lí thuyết về sự thay đổi thể chế và chuyển biến xã hội có thể

cung cấp sự giải thích phù hợp hơn với hành động tập thể mang tính cạnh tranh và hợp tác
giữa các mạng lưới tổ chức và những tác nhân thuộc thể chế khác trong nền kinh tế hậu
công nghiệp. Tuy nhiên, để nhận ra tiềm năng này, quan điểm ổn định của lí thuyết tân
thể chế với tư cách là những lực lượng có cấu trúc nhất quán và liên tục cần phải được
xem lại và phát triển. Việc tập trung vào sự thay đổi về thể chế tương đối bị xao lãng
trong các tài liệu thể chế gần đây.
Phần tiếp theo của bài giới thiệu này xác định những khái niệm cơ bản và cung cấp một
khuôn khổ cho việc phân tích sự thay đổi về thể chế. Chúng tôi xác định 4 quan niệm
khác biệt về sự thay đổi thể chế, gồm thiết kế tổ chức, sự thích ứng về mặt tổ chức, sự phổ
biến về mặt tổ chức và hành động tập thể. Phần 2 của chương xem lại các công trình đi
kèm với mỗi quan điểm. Chúng tôi bao quát cả những bài lí thuyết sâu xa cũng như các
nghiên cứu thực nghiệm. Phần kết luận của chương thảo luận về những chủ đề lớn trong
tài liệu về sự thay đổi thể chế và sự tổng hợp của các quan điểm.
CÁC ĐỊNH NGHĨA.
North (1990, p. 2) định nghĩa các thể chế như là “quy định của trò chơi trong một xã hội
hoặc một cách chính thức hơn….đó là những quy định được thiết lập bởi con người nhằm
định hình sự tương tác của con người với nhau.” Chúng được xây dựng bởi xã hội nhằm

6
khiến cho cuộc sống ổn định và ý nghĩa và chúng cũng quy định và thúc đẩy hành động.
Scott (2001) mô tả những thể chế bao gồm những thành tố mang tính văn hóa - nhận thức,
chuẩn mực và quy định hay chính là những “trụ cột”. Mặc dù Scott nhấn mạnh khía cạnh
văn hóa - nhận thức của các thể chế, ông nhìn nhận “thể chế” như là một khái niệm đa
khía cạnh. Đó chính là những trụ cột nhận thức, chuẩn mực và quy định đại diện cho 3
khía cạnh khác nhau của một thể chế đơn lẻ. Nét nổi bật tương ứng của 3 khía cạnh này là
khác biệt với những vấn đề được xác định. Chẳng hạn, vì những người theo trường phái
thể chế cũ (chẳng hạn như Commons, 1934/1961; 1950) chỉ ra những vấn đề về thiết kế
các quy tắc trong thể chế có thể thi hành được đối với việc thiết lập những nghi hoặc và
bất công giữa các đảng đối lập, chúng tập trung vào khía cạnh quy định của các thể chế.
Những người theo trường phái tân thể chế tập trung vào khía cạnh nhận thức – văn hóa

phần lớn là vì nó thích hợp với vấn đề nghiên cứu của họ về cách thức mà những thể chế
tái sản xuất và mở rộng. Họ hầu như quan tâm đến việc những thể chế trở thành những
khuôn khổ về tinh thần hiển nhiên giúp cho việc xử lí thông tin và ra quyết định dễ hơn và
thúc đẩy con người làm cho thế giới ý nghĩa hơn. Họ nhìn nhận những thể chế, mỗi khi
được thành lập, như là những tác nhân mạnh định hình hành vi của cá nhân và tổ chức.
Họ thiết lập nên cách thức mà thế giới của con người phải trở thành, nên trở thành và
thậm chí qua điểm nhận thức về việc thế giới là gì. Những lí thuyết gia theo trường phái
tân thể chế chẳng hạn như Tolbert và Zucker (1996) tập trung vào việc thể chế hóa, đó là
tiến trình mà những thể chế được phổ biến và chính thức hóa – đó là, tiến trình mà những
thể chế trở thành hiển nhiên và được trải nghiệm bởi những con người thuộc thể chế đó
như là thực tế có mục đích hơn là được xây dựng về mặt xã hội.
Theo Leonid Hurwicz (1993), chúng tôi phân biệt những người trong thể chế (hay những
thực thể) với những sự sắp xếp về thể chế, với thuật ngữ thể chế là đề cập đến sự sắp xếp
về thể chế. Đây là một sự phân biệt mà không phải tất cả các học giả đều sử dụng. Chúng
tôi nghĩ rằng sự phân biệt này là quan trọng, đặc biệt về xu hướng trong tư liệu bỏ qua
hoặc không xem xét những nền tảng thể chế và pháp lí của tổ chức. Đó chỉ là bởi bản chất

7
của một sự sắp xếp về thể chế mà một tổ chức có thể thự hiện như thể nó là một con
người với những quyền và nghĩa vụ được thiết kế một cách đặc biệt.
Phần khó để hiểu những thể chế chính là tính phổ biến và đa dạng của chúng. Một sự sắp
xếp về thể chế có thể là rất đơn giản (chẳng hạn, tín hiệu đèn đỏ hay chuông của trường
học) hoặc được tranh luận gay gắt và phức tạp (chẳng hạn như sao chép vô tính từ tế bào
mầm, những luật về môi trường, thực hành kiểm toán và tư vấn bởi những công ty kế
toán). Sự sắp xếp về thể chế có thể áp dụng cho những thực thể thể chế đơn lẻ (chẳng hạn
như việc thuê tuyển nội bộ trong công ty hay những chính sách thăng tiến), những tổ chức
trong một ngành hoặc dân cư (chẳng hạn như những tiêu chuẩn công nghệ, quy định về
cạnh tranh thị trường hoặc việc hình thành một tổ chức cụ thể), tất cả những cư dân của
một quốc gia (chẳng hạn, việc đánh thuế, quyền về tài sản, luật về quyền tự do công dân),
những con người trong nhiều đất nước (chẳng hạn như luật về quyền con người, thuế

quan và hiệp định thương mại, những thỏa thuận về môi trường trên toàn thế giới, những
giá trị về ngoại tệ.)
Chúng tôi định nghĩa sự thay đổi về thể chế như là sự khác nhau trong việc hình thành,
chất lượng hoặc trạng thái qua thời gian trong một thể chế. Sự thay đổi về sắp xếp trong
thể chế có thể bị quyết định bởi việc quan sát sự sắp xếp tại 2 thời điểm hoặc nhiều hơn
trong tập hợp các khía cạnh (chẳng hạn như nhận thức, chuẩn mực và sự rõ ràng về mặt
quy định) và sau đó tính toán sự khác nhau qua thời gian trong các khía cạnh này. Nếu có
sự khác biệt đáng kể, chúng tôi có thể nói rằng sự sắp xếp về thể chế đã thay đổi. Nhiều
quan điểm trong tài liệu đồ sộ về sự thay đổi thể chế tập trung vào bản chất của sự khác
biệt này, điều gì sản sinh ra chúng, và những hậu quả. Điều ít được chú ý hơn sẽ liên quan
đến những tiến trình của sự thay đổi về thể chế.
Hai định nghĩa khác biệt về tiến trình thường được sử dụng trong tài liệu: (1) danh mục
các khái niệm hay các biến số liên quan đế những hành động và hoạt động và (2) sự mô tả
tường thuật về cách thức mà mọi thứ phát triển và thay đổi (Van de Ven, 1992). Khi định
nghĩa đầu tiên được sử dụng, tiến trình thường đi kèm với “thuyết sai số” (Mohr, 1982) về
sự thay đổi, mà trong đó tập hợp những biến số độc lập giải thích về mặt thống kê những

8
sai số trong các tiêu chuẩn kết quả (biến phụ thuộc). Ý nghĩa thứ hai của tiến trình thường
đi kèm với sự giải thích theo “thuyết tiến trình” về trật tự thời gian và trình tự trong đó tập
hợp những sự kiện thay đổi mang tính riêng biệt là xảy ra dựa trên câu chuyện hay sự
tường thuật mang tính lịch sử (Abott, 1988; Pentland, 1999; Poole, Van de Ven, Dooley,
và Holmes, 2000). Theo cách sử dụng này, vấn đề về “cách mà sự thay đổi diễn ra” được
xác định bởi việc tường thuật trình tự thời gian những sự kiện diễn ra trong một sự sắp
xếp về thể chế.
Trong việc xem lại tài liệu, chúng tôi xem các công trình cụ thể như là những thuyết tiến
trình hay thuyết biến số. Trong khi những ví dụ của thuyết tiến trình và thuyết biến số có
thể được tìm thấy trong mỗi khía cạnh của 4 khía cạnh về sự thay đổi được xác định trong
chương này, hầu hết công trình hiện nay về sự thay đổi về chể quan tâm đến thuyết sai số.
Trong khi một nghiên cứu đơn lẻ lại sử dụng thuyết sai số hoặc thuyết tiến trình nhưng

không cả hai, 2 cách tiếp cận này là không mang tính duy nhất về lí thuyết và trong thực
tế chúng có thể bổ sung cho nhau. Poole và cộng sự (2000, chương 2) đã thảo luận sâu
hơn về các phân biệt quan trọng giữa thuyết tiến trình và sai số.
Những học giả về thể chế đã tranh luận không ngừng về việc liệu sự thay đổi về thể chế
có liên tục và mang tính tiến hóa hay không liên tục và mang tính cách mạng. Chúng tôi
tán thành với Campbell (2001) rằng sự phân biệt giữa sự thay đổi mang tính tiến hóa và
sự thay đổi mang tính cách mạng phần lớn chính là chức năng của mức độ phân tích và
phạm vi thời gian của tiến trình thay đổi. Điều hóa ra chính là sự thay đổi không liên tục
theo khoảng cách có thể được xem xét kĩ hơn có thể được xem là mang tính liên tục và
dần dần. Chẳng hạn, trong nghiên cứu về hậu cộng sản ở Đông Âu và Liên minh Xô Viết
cũ, Campbell va Pedersen (1996) dẫn ra rằng những thay đổi dường như mang tính cách
mạng trong các cấu trúc cầm quyền ở quốc gia thực tế là kết quả của những thay đổi
mang tính tiến hóa hơn trong những cấu trúc rời rạc.
Một vài học giả đã phát triển những mô hình khác nhau để phân biệt những khuôn mẫu
thay đổi liên tục (lớn lên, tiến hóa) và không liên tục (trạng thái cân bằng ngắt quãng).
Chúng tôi thắc mắc là liệu những mô hình khác nhau có hữu ích hay không. Liệu sự thay

9
đổi bắt đầu từ mức độ lớn dần lên (chậm, dần dần) hoặc triệt để (nhanh chóng, bất thình
lình) chính là câu hỏi thực nghiệm. Sử dụng các mô hình khác nhau để giải thích tầm
quan trọng khác nhau của sự thay đổi được quan sát dựa theo đóng góp hóa ra không phải
là chiến lược tốt để xây dựng lí thuyết tổng quát và chi tiết. Một lí thuyết đơn lẻ chắc sẽ
trở nên hữu ích và thiết thực hơn nhiều. Trên thực tế, lí thuyết trạng thái cân bằng ngắt
quãng đã được xem như là một phần của hình thức rộng hơn cả tính năng động vô tuyến
phản ánh chức năng quyền lực đảo ngược. Điều này khá thú vị, dựa vào đó có thể phát
triển một lí thuyết đơn lẻ (với một cơ chế sản sinh phổ biến) có thể giải thích những đóng
góp rộng lớn đối với tầm quan trọng và mức độ của sự thay đổi được quan sát trong thế
giới thực nghiệm.
KHUÔN HỔ HƯỚNG DẪN VIỆC XEM LẠI TÀI LIỆU.
Không may là việc xem xét lại của chúng tôi đối với những tài liệu ngổn ngang thuộc

nhiều lĩnh vực về sự thay đổi thể chế không thể được tích hợp thành một quan điểm đơn
lẻ. Các học giả không hội tụ cùng một vấn đề đơn lẻ hay lí thuyết thay đổi. Thay vào đó,
chúng tôi nghĩ rằng họ đồng thuận với nhau về 4 khái niệm phân biệt của sự thay đổi về
thể chế. Mỗi khái niệm chỉ ra những vấn đề khác nhau và dựa trên cơ chế sản sinh độc
đáo để giải thích sự thay đổi. Chúng tôi đặt tên cho 4 khái niệm là thiết kế thể chế, sự
thích ứng về thể chế, sự phổ biến thể chế và hành động tập thể. Những khía cạnh phân
biệt của 4 khái niệm này được vạch ra trong bảng 9.1 và được tóm tắt ở dưới.
Khái niệm thiết kế thể chế tập trung vào sự sáng tạo có mục đích và sự sửa lại của các thể
chế nhằm nhận diện các mâu thuẫn và bất đồng về xã hội. Cơ chế sản sinh để nhận diện
các vấn đề về cách mà các thể chế được thiết lập và nổi lên chính là sự ban hành có mục
đích và sự xây dựng xã hội. Theo cách nhìn này, các thể chế phản ảnh việc chạy theo
những lựa chọn có ý thức và hành vi mà xã hội cho là khôn ngoan và hợp lí.
Khái niệm sự thích nghi về thể chế giải thích cách thức và nguyên nhân mà các tổ chức
thích nghi với những vấn đề trong môi trường của mình. Scott (2001) cho rằng kể từ công
trình của Meyer và Rowan 1977, các nhà xã hội học về tổ chức đã tập trung sự chú ý của
mình vào vấn đề về cách mà môi trường của thể chế định hình cấu trúc tổ chức. Công

10
trình của những người theo trường phái thể chế mới này có thể được xem là sử dụng khái
niệm sự thích nghi về thể chế.
Khái niệm sự phổ biến về thể chế tập trung vào cách thức và nguyên nhân mà những thể
chế cụ thể được tiếp nhận (lựa chọn) và phổ biến (duy trì) trong dân cư.
Bảng 9.1 – Những khía cạnh phân biệt 4 khái niệm về sự thay đổi thể chế
Khía cạnh Thiết kế thể chế Sự thích nghi về thể
chế
Sự phổ biến thể chế Hành động tập thể
Vấn đề Những hành động
và vai trò mà những
cá nhân trong thể
chế đảm nhận nhằm

thiết lập hoặc thay
đổi một sự sắp xếp
trong thể chế?
Làm thế nào mà
những tổ chức riêng
lẻ thích nghi với
môi trường thể chế
của mình?
Tại sao những tổ
chức lại sử dụng
những thể chế
tương tự nhau?
Làm thế nào mà
những sắp xếp về
thể chế tái sản xuất,
phổ biến hoặc giảm
sút trong dân cư
hoặc về khía cạnh
tổ chức?
Tại sao các tổ chức
lại giống nhau?
Làm thế nào mà
những thể chế nổi
lên để tạo điều kiện
và dẫn dắt những
chuyển biến xã hội
hoặc những cải tiến
về công nghệ?
Những người quan
trọng trong thể chế

Những doanh nhân
đơn lẻ với sự đại
diện có giới hạn: sự
đánh giá lẫn nhau
mang tính phe phái
Những người trong
tổ chức thích nghi
(tiên phong hay
phản ứng lại) đối
với môi trường thể
chế
Dân cư và ngành
của tổ chức được
thể hiện trong cùng
một môi trường thể
chế
Mạng lưới những
người được phân
bố và phân chia bè
phái về mặt liên tổ
chức là những
người được gắn
chặt vào trong tiến
trình chung của
việc thiết lập và sửa
lại những thể chế
Cơ chế sản sinh Sự đóng góp về mặt
xã hội và những
chiến lược mà con
người sử dụng

nhằm giải quyết
vấn đề và điều
Niềm tin môi
trường, áp lực hoặc
những quy định m à
những người trong
tổ chức phải thích
nghi để trở nên hợp
Sự cạnh tranh vì
nguồn lực khan
hiếm thúc đẩy con
người bắt chước và
thích nghi với
những thực tế hợp
Sự nhận diện vấn
đề của thể chế, rào
cản hoặc sự bất
công giữa các
nhóm doanh nhân
về xã hội và công

11
ch

nh l

i nh

ng b


t
công
pháp



c

a th


ch
ế

ngh


Tiến trình: trình tự
sự kiện
Tiến trình biện
chứng của việc thiết
lập những quy định
làm việc giải quyêt
các mâu thuẫn và
chỉ ra những trường
hợp chưa từng có
Các tiến trình mang
tính cưỡng ép,
chuẩn mực và bắt
chước của sự thích

nghi và thay đổi
trong nội bộ tổ
chức
Tiến trình tiến hóa
của biến số, sự lựa
chọn và duy trì sự
hình thành thể chế
Những sự kiện
chính trị chung kèm
với tiến trình định
hình và thay đổi các
cấu trúc và cơ hội
cho sự cải cách thể
chế
Kết quả “ Những quy định
của trò chơi” mới
tạo điều kiện và
thúc đẩy con người
bằng việc thay đổi
quyền, nghĩa vụ và
vai trò của họ
Tính hợp pháp của
tổ chức bằng việc
sử dụng những sắp
xếp về thể chế
giống nhau
Sự thể chế hóa và
giảm thể chế hóa
của những sắp xếp
trong thể chế đối

với con người
Tiền lệ trong thể
chế, quy định làm
việc mới hoặc được
thay đổi, sự cải tiến
trong thể chế

Thuyết thể chế ở đây đã vay mượn và phát triển từ sinh thái học và tiến hóa về tổ chức.
Những nhà sinh thái học về dân số đã sử dụng những lí lẽ phụ thuộc vào mật độ để giải
thích tính hợp pháp và sự chọn lọc cạnh tranh của các hình thức thể chế nhất định.
Các mô hình hành động tập thể tập trung vào những tiến trình của sự thay đổi về thể chế
tại mức độ lĩnh vực liên tổ chức. Những tiến trình này được khởi xướng bởi những
chuyển biến xã hội và những nhà kinh doanh theo đuổi những cải tiến công nghệ. Những
học giả nghiên cứu khái niệm này ban đầu quan tâm đến cách thức những sắp xếp thể chế
mới nổi lên từ những tương tác giữa các đại diện phe phái độc lập.
Chúng tôi cũng xem xét 4 khái niệm này của sự thay đổi thể chế theo trình tự lịch sử mà
trong đó chúng xuất hiện, bắt đầu với thiết kế thể chế, sau đó là thích ứng về thể chế, sự
phổ biến và hành động tập thể. Mỗi khi chúng xuất hiện, các khái niệm phát triển đồng
thời và thỉnh thoảng phản ứng lại với nhau.
Trước khia phân chia thành 4 khái niệm, chúng tôi thừa nhận rằng việc xem lại tài liệu là
không toàn diện. Chúng tôi chỉ tập trung vào những công trình nghiên cứu mà chúng tôi

12
tin là đại diện cho những đóng góp về lí thuyết mang tính dẫn đầu và những nghiên cứu
thực nghiệm mẫu mực đối với mỗi khái niệm. Tài liệu thì lại quá nhiều để có thể bao quát
hoàn toàn. Chúng tôi cũng chú ý rằng sự phân loại những lí thuyết và những nghiên cứu
không áp dụng được cho các tác giả. Chúng tôi mong là tránh được việc phân vai cho các
học giả riêng lẻ. Nhiều học giả viết và nghiên cứu về sự thay đổi thể chế từ nhiều khái
niệm. Qua thời gian, những tư duy của họ cũng phát triển. Trong kết luận chúng tôi đề
xuất rằng ban đầu những phân biệt giữa 4 khái niệm là thô sơ và cứng nhắc, tuy nhiên

chúng đang trở nên mờ nhạt hơn khi mà những học giả nhận ra những điểm thiếu sót của
mỗi khái niệm và mò mẫm một lí thuyết tổng quát hơn về sự thay đổi thể chế.

Các khái niệm về sự thay đổi thể chế
Sự thiết kế thể chế
Các học giả nghiên cứu khái niệm sự thiết kế thể chế quan tâm đến những hành động mà
những cá nhân đơn lẻ thực hiện để thiết lập hoặc thay đổi những sắp xếp về thể chế.
Chúng tôi xem các thể chế là sự phản ánh những quyết định và hành động có lý trí.
Những học giả này định tập trung sự chú ý của họ vào những quan hệ bất công và quyền
hành không công bằng, kết quả là họ đã chuyển sự chú ý sang những tiến trình biện chứng
mà những quy định làm việc được phát triển để giải quyết những mâu thuẫn. Những quy
định làm việc này là không mang tính lý trí thật sự nhưng lại phản ánh sự nhất trí về
những gì là hợp lí và khôn ngoan. Chúng là “các quy định của trò chơi” dẫn dắt và tạo
điều kiện cho con người thay đổi quyền, nghĩa vụ hoặc vai trò của họ.
Thiết kể thể chế và những người theo trường phái thể chế cũ
Khái niệm thiết kế thể chế được giới thiệu bởi những nhà kinh tế học về thể chế cũ, và cụ
thể là John R. Commons. Trong tác phẩm The Economics of Collective Action (1950),
Commons đã cố gắng để đơn giản hóa những lí lẽ mà ông đã đưa ra trong Legal
Foundations of Capitalism (1924/1968) và Institutional Economics (1934/1961),
Commons giới thiệu một “lí thuyết thực dụng và duy ý chí về các thể chế (Van de Ven,

13
1993) nhằm tìm cách hòa giải quyền lực và tự do. Commons cho rằng những cá nhân
không phải là những thực thể độc lập tự có tính hiệu quả, và xã hội không phải là một tập
hợp đơn giản gồm những thành viên cá nhân. Những chuẩn mực, phong tục và luật lệ quy
định và cung cấp sự bảo đảm của kì vọng đối với những hành động của cá nhân là tổ chức
chính là “những quy tắc làm việc” của hành động tập thể. Các quy tắc làm việc trong thể
chế kiểm soát, giải phóng và mở rộng hành động cá nhân bằng cách định rõ những quyền
và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức. Các thể chế kiểm soát hành vi cá nhân thông qua
các hình thức thưởng phạt về mặt tinh thần, thể chất hoặc kinh tế. Tuy nhiên, các thể chế

không đơn giản là cưỡng ép, chúng cũng thả tự do và mở rộng hành vi cá nhân. Sự thả tự
do đối với một vài cá nhân (chẳng hạn như cưỡng ép, cầm tù hay phân biệt) có thể có
được thông qua việc quy định bắt buộc những hành động của người khác. Commons nhấn
mạnh rằng sự tự do cá nhân không phải là một quyền tự nhiên, ông xem nó như là thành
tựu của tập thể. “Cách duy nhất để đạt được ‘sự tự do’ chính là áp đặt những nghĩa vụ lên
người khác, mà những người này có thể cản trở hoạt động của cá nhân ‘được tự do’”. Do
đó, Commons xem những thể chế như là phương tiện đối với sự tự do cá nhân.
Khi các thể chế cưỡng ép, thả tự do và mở rộng hành vi cá nhân, các cá nhân xây dựng và
thay đổi thể chế. Commons bác bỏ sự chọn lọc tự nhiên và thay thế vào đó sự chọn lọc
nhân tạo (có mục đích), chú ý rằng các cá nhân làm cho môi trường của họ thích hợp với
nhu cầu và mục đích của chính họ. Ông cho rằng những cá nhân có năng lực, theo bản
chất của mình, về việc xây dựng những lực lượng trong thể chế và lực lượng tự nhiên
xung quanh mình. Kết quả là sự thay đổi thể chế có khuynh hướng mang tính ý chí, mục
đích và nguyện vọng của cá nhân.
Commons đưa ra 3 khía niệm hành động để xem xét nguyện vọng của con người trong
hành động: thành tích, sự né tránh và sự kiên trì. “Đối với việc chọn lựa cái nào bao gồm
hành động, nguyện vọng chính là việc mong chờ có mục đích. Nguyện vọng luôn đương
đầu với điều gì đó. Nó luôn tồn tại, né tránh và tiếp diễn,…với việc mong chờ vào tương
lai. Một cá nhân hành động bằng việc thực hiện hành vi bị giới hạn và quy định bởi sự né
tránh và kiên trì. Sự né tránh chính là một lựa chọn nhằm bỏ qua tất cả những nhóm hành

14
động thay thế. Mặc dù một vài sự thay thế có thể được né tránh bởi nhưng quy định của
thể chế và những bắt buộc về bản chất, các cá nhân có tự do để lựa chọn tập hợp những
thay thế còn lại có sẵn với mình. Trong việc hướng dẫn lựa chọn thay thế, thành tích được
bổ sung nhiều hơn bởi sự kiên trì hoặc mức độ quyền lực được thể hiện “đúng” thời điểm,
vị trí và cấp độ. Sự kiên trì chính là sự tự ràng buộc trong hành động với bản chất cũng
như trong mối quan hệ giao dịch với người khác. “Con người sẽ không tuân theo những
luật tự nhiên, nhưng lại sử dụng chúng để đạt được mục đích của mình. Không giống như
những lực lượng vật lí (chẳng hạn như trọng lực) luôn luôn có giới hạn, các cá nhân đạt

giới hạn thành tích của mình bằng việc kiên trì đối với thực hành quyền lực đầy đủ của
mình, ngoại trừ giai đoạn khủng hoảng. Trong khuôn khổ của Commons, những giai đoạn
khủng hoảng này chính là “những nhân tố giới hạn” mở ra những cơ hội cho sự thay đổi
về thể chế. Chúng xảy ra khi những cá nhân tham gia vào những giao dịch mang tính
chiến lược để đạt được sự kiểm soát “các nhân tố giới hạn” mà những nhân tố này cản trở
những giao dịch thường ngày khác khỏi công việc nhằm mang lại những kết quả định
trước.
Commons đưa ra một quan điểm biện chứng và thực dụng về sự thay đổi thể chế. Những
thay đổi đối với quy định làm việc đến từ những phong tục, chuẩn mực và luật lệ phát
triển dần trong xã hội, và đến lượt chúng, chúng được sản sinh bởi sự lớn dần của vô số
những thông lệ chung và bởi những quyết định giữa các đối thủ và cao nhất là bởi quan
tòa trong việc xử lí các tranh cãi. Những quy định làm việc trong thể chế thay đổi dần
theo thời gian như là kết quả của những vấn đề có từ trước được thiết lập khi tính hiệu lực
của những giao dịch giữa các bên đối lập được đưa ra và đánh giá bởi trọng tài hay tòa án
luật pháp là hợp pháp hay bất hợp pháp, dựa trên “một người hợp lí đáng tin cậy” thực
hiện dưới tập hợp mới những hoàn cảnh. Các thủ tục đối với tiến trình xử lí và hòa giải
không chỉ giải quyết tranh cãi giữa các nguyên đơn và bị đơn, mà còn thiết lập nên tiền lệ
quan trọng hơn để giải quyết những tranh cãi tương tự trong tương lai. Các tiền lệ nhờ đó
trở thành phong tục và luật cho sự lặp lại các hành động mà dựa vào đó mọi người mong
đợi vào sự bảo đảm.

15
Đối với Commons, các thể chế tồn tại ở thời gian nhất định không đại diện cho điều gì
ngoài những giải pháp không hoàn hảo và thực dụng nhằm hòa giải những tranh cãi trong
quá khứ. Những giải pháp này bao gồm tập hợp những quyền và nghĩa vụ của cá nhân,
quyền hành đối với việc củng cố chúng và mức độ tham gia vào những chuẩn mực xã hội
của hành vi hợp lí đáng tin cậy. Commons nghĩ về lịch sử thể chế như là một tiến trình
chọn lọc có chủ ý những thông lệ trong thể chế thông qua những tập hợp thay thế - một
tiến trình ra quyết định biên chứng liên quan đến “sự khám phá thông qua xem xét và
thương lượng về những gì là mang tính thực tiễn nhất nhằm thực hiện dưới những hoàn

cảnh cụ thể đối với mâu thuẫn về lợi ích, nhằm áp đặt chủ ý chung vào những cá nhân và
ngược lại. Không có hệ thống quy định làm việc để thiết lập mức độ trật tự và tính dự
đoán đối với cá nhân thì sẽ có thể có “ít hoặc không có giá trị hiện tại, tổ chức hiện tại,
giao dịch hiện tại và nhân viên hiện tại”.
Nhà kinh tế nghiên cứu kĩ nhất những kết quả của Commons chính là Douglas C. North.
Trong Institutions, Institutional Change and Economics Performance (1990), North cho
rằng thành công về mặt kinh tế có được trong một vài nước là nhờ sự thiết lập những thể
chế tạo điều kiện cho sự trao đổi phức tạp. Ông viết rằng những thể chế, mà ông định
nghĩa như là “những quy định của trò chơi” mang tính chính thức và không chính thức,
làm giảm chi phí của sự trao đổi và sản sinh bằng việc xác định những cơ hội và dẫn dắt
nỗ lực. North cho rằng khuôn khổ thể chế phải ổn định nếu sự trao đổi phức tạp diễn ra và
việc đạt được sự ổn định là bình thường bởi những quy định của trò chơi – thông lệ,
phong tục, chuẩn mực, luật pháp – là phức tạp và độc lập. Vì tập hợp những ràng buộc là
quá nhiều và phức tạp và vì mối quan hệ cộng sinh phát triển giữa các thể chế và tổ chức,
sự thay đổi về thể chế là tăng dần. Sự thay đổi không liên tục đối với những tập hợp khác
nhau của thể chế vì thế mà cực kì tốn kém.
North xem những thay đổi trong giá cả thực sự - những thay đổi trong điều kiện vật chất –
như là nguồn quan trọng nhất của thay đổi thể chế. Đối với North, các tổ chức đáp lại sự
thay đổi dưới giá thực tế bằng việc thích nghi cũng như cố gắng thay đổi khuôn khổ của
thể chế, họ chọn cố gắng thay đổi khuôn khổ thể chế khi việc thực hiện nó là hiệu quả và

16
khi họ thương lượng hữu hiệu về quyền lực. North tin rằng những thay đổi trong thị hiếu
– ý tưởng – cũng là một nguồn quan trọng của sự thay đổi thể chế. Giống như Commons,
North cho rằng các thể chế khiến cho sự tự do trở thành có thể. Bằng việc phản ánh nhiều
hơn khái niệm sự lựa chọn mang tính lý trí, North cho rằng mong ước đối với sự tự do cá
nhân đến trước và thúc đẩy sự thành lập thể chế. Đối với North đó chính là nhu cầu đối
với sự tự do và nhu cầu này thúc đẩy sự sáng tạo và duy trì hình thức thể chế thích hợp.
Hai nhà kinh tế học khác đóng góp vào những am hiểu của chúng tôi về thiết kế thể chế
chính là Vernon Ruttan và Leonid Hurwicz. Trong Toward a Theory of Induced

Institutional Innavation (1984), Ruttan và Yujiro Hayami đưa ra một mô hình về sự thay
đổi thể chế xem xét mối quan hệ giữa tài sản nguồn lực, công nghệ, tài sản văn hóa và thể
chế. Ruttan và Hayami đã dẫn ra lịch sử nông nghiệp để đưa ra lí lẽ rằng những thay đổi
trong nhu cầu đối với sự cải tiến về thể chế là do những thay đổi về tài sản nguồn lực và
bởi sự thay đổi về kĩ thuật, và rằng nguồn cung của sự thay đổi thể chế như là bản chất
bên trong đối với hệ thống dưới sự điều tra và được mang lại bởi những nhân tố về công
nghệ và nguồn lực. Tuy nhiên, ông đưa ra vấn đề về khái niệm “thuyết tiền định về thể
chế”, cũng như North, cho rằng sự thảo luận về ảnh hưởng của những lực lượng kĩ thuật,
thể chế và xã hội tác động lẫn nhau là vô nghĩa bởi những nguồn lực này là mang tính độc
lập và cùng tiến hóa cao.
Leonid Hurwicz (1987) đã sử dụng cách tiếp cận trò chơi đối với sự thay đổi thể chế mà
trong đó ông đã mô hình hóa những chuyển biến hoặc chiến lược của những người trong
thể chế được định hình bởi những quy định trong thể chế. Hurwicz xem những tiến trình
vĩ mô của sự thay đổi thể chế là có tính toán và mang tính tiến hóa, ông viết rằng “một vài
thay đổi về thể chế có thể được xem là những hiện tượng tiến hóa hoàn toàn, được mang
lại bởi những thay đổi trong các nhân tố bên ngoài…Tuy nhiên thường thì những thay đổi
này bao gồm một thành tố quan trọng của thiết kế có ý thức và sản sinh ra khuôn khổ thể
chế khác biệt với bất kỳ thứ gì đã tồn tại từ trước. Có thể không chính xác lắm khi cho
rằng những thể chế mới là mang tính phát minh”. Hurwicz kết nối thiết kế và các tiến
trình tiến hóa của sự thay đổi, quả quyết rằng “khi những điều kiện cơ bản (chẳng hạn như

17
công nghệ, thị hiếu hay thái độ) thay đổi, thì chúng sẽ tạo ra nhu cầu và cầu đối với cải
tiến về thể chế và tiến trình thỏa mãn nhu cầu này có thể liên quan đến những hoạt động
thiết kế có ý thức. Pháp luật là một ví dụ của tiến trình như vậy”.
Nhà xã hội học Philip Selznick mở rộng tính truyền thống của thiết kế thể chế được khởi
xướng bởi Commons. Trong Leadership in Administration (1957), trong đó ông đưa ra
bài TVA and the Grass Roots 1949, Selznick viết rằng một tổ chức là công cụ mở rộng và
công cụ này trở thành một thể chế chỉ khi người lãnh đạo của nó truyền sức sống cho tổ
chức bằng giá trị. Thông qua tiến trình thể chế hóa một tổ chức đạt được sự khác biệt độc

đáo, những giá trị cụ thể và năng lực khác biệt, cùng một lúc những cá nhân tiếp nhận
cách thức quan niệm và đánh giá trải nghiệm. Đối với Selznick, sự thay đổi thể chế diễn
ra trong tổ chức thông qua những tiến trình được khởi xướng và dẫn dắt có chủ ý bởi
những người lãnh đạo tổ chức.
Thiết kế tổ chức và những người theo trường phái thể chế mới
Gần đây, những người theo trường phái tân thể chế đã bắt đầu xem lại quan niệm của họ
rằng những thể chế là những cấu trúc không mềm mỏng quy định đặc điểm và hành động
của tổ chức. Stinchcombe cho rằng những nhà xã hội học đã đẩy con người quay lại lí
thuyết thể chế, những thể chế - qua đó ông ám chỉ những thực thể thể chế, sử dụng các
định nghĩa của chúng tôi – có tác dụng tốt khi được bố trí bởi những người đưa ra những
cam kết về tinh thần, dẫn dắt công việc kinh doanh theo hướng ngay thẳng, và được nắm
giữa hướng đến những tiêu chuẩn mà chúng được tạo ra để duy trì. Stinchcombe cũng
xem lại công trình của John Henry Wigmore về tòa phúc thẩm, nhấn mạnh rằng tính hợp
pháp của thể chế không phải thông qua nhu cầu đối với quyền hành mà thông qua việc
duy trì những giá trị sâu sắc. Stinchcombe cũng thảo luận sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản
của Đông Âu và Liên minh xô viết cũ, cho rằng chủ nghĩa tư bản không phục vụ cho xã
hội tốt nơi mà thiếu đi những thể chế, và những thể chế này không được tạo ra bởi sự
thiếu cam kết đối với giá trị về tính chân thực trong thương mại. Stinchcombe xem sự thể
hiện những giá trị sâu sắc như là động cơ thúc đẩy sự thay đổi về thể chế.

18
Barley và Tolbert (1997) sử dụng mô hình cấu trúc của Gidden (1984) để đưa ra biện
pháp đối với sự thiếu đi tính đại diện đối với lí thuyết tân thể chế. Barley và Tolbert viết
rằng những thể chế và hành động tồn tại trong các phạm vi tách biệt của trật tự xã hội và
trật tự này được giàn xếp bởi “các phương thức” (khối lượng kiến thức thực tế bao gồm
các chủ đề trình diễn, nguồn lực và chuẩn mực được làm phù hợp đối với bối cảnh cụ
thể). Những phương thức này “ảnh hưởng đến cách con người giao tiếp, ban hành quyền
lực và quyết định hành vi nào là được thưởng phạt”. Barley và Tolbert đề xuất 4 giai đoạn
đối với tiến trình thể chế hóa: mã hóa, thường diễn ra trong suốt quá trình xã hội hóa; ban
hành, “có thể hoặc không thể dẫn đến sự lựa chọn hoặc hiểu biết về những thay thế; sự ôn

lại hoặc tái tạo, diễn ra thường xuyên hơn như là kết quả của lựa chọn có chủ ý hơn là vô
ý, sự chệch hướng không dự tính trước khỏi kịch bản; và khách quan hóa , “liên quan đến
sự phân chia những khuôn mẫu với các nhân tố cụ thể và hoàn cảnh lịch sử nhất định”.
Tại giai đoạn này, những khuôn mẫu đảm nhiệm chất lượng thực tế. Barley và Tolbert
viết rằng những thể chế “thiết lập ranh giới đối với tính hợp lí bằng việc ngăn những cơ
hội và những thay thế mà chúng tôi cảm nhận được” tuy nhiên “thông qua sự lựa chọn và
hành động, các cá nhân và tổ chức có thể bổ sung có chủ ý hoặc thậm chí loại bỏ thể chế.”
Họ nhìn nhận sự thay đổi thể chế cơ bản là bản chất đối với hệ thống nghiên cứu và
thường là mang tính chủ ý hơn là vô ý.
Oliver cố gắng khôi phục lại sự thiếu hụt ban đầu sự chú ý của thuyết tân thể chế đối với
sự đại diện con người bằng việc mô tả 5 phản ứng chiến lược đối với áp lực thể chế, mỗi
phản ứng gồm một tập hợp những lựa chọn thủ thuật (được ghi chú trong ngoặc đơn): sự
phục tùng (thói quen, sự bắt chước, sự tuân thủ), sự thỏa hiệp (cân đối, sự hòa ước,
thương lượng), sự né tránh (che giấu, ngụy trang, trốn thoát), sự thách thức (loại bỏ, thách
thức, tấn công) và sự vận động (sự kết nạp, ảnh hưởng, kiếm soát). Oliver cho rằng sự
phản ứng của tổ chức đối với áp lực thể chế sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân của áp lực, các
yếu tố tạo nên áp lực, nội dung của áp lực, phương pháp kiểm soát được áp đặt và bối
cảnh. Bà đề xuất rằng những tổ chức không đơn giản là thích ứng với áp lực thể chế tuy
nhiên lại đáp trả một cách có mục đích đối với chúng và trong vài trường hợp bổ sung
chúng.

19
Brint và Karabel (1991) đưa ra bằng chứng biện chứng về thiết kế thể chế. Họ nhận thấy
rằng “việc hướng nghiệp” của những trường cộng đồng được giả thích không phải bởi sự
lựa chọn tiêu dùng hoặc sự thống trị kinh doanh của các trường mà thay vào đó là do
những hành động có dự tính của các lãnh đạo trường để đáp lại áp lực và cơ hội của môi
trường. Brint và Karabel nhận thấy rằng các lãnh đạo trường cộng đồng bắt đầu theo đuổi
việc hướng nghiệp lần đầu vào những năm 1920, tuy nhiên những lợi ích của họ lại bị chi
phối bởi sự thống trị trước của những trường học 4 năm như là nền tảng đào tạo; bởi
những tổ chức kinh doanh, thường thích đào tạo cho chính nhân viên của họ và bởi những

cơ quan chính phủ, có niềm tin đối với những trường phổ thông. Tuy nhiên, dần dần thì
các lãnh đạo trường cộng đồng trở nên nhận thức được rằng một cơ hội tồn tại cho họ để
trở thành nền tảng đào tạo cho những người như thể là chuyên gia cấp trung. Họ có thể
nhận ra lợi ích cả mình khi thị trường lao động của đại học giảm sút năm 1970.
Chiến lược và thủ thuật
Một vài học giả đã đóng góp cho những kiến thức của chúng tôi về thiết kế thể chế bằng
việc mô tả những chiến lược và thủ thuật mà những người trong thể chế sử dụng nhằm cố
gắng ảnh hưởng đến sự thay đổi. Trong The Intelligence of Democracy (1965), Charles E.
Lindblom đưa ra bản mô tả mạng nội bộ của tiến trình “điều chỉnh lẫn nhau theo phe
phái”. Đây chính là tiến trình hình thành chính sách công khai mà qua đó những lực lượng
đối lập đạt được quyết định chung. Lindblom mô tả phương tắc mà những cá nhân có thể
sử dụng khi đối mặt với kẻ thù chính sách. Những phương thức thích nghi chính là nơi mà
con người không tìm được một phản ứng đối với người khác, trong khi những phương
thức lôi cuốn lại được sử dụng để tìm ra một câu trả lời. Những phương thức lôi cuốn này
bao gồm thương lượng, tưởng thưởng, sự trao đổi lẫn nhau và sự hấp dẫn vô điều kiện.
Lindblom viết rằng những người tham gia vào tiến trình điều chỉnh lẫn nhau theo phe phái
lôi cuốn nhau thông qua sự thuyết phục, quyền hành, hấp dẫn đối với tục lệ, bầu cử và của
cải.
Saul Alinsky, một người tổ chức lao động nổi tiếng, cũng đưa ra một lời khuyên rất cụ thể
đối với những người tham gia vào tranh cãi biện chứng. Trong Rules for Radicals: A

20
Practical Primer for Realistic Radicals (1971), Alinsky liệt kê 13 thủ thuật chính trị đối
với những nhà hoạt động xã hội đấu tranh chống lại kẻ thù quyền lực. Những thủ thuật
này nhấn mạnh sự tấn cộng hơn là hòa giải. Filgstein (1997) lặp lại ý kiến của Alinsky,
mô tả những kĩ năng xã hội mà những nhà kinh doanh trong thể chế cần để tác động đến
sự thay đổi thể chế. Một vài trong số đó, chẳng hạn như “thiết lập chương trình cho người
khác”, có thể được xem như là mang tính lôi cuốn, trong khi những kĩ năng khác được
cho là mang tính thích nghi hoặc như là hình thức của sự ban phát – đó chính là “tiếp
nhận những gì hệ thống cho”.

Tóm tắt
Commons và các nhà kinh tế học theo sau ông như North, Ruttan và Hurwicz đã xem các
thể chế như là những quy định làm việc nổi lên nhằm chỉ ra những vấn đề về con người
và rằng sự thay đổi thông qua sự tương tác giữa những đại diện. Commons và North đều
mô tả sự thay đổi thể chế là mang tính dần dần, biện chứng và thực dụng, diễn ra thông
qua tiến trình hành động chọn lọc mà tiến trình này giải quyết mâu thuẫn giữa các cá nhân
thuộc các phe đối lập bởi sự khan hiếm về nguồn lực. North và những người khác cũng
cho rằng những ý tưởng và không chỉ những điều kiện vật chất có thể mang lại sự thay
đổi biện chứng.
Gần đây, một vài học giả về thể chế mới đã bắt đầu tiếp nhận khái niệm thiết kế đối với
sự thay đổi thể chế, mặc dù sự tập trung là mang tính nhận thức hơn là nhằm vào những
chuẩn mực và giá trị. Đối với họ, sự thay đổi thể chế được thiết kế không phải là quá dựa
vào nhu cầu chỉ ra các vấn đề xã hội và hạn chế sự bất công, đó là theo Commons, tuy
nhiên thay vào đó nó lại diễn ra khi con người thắc mắc về “kịch bản” hiển nhiên. Một
công trình đáng chú ý trong lĩnh vực này chính là mô hình tiến trình thay đổi của Barley
và Tolbert. Đây là một trong vài công trình định hướng tiến trình nghiên cứu về khái niệm
thiết kế tổ chức, xây dựng trên lí thuyết cấu trúc của Gidden, cố gắng hòa giải những áp
lực thể chế mang tính tiền định với hành động có chủ ý và ý thức.
Cuối cùng, chúng tôi đề cập đến một vài học giả nghiên cứu về các thủ thuật và chiến
lược được sử dụng bởi những đại diện cho sự thay đổi xã hội. Những đề xuất này xác định

21
những phương pháp lôi cuốn và thích nghi mà con người sử dụng để theo đuổi sự thay đổi
thể chế.
Sự thích nghi về thể chế
Nhiều công trình nghiên cứu của những người theo trường phái thể chế về tổ chức mới có
thể được xem là nghiên cứu về khái niệm thích nghi thể chế. Vấn đề trọng tâm được xác
định bởi những người theo trường phái tân thể chế chính là Tại sao các tổ chức lại trông
quá giống nhau? Câu trả lời của họ chính là các tổ chức trông giống nhau bởi chúng phải
làm cho những chuẩn mực, niềm tin và quy định phù hợp trong môi trường thể chế nhằm

đạt được tính hợp pháp, tạo điều kiện cho họ đạt được nguồn lực và nâng cao cơ hội tồn
tại. Không giống như 3 khái niệm kia, sự thích nghi về thể chế cơ bản liên quan đến sự
thay đổi trong đặc điểm của những con người trong thể chế trong việc đáp lại các sắp xếp
về thể chế trong môi trường tổ chức.
Scott (2001) cho rằng Weber (1924/1968) là “một trong những thuyết gia về xã hội đầu
tiên chú ý đến tầm quan trọng trung tâm của tính hợp pháp trong cuộc sống xã hội” và
rằng Parsons (1960) là người đầu tiên kết nối tính hợp pháp với các mục tiêu của tổ chức.
Scott diễn giải sự nhấn mạnh của những người theo trường phái tân thể chế đối với sự
thích nghi với môi trường thể chế như là sự mở rộng của lí thuyết hệ thống mở, mà lí
thuyết này làm biến đổi tổ chức và các tư liệu về quản trị chiến lược “bằng việc nhấn
mạnh vào tầm quan trọng của bối cảnh môi trường rộng hơn khi nó quy định, định hình,
thấm nhuần và làm mới tổ chức. Những người nghiên cứu lần đầu tiên nhận ra rằng môi
trường kĩ thuật đặt áp lực lên tổ chức và sau đó vào những năm 1970 họ lại thấy rằng các
tổ chức cũng chịu ảnh hưởng bởi môi trường thể chế của chúng.
Institutionalized Organisations: Formal Structure as Myth and Ceremony của Meyer và
Rowan là tác phẩm đầu tiên đặt ra luận điểm rằng các tổ chức làm cho cấu trúc của mình
phù hợp với áp lực từ môi trường thể chế. Meyer và Rowan cho rằng sự hiện đại hóa thúc
đẩy sự phát triển và sự hợp lí hóa của những quy định trong thể chế và những thành tố của
cấu trúc tổ chức và rằng mối quan tâm của tổ chức đối với tính hợp pháp và sự sống còn
khiến cho tổ chức phải sử dụng những sắp xếp về thể chế. Meyer và Rowan truy tìm bản

22
chất của những điều hoang đường về thể chế mang tính hợp lí đối với sự hình thành các
mạng lưới quan hệ phức tạp và những nỗ lực của lãnh đạo trong các tổ chức địa phương.
Họ cho rằng vì sự thích ứng với những quy định được thể chế hóa có thể mâu thuẫn với
những cân nhắc hiệu quả về kĩ thuật, nên các tổ chức phải tách riêng cấu trúc của mình
khỏi các hoạt động kĩ thuật để “những chuyện hoang đường” trong thể chế được duy trì
và tính hợp pháp được giữ lại, tuy nhiên cùng một lúc tính hiệu quả về kĩ thuật cũng đạt
được. Trong khi Meyer và Rowan nhấn mạnh vào ảnh hưởng có điều kiện của môi trường
thể chế lên cấu trúc tổ chức thì họ cũng viết rằng những tổ chức hùng mạnh thường áp đặt

những thông lệ và tiến trình lên những tổ chức khác cũng như nỗ lực tích cực để xây dựng
mục tiêu và thủ tục một cách trực tiếp vào xã hội như là những quy định về thể chế.
Do đó lí thuyết tiền định của họ không từ chối sự đại diện. Xã hội hiện đại, sự lý giải về
các tổ chức thường không mang lại kết quả nhiều vì nhu cầu thị trường, nhưng vì áp lực
đồng nhất từ các quốc gia và tôn giáo. Họ cho rằng phương thức ép buộc, quy chuẩn và
bắt chước đã tạo ra tổ chức để hình thành nên các đặc tính cấu trúc tương tự. Áp lực ép
buộc là những hình thái động lực hình thành tín ngưỡng hoặc những sự lôi cuốn để thông
đồng. Những áp lực làm theo được tạo ra khi tổ chức cảm thấy bị ép buộc để đáp ứng sự
thiếu chắc chắn bằng cách bắt chước những tổ chức khác; Áp lực quy chuẩn được đưa vào
áp dụng bởi mạng lưới chuyên nghiệp phổ biến những quy tắc tổ chức được trinh bày tại
các đại học và các viện đào tạo. Scott (1987) đã mở rộng dựa trên sự phân loại áp lực thể
chế của Powell và DiMaggio, định nghĩa theo 7 phương thức riêng biệt rằng thể chế tạo ra
áp lực cho cấu trúc tổ chức. Đó là sự áp đặt, sự cho phép, sự khích lệ, sự đạt được, sự hòa
đồng, sự hợp tác và bỏ qua cấu trúc tổ chức.
Hầu hết những học giả kinh nghiệm đã tìm thấy rằng các tổ chức thích nghi với áp lực của
môi trường thể chế của họ (Leblebici and Salancik, 1982; Mezias, 1990; Perrow, 1991;
Hoffman, 1997;Thornton, 2002). Do thiếu sự chắc chắn, những người tạo ra quyết định tổ
chức sẽ bắt chước hành vi của những tổ chức khác có liên kết với mạng lưới của họ
(Galaskiewicz and Wasserman, 1989). Hơn nữa Deephouse (1996) tìm thấy rằng sự đồng
hóa tổ chức (mức độ mà tổ chức kế tục cấu trúc, chiến lược, và phương thức giống nhau )

23
là 1 dự đoán có ý nghĩa cho tính hợp pháp của tổ chức (sự chấp nhận của 1 tổ chức bởi
các yếu tố môi trường bên ngoài nó)
Hoffman (1997) đưa ra những bằng chứng thực tiễn mạnh mẽ của sự đồng nhất thể chế
với những phân tích của ông ta làm thế nào các công ty dầu mỏ và hóa chất đã tác động
mạnh chống lại thuyết môi trường học để tiên phong thực hiện quản lý môi trường từ
1960 đến 1993. Ông ấy tranh luận rằng sự thay đổi bầu cử trong tổ chức đã dẫn đến thay
đổi trong thể chế và tạo tín hiệu cho sự thay đổi trong văn hóa và cấu trúc tổ chức.
Hoffman mổ tả 4 tầng liên kết thuyết môi trường: thuyết môi trường công nghiệp (1960-

1970) thuyết điều ổn môi trường (1970-1982) thuyết trách nhiệm đối với môi trường
(1982-1988) và thuyết chiến lược môi trường. Trong thuyết môi trường công nghiệp,
ngành công nghiệp được xem là yếu tố ô nhiễm mà nó có thể tự xử lý. Sau khi chính phủ
và các nhà hoạt động chính trị xem xét đến lĩnh vực tổ chức, thể chế đi đến chế ngự các
lĩnh vực và quy chuẩn kỹ thuật với các điều luật quy định chặt chẽ cho ngành công
nghiệp. trạng thái thứ 3 được tạo ra do sự suy giảm tín nhiệm của những người làm luật
do tai tiến, 1 sự thay đổi dẫn đến sự xuất hiện thể chế quy chuẩn như là áp lực thể chế cho
ngành công nghiệp. Trạnh thái cuối cùng, thuyết môi trường chiến lược xuất hiện và các
nhà đầu tư và công ty bảo hiểm thâm nhập vào lĩnh vực tổ chức. Trạng thái cuối cùng này
được tạo ra do thế thống trị của kinh nghiệm trong quản lý môi trường đã tạo ra do ngành
công nghiệp
Kraatz và Zajac (1996) tìm ra bằng chứng sự mâu thuẩn với sự đáp ứng tổ chức. Họ kết
luận rằng tổ chức rất hay đổi để đáp ứng với môi trường công nghệ khá phù hợp với nhu
cầu của môi trường thể chế. Kraatz và Zajac thử nghiệm mức độ với các trường cao đẳng
nghệ thuật nhân văn Mỹ chương trình hướng nghiệp và kế tục chuyên nghiệp trong suốt
giai đoạn 1971 đến 1986.Dựa vào thuyết phi thể chế, họ đưa ra giả thuyết là để duy trì
tính pháp lý các sinh viên dưới sự nghiên cứu sẽ thích nghi với quy chuẩn và giá trị thông
dụng đã ban bố cho trường cao đẳng nghệ thuật nhân văn duy trì sự trong sáng của họ và
chống lại nghề nghiệp hóa các môn học của họ. Kraatz và Zajac không tìm thấy sự hổ trợ
cho giả thuyết của họ tuy nhiên họ tìm ra các sinh viên tạo ra sự thay đổi quy chuẩn thể

24
chế mà họ đáp ưng với môi trường công nghệ hơn là quy chuẩn thể chế là những quy
chuẩn mà cấu trúc của chúng phân kỳ hơn là hội tụ mà hiếm các sinh viên uy tín đã không
tranh đua; các điều kiện cục bộ gây ảnh hưởng hành vi hơn những áp lực thể chế đã làm.
Và các sinh viên đó đã tạo ra sự thay đổi bất tuân thủ mà không phải chịu đựng những
ảnh hưởng có hại. Kraatz và Zajac rất ngạc nhiên khi kết quả tìm kiếm của họ cho thấy
trong tổ chức trường cao đằng nghệ thuật nhân văn như là 1 thử nghiệm hổ trợ cho thuyết
phi thể chế



Phản ứng thay đổi của tổ chức đối với áp lực thể chế
Trong khi các nhà lý luận về thể chế bắt đầu chứng kiến hành vi đồng nhất giữa các tổ
chức, nhiều học giả từ khi nhận thấy rằng các phản ứng trong tổ chức đối với môi trường
thể chế mang tính ngẫu nhiên phụ thuộc các hệ số thay đổi, như là thuộc tính tổ chức
(e.g., size, performance, CEO background, and degree of unionization), liên kết với các
nhân vật khác trong môi trường, khu vực và trạng thái của nhóm khuôn mẫu của tổ chức.
Scott (2001) ghi nhận rằng áp lực thể chế thay đổi đối với nguồn của chúng (ví dụ, các
phân nhánh hay công chúng thảo luận tính pháp lý) lan truyền nhờ thuyết cơ học (vd luật
pháp, các quy chuẩn) và sức mạnh của chúng để hình thành nên cấu trúc tổ chức. Cuối
cùng chúng cũng thay đổi theo thời gian và không gian. Scot trích dẫn từ nghiên cứu của
Dobbin Edelmn, Meyer, Scott vả Swidler (988) Edelman(1992), Mezias (1990), Tolbert
and Zucker(1983), and ligstein (1985) như là những ví dụ cho tài liệu áp lực thể chế thay
đổi

Greenwood và Hingings (1996) tuyên bố dứt khoát rằng sự tác động qua lại của tình
huống và hành động tổ chức. Họ tranh luận rằng: (1) “ nhân tố chống lại tổ chức tạo nên
thay đổi xuất phát từ sự len lỏi mang tính chất quy chuẩn của tổ chức kèm theo bối cảnh
của thể chế; (2) phạm vi ảnh hưởng và bán kính tác động thay đổi thể chế thay đổi khác
nhau dọc theo các lĩnh vực bởi vì sự khác nhau trong cấu trúc của những khu vực đó

25
(phạm vi kết nối chặt chẽ và phạm vi ảnh hưởng của khu vực) và (3) phạm vi tác động,
bước thay đổi thể chế sẽ biến đổi theo khu vực vì động lực bên trong tổ chức. Một cách cụ
thể, mức độ của : sự bất thỏa mãn” theo tổ chức và mức độ của giá trị cam kết xác định
khả năng đáp ứng tổ chức và áp lực môi trường.

Theo tài liệu giả thích của người Canada, Greenwood, Suddaby và Hingings(2002) chứng
minh việc dịch chuyển tín ngưỡng từ một “dịch vụ thuế và thanh toán” mô hình kinh
doanh đến một trong những mảng dịch vụ kinh doanh rộng lớn. Họ tượng trưng 1 mô

hình quy trình của sự thay đổi thể chế kèm theo các giai đoạn sau:

1. Một sự thất vọng nhanh chóng đã làm xáo trộn thực tế tồn tại
2. Tái cấu trúc, sự đồng lòng xây dựng lại xã hội được diễn ra và hình thành các tác nhân
cùng thực tế mới xuất hiện
3. Tiền thể chế hóa, tổ chức xáo trộn đổi mới một cách độc lập
4. Lý thuyết hóa, sự sai lệch từ những thỏa hiệp thông dụng được coi nhẹ và tạo tính
tương thích cho sự thừa nhận rộng hơn
5. Sự phổ biến, xảy ra sau khi lý thuyết hóa thành công
6. Sự thể chế hóa lại. giai đoạn những các ý tưởng , thực tế, mới trở thành thể chế hóa
hoàn chỉnh.

Greenwood đánh dấu sự quan trọng của giai đoạn 4, giai đoạn lý thuyết hóa, dường như
quan trọng hơn trong việc đặt nền móng cho sự thể chế hóa, xa hơn thế chúng chỉ ra các
cài đặt mà trong đó phương tiện hợp lý thống trị, sự hợp pháp hóa diễn ra trong suốt quá
trình phổ biến, nhưng ngược lại trong những thiết lập mang tính quy chuẩn hơn, sự hợp
pháp hóa phải diễn ra trong suốt giai đoạn lý thuyết hóa điều đó không có nghĩa sau đó
sự phổ biến sẽ không theo sau. Trong khi Greenwood, Suddaby và Hinings nhấn mạnh áp

×