Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

bài dịch những lý thuyết của các quá trình thay đổi và đổi mới tổ chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.16 KB, 42 trang )

Trường Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh
Khoa Đào Tạo Sau Đại Học
Lớp Cao Học Quản Trị Kinh Doanh 2008


Môn Quản Trị Thay Đổi


Bài dịch chương 13

N
N
h
h


n
n
g
g


l
l
ý
ý


t
t
h


h
u
u
y
y
ế
ế
t
t


c
c


a
a


c
c
á
á
c
c


q
q
u

u
á
á


t
t
r
r
ì
ì
n
n
h
h




t
t
h
h
a
a
y
y


đ

đ


i
i


v
v
à
à


đ
đ


i
i


m
m


i
i


t

t




c
c
h
h


c
c

dịch từ

HANDBOOK OF ORGANIZATIONAL CHANGE
AND INNOVATION

của

Marshall Scott Poole & Andrew H. Van de Ven


Giảng viên: Ts. Nguyễn Hữu Lam
Ths. Trần Hồng Hải

Nhóm 11: Trần Ngọc Minh Sơn
Hứa Hoàng Oanh
Lê Bích Ngọc

Lê Ngọc Thế



TP.HCM , Tháng 06 – 2010
Trang 2

1
1
3
3
.
.


N
N
h
h


n
n
g
g


l
l
ý

ý


t
t
h
h
u
u
y
y
ế
ế
t
t


c
c


a
a


c
c
á
á
c

c


q
q
u
u
á
á


t
t
r
r
ì
ì
n
n
h
h


t
t
h
h
a
a
y

y


đ
đ


i
i


v
v
à
à


đ
đ


i
i


m
m


i

i


t
t




c
c
h
h


c
c





Marshall Scott Poole & Andrew H. Van de Ven

Bìa của cuốn sách này cho thấy một cái nhìn lướt qua con người xuyên qua vỏ bọc của các
ngôi sao và các hành tinh để nhận thấy trật tự thú vị đằng sau những chuyển động phức tạp
của chúng. Những gì người ta thấy không đơn giản là một bộ máy đồng hồ, mà còn là một
đa dạng đáng kinh ngạc của những t âm hồn và những cơ chế để hiểu rõ tương lai của các
tâm hồn này. Đôi khi trật tự phức tạp bên dưới chính sự phức tạp và khó khăn khi hiểu
trong khi được soi sáng nhiều hơn bề mặt. Thử thách của chúng tôi là phân loại những

hình ảnh trong sự khai trí này, để phân biệt những dấu vết và những thay đổi từ đó tạo nên
hình thức của nó.

Cẩm nang này làm nổi bật một trạng thái muôn màu muôn vẻ đáng kinh ngạc của các
phương pháp tiếp cận để giải thích sự thay đổi và phát triển tổ chức, bao gồm các mô hình
giai đoạn, những quá trình tiến hóa, những nguyên mẫu tương tác, những căng thẳng biện
chứng và những mâu thuẫn, những cú xóc từ môi trường, những phân tích thể chế, các mô
hình những hệ thống đa cấp, và lý thuyết phức tạp. Trong vài trường hợp, hai hoặc nhiều
cơ chế sinh ra đó được kết hợp. Các lý thuyết và các mô hình được nhìn ở nhiều cấp độ
khác nhau của việc phân tích và một số cấp độ giao nhau. Nhưng đôi khi, ngay cả những
công thức phức tạp có vẻ quá giản đơn hóa và đem lại sự phát triển của chính các lý thuyết
phức tạp hơn. Làm thế nào chúng ta biết ý nghĩa sự đa dạng này của những khả năng trên
lý thuyết? Mục tiêu của chương này là cung cấp một khuôn khổ chung trả lời cho câu hỏi
này bằng cách mở rộng mô hình của chúng tôi trước đây về những lý thuyết thay đổi (Van
de Ven và Poole, 1995; Poole và Van de Ven, 1989/2001).

Thay vì đặt giả thuyết để qui định một lý thuyết như là lý thuyết tốt nhất về thay đổi hoặc
để suy ra một lý thuyết đơn tích hợp khái quát về sự thay đổi, chúng tôi tin rằng sẽ hiệu
quả hơn khi xem xét một loạt các lý thuyết và mô hình có thể được áp dụng để hiểu về sự
thay đổi và đổi mới. Theo Popper (1962) lập luận, khoa học hầu như có tiến bộ khi có mặt
một loạt các lý thuyết và các quan điểm. Theo Popper hình dung, trong một số trường hợp,
sẽ có cạnh tranh thay thế; trong khi ở những trường hợp khác, những thay thế sẽ có thể
tương thích và thậm chí bổ sung.

Những giải thích của các quá trình thay đổi trong các tổ chức thường phải bắc qua nhiều
hơn một cấp độ của các phân tích, liên quan đến nhiều người tham gia hay nhiều quan
điểm và nhiều cơ chế sinh ra năng động hợp nhất. Họ cũng phải đưa vào những đặc điểm
Trang 3

lợi ích của thay đổi tổ chức như sự phụ thuộc vào đường dẫn; sự ảnh hưởng mạnh mẽ mà

một sự kiện quan trọng đơn lẻ thường có, trên sự chỉ dẫn và những tác động của thay đổi;
vai trò của lực lượng lao động trong sự thay đổi khuôn khổ theo những kế hoạch hoặc các
mô hình ẩn. Do đó, các lý thuyết về thay đổi tổ chức và đổi mới có xu hướng phức tạp,
thường kết hợp một số cơ chế sinh ra khác nhau.

Thách thức trong việc phát triển các lý thuy ết như vậy là hầu hết các phương pháp tiếp cận
việc xây dựng những lý thuyết và hầu hết những phương pháp khoa học xã hội được th iết
kế cho sự đơn giản hóa và sự cẩn thận. Chúng tôi phải thừa nhận rằng các ý tưởng đơn
giản thường có sức mạnh và hữu ích. Tuy nhiên, sự nhấn mạnh trên việc đơn giản hóa có
xu hướng thúc đẩy sự hài lòng với hiểu biết không đầy đủ và một thứ tự của sự chấp nhận
gượng ép một phần những lý thuyết có thể làm hài lòng những sinh viên và các nhà thực
hành, nhưng vẫn thất bại trong nắm bắt các lĩnh vực quan trọng của thay đổi.

Các chương của cuốn sách này cố gắng để di chuyển qua một hình ảnh quá đơn giản,
không đầy đủ của thay đổi và đổi mới tổ chức. Họ nhận thức hiện tượng phức tạp như
những mâu thuẫn vốn có trong những nỗ lực thay đổi được hoạch định, sự đồng tiến hóa
của các tập hợp và các trường phái tổ chức, các quá trình phức tạp của thay đổi cá nhân là
những đòi hỏi của các tổ chức khi chúng thay đổi, thay đổi thể chế và thay đổi trong các
hệ thống phức t ạp ở các cấp độ khác nhau của sự phụ thuộc lẫn nhau. Chúng thách thức
chúng tôi gia tăng sự phức tạp của tư duy. Nếu kết quả các lý thuyết hay những việc phải
nghiên cứu có vẻ phức tạp và trong một số trường hợp khó sử dụng, chúng tôi sẽ đề nghị
rằng đó là do chúng tôi đã quen để đơn giản hóa.

Các lĩnh vực mà khoa học xã hội nghiên cứu như các mô hình- vật lý, sinh học, hóa học,
kỹ thuật- đã công nhận từ lâu rằng các mô hình tương đối đơn giản của Newton, Lavoisier,
và Darwin che phủ sự phức tạp phải được lý thuyết hóa, nếu khoa học là phản ánh chính
xác những hoạt động của thế giới. Thật vậy, lĩnh vực mà chúng tôi tin rằng hầu hết có khả
năng như là một mô hình để nghiên cứu các tổ chức, ngành sinh học, là sự hứa hẹn hiện tại
có thể tham gia sự bùng nổ lớn nhất của ''sự phức tạp hóa'', như lý thuyết và nghiên cứu về
di truyền và sinh hóa cơ bản của ngành sinh học và hành vi tiếp tục phát triển ở một tốc độ

không kịp thở. Chúng tôi tin tưởng rằng trách nhiệm của các học giả cũng là hiểu biết và
giải quyết sự phức t ạp của thay đổi và đổi mới t ổ chức.

Trong khi các lĩnh vực như sinh học và vật lý đã phát triển mạnh mẽ các phương pháp tiếp
cận hiện tượng phức tạp, điều này chỉ vừa mới bắt đầu trong các nghiên cứu tổ chức (và
Trang 4

trong các ngành khoa học xã hội nói chung). Xu hướng này được minh họa bởi các cuộc
thảo luận của lý thuyết phức tạp (Anderson, 1999; Dooley, 2002; Olson và Eoyang, 2001;
Poole, Van de Ven, Dooley và Holmes, 2000), những động lực hệ thống (Sterman, 2000),
những động lực tiến hóa (Baum và McKelvey, 1999) và trước đó nó đã được phát triển bởi
những người theo trường phái lý thuyết các hệ thống (Katz và Kahn, 1978; Miller, 1978).
Đây cũng là điều hiển nhiên trong những chương của quyển sách này.

Trong các bài báo trước (Van de Ven và Poole, 1995; Poole và Van de Ven, 1989/2001),
chúng tôi đã trình bày một nền tảng cho lý thuyết về các quá trình phức tạp của thay đổi và
đổi mới tổ chức. Chúng tôi xác định bốn lý thuyết phân biệt quá trình: thuy ết vòng đời,
thuyết mục đích luận, thuyết biện chứng và thuyết tiến hóa. Mỗi lý thuyết dựa trên một cơ
chế sinh ra khác nhau hoặc động lực điều khiển quá trình thay đổi. Các quá trình thay đổi
phức tạp được tạo ra bởi sự tương tác của nhiều hơn một các lý thuyết quá trình này. Thật
vậy, rất ít các lý thuyết được áp dụng trong sự thay đổi, phát triển hoặc đổi mới đã được
xây dựng xung quanh một lý tưởng đơn lẻ, loại lý thuyết được định nghĩa bởi Van de Ven
và Poole (1995). Hầu hết liên quan đến hai lý thuyết hoặc nhiều hơn cùng vận hành với
nhau, ở các cấp độ khác nhau hoặc trong suốt những khoảng thời gian khác nhau. Trong
các bài báo trước đó của chúng tôi, chúng tôi mạo hiểm đề nghị một số gợi ý về cách các
loại động lực khác nhau có thể phù hợp với nhau trong các lý thuyết quá trình phức t ạp.
Trong chương này, chúng tôi cố gắng mở rộng khuôn khổ của chúng tôi khi chỉ rõ một
cách phức tạp hơn bằng cách nào mà các lý thuyết trái ngược của sự thay đổi có thể được
xây dựng bởi tập hợp các tương tác của các động lực thay đổi mà có thể vận hành ở các
cấp độ tổ chức khác nhau, các khoảng cách thời gian, và những cấp độ phụ thuộc lẫn nhau.

Chúng tôi tin rằng khuôn khổ kết quả hoàn thiện các giải thích đa dạng của thay đổi sẽ
được cung cấp trong lần xuất bản này.

Phần tiếp theo cung cấp một bản tóm tắt nền tảng khung ban đầu của chúng tôi đã được
nâng cao trong Van de Ven và Poole (1995) và Poole và Van de Ven (1989/2001) và thảo
luận về các biến thể của mỗi loại lý thuyết lý tưởng. Trong phần ba, chúng tôi chuyển sang
việc dang dở trong các phiên bản trước của chúng tôi và xem xét các tương tác giữa các lý
thuyết thay đổi. Chúng tôi thảo luận làm thế nào các động lực ở các cấp độ khác nhau có
thể tương tác, các hình thức tương tác giữa các động lực có thể có và các thông số thời
gian chi phối nhhững tương tác giữa các động lực. Sau đó, chúng tôi phá vỡ hai lý thuyết
từ cuốn sách này, giới thiệu chúng bằng những lý thuyết đơn giản hơn trong khuôn khổ.
Phân tích này cũng cho thấy các khía cạnh của hai lý thuyết có thể được phát triển hơn
nữa.
Trang 5


M ột tiền đề mà chúng ta nên làm rõ ngay từ đầu là thay đổi và đổi mới tổ chức giành được
tốt nhất bởi các lý thuyết quá trình (xem thêm chương 1 của quyển này). Mohr (1982)
phân biệt các lý thuyết quá trình, trong đó tập trung vào giải thích làm thế nào những thay
đổi mở ra theo thời gian qua đường dẫn của các sự kiện chúng đi theo, từ những lý thuyết
khác nhau, trong đó tập trung vào giải thích bằng những quan hệ nhân quả giữa các biến
số. Khái niệm ban đầu của Mohr có thể được mở rộng bằng cách công nhận rằng một khái
niệm tổng quát hơn, là bài tường thuật có tính lý thuyết, làm nền tảng cho các giải thích về
quá trình (Abbott, 1990, 1992). Bài tường thuật này kết hợp quan hệ nhân quả cuối cùng
và chính thức, ngoài quan hệ nhân quả hiệu quả được nhấn mạnh bởi các lý thuyết khác
nhau. Trong một phân tích chi tiết của các phương pháp tiếp cận quá trình như đã áp dụng
cho các thay đổi và đổi mới tổ chức, Poole và cộng sự (2000) lưu ý một số ưu điểm của lý
thuyết quá trình: (1) nó sẽ cung cấp một hiểu biết sâu sắc về sự thay đổi xảy đến như thế
nào bằng sự mô tả cơ chế sinh ra điều khiển quá trình; (2) nó có thể giải thích cho sự phụ
thuộc đường dẫn và vai trò các sự kiện quan trọng trong sự thay đổi và đổi mới; và (3) nó

có thể kết hợp vai trò của lực lượng lao động trong thay đổi m à không làm giảm vai trò
với các điều khoản thuộc quan hệ nhân quả.

Một mô hình mở rộng của các lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới

Hình 13.1 minh họa bốn loại lý thuyết lý tưởng được xác định bởi Van de Ven và Poole
(1995). Như các ô nhỏ của hình này minh họa, mỗi lý thuyết xem quá trình của phát triển
như là hé mở trong một tiến bộ khác nhau cơ bản của những sự kiện thay đổi, và như được
quản lý bởi một cơ chế sinh ra khác nhau hoặc động lực.

Theo bảng 13.1 phác thảo, các lý thuyết cũng có thể được phân biệt bằng cách: (1) bất kỳ
tình trạng kết thúc nào của quá trình cũng có thể được dự đoán từ đầu, (2) nếu đường dẫn
của sự phát triển được định trước, (3) nếu quá trình là hội tụ hay phân kỳ, và (4) nếu thời
gian là dựa trên các sự kiện hoặc các chu kỳ. Các biến thể của từng lý thuyết cơ bản cũng
sẽ được thảo luận.
Trang 6


Hình 13.1 mô hình của các lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới. Lưu ý: mũi tên trên các tuyến đại
diện cho chuỗi các sự kiện, khôn g phải quan hệ nhân quả giữa các sự kiện. Nguồn: Van de Ven và
Poole (1995).


Trang 7


Bảng 13.1 Sự so sánh về bốn lý thuyết điển hình về thay đổi tổ chức

Các đặc điểm
Lý thuy

ết

Vòng
đ
ời

M
ục đích lu
ận

Bi
ện chứng

VSR

Cơ ch
ế sinh ra

Đi
ều chỉnh

Theo k
ế hoạch

Xung đ
ột

C
ạnh tranh


Quá trình thay đổi
Đặt trình tự của
các giai đoạn

Trình tự đầy đủ
gồm các giai
đoạn khởi đầu,
tăng trưởng, suy
thoái, kết thúc
Tổ chức có vấn đề
hoặc cơ hội

Đặt mục tiêu, hành
động để đạt mục
tiêu, giám sát kết
quả
Tổ chức thay đổi
thông qua sao chép
hoặc nhờ vào ảnh
hưởng của những
xung đột căng thẳng
hoặc những mâu
thuẫn
T
ổ chức thay đổi
thông qua các biến số
ngẫu nhiên hoặc có kế
hoạch, sau đó được
lựa chọn bởi những áp
lực của môi trường,

những biến số hiệu
quả vẫn được giữ lại
trong tổ chức
Có ph
ải t
ình tr
ạng
cuối cùng của quá
trình thay đổi đã được
xác định từ đầu?
Đúng, điểm kết
thúc có trong
trình tự
Đúng, kết thúc bởi
mục tiêu
Sai, tình trạng kết
thúc nổi lên từ quá
trình
Sai, tình trạng kết thúc
nổi lên từ quá trình
Có ph
ải đ
ư
ờng dẫn
của sự phát triển được
định trước?
Đúng Sai Sai Sai
Quá trình thay
đ
ổi


H
ội tụ

Phân k


Phân k


H
ội tụ

Khái ni
ệm của thời
gian
Tuần hoàn Sự kiện Sự kiện Tuần hoàn
Những biến số của
thuyết cơ bản
Hợp lý, tự nhiên,
thể chế
Có ý định, tạo cảm
xúc
Theo thuyết Hegel,
nghịch lý
Theo thuy
ết
Darwin/Lamark/
Mendel/Gould


Lý thuyết quá trình vòng đời (Sự thay đổi quy định)

M ột mô hình vòng đời mô t ả quá trình thay đổi trong một tổ chức khi tiến bộ thông qua
một trình tự cần thiết của các giai đoạn hay các thời kỳ. Các nội dung cụ thể của các giai
đoạn hoặc các thời kỳ được chỉ định và quy định bởi một thể chế, sự tự nhiên hay chương
trình hợp lý đã biểu hiện trước tại điểm bắt đầu của chu kỳ.

M ột động lực của thuyết vòng đời dẫn dắt sự thay đổi thông qua việc thực hiện một hình
thức hay một kiểu mẫu hoặc là tồn tại bên trong tổ chức đang phát triển hoặc bị tác động
mạnh bởi các thể chế bên ngoài. Các ví dụ về các lý thuyết vòng đời bao gồm lý thuyết
của Bales (Bales và Strodtbeck, 1951), mô hình của giải quyết vấn đề nhóm của Cameron
và Whetten (1983), vòng đời tổ chức và mô hình tăng trưởng tổ chức của Greiner (1972).
Trang 8

M ục tiêu và điểm kết thúc của quá trình thay đổi được xác định từ sự bắt đầu cho một
vòng đời thông qua sự t iến bộ tự nhiên hay phát triển hợp lý hoặc thông qua các luật lệ thể
chế được chỉ định hay quy định. Trong mô hình của Bales, các giai đoạn của việc giải
quyết vấn đề được yêu cầu một cách hợp lý, trong khi Tushman và Moore (1982) tranh
luận rằng giai đoạn chuyển tiếp được điều khiển bởi những thay đổi trong cấu trúc ngành
công nghiệp theo vòng đời sản phẩm. Đường dẫn phát triển của vòng đời là quyết định; có
một hoặc một vài đường dẫn mà tổ chức phát triển có thể làm theo, được quy định chung
bằng một tập hợp các giai đoạn của sự phát triển.

Thay đổi trong lý thuyết vòng đời có xu hướng được phôi thai, liên quan đến sự tiến bộ từ
giai đoạn này đến giai đoạn tiếp theo khi tổ chức phát triển. Trong khi có thể có sự phát
triển liên tục trong suốt các giai đoạn trong lý thuyết vòng đời, quá trình chuyển tiếp từng
giai đoạn liên quan đến một thay đổi chất lượng trong tổ chức và đôi khi trong chính bản
chất của quá trình phát triển. Như tên gọi ngụ ý, thời gian cho một lý thuyết vòng đời là
tuần hoàn: các mô hình vòng đời bao gồm những cột mốc lặp đi lặp lại mà những cột mốc
của tổ chức từ khi thành lập đến lúc chuyển nhượng hoặc làm tròn bổn phận. Sau khi kết

thúc chu kỳ hoàn tất, quá trình được thiết lập để bắt đầu chu kỳ mới, với cùng hoặc khác tổ
chức.

M ột vòng đời đòi hỏi phải hội tụ trong tổ chức phát triển. Có thể có xung đột hay sự phân
kỳ trong các giai đoạn và xung đột cũng có thể kích hoạt những chuyển tiếp giữa các giai
đoạn, nhưng tổ chức giống như một tổng thể trải qua các thay đổi liên kết với một vòng
đời và kết quả cuối cùng của một vòng đời là một tổ chức hoàn chỉnh. Ví dụ, trong mô
hình các tổ chức tăng trưởng của Greiner (1972), các cuộc khủng hoảng phát sinh trong
suốt mỗi giai đoạn, nó kích hoạt những đáp ứng làm di chuyển tổ chức sang giai đoạn kế
tiếp. Sự tăng trưởng sớm thông qua các sáng tạo, ví dụ, các kết quả trong một cuộc khủng
hoảng đòi hỏi sự nổi lên của một lãnh đạo mạnh mẽ và có tầm nhìn cho tổ chức; khi lãnh
đạo này nổi lên, tổ chức đi vào một giai đoạn tăng trưởng thông qua các chỉ dẫn. Sự tiến
bộ này xảy ra thông qua khủng hoảng, nhưng tổ chức như là một tổ chức đang trải qua sự
thay đổi.

Có ba biến số của lý thuyết vòng đời, tuỳ thuộc vào việc cơ chế sinh ra được điều chỉnh
bởi những yêu cầu tự nhiên, hợp lý hay thể chế. Các trình tự điều khiển của các yêu cầu tự
nhiên hay hợp lý sử dụng một quyết định mạnh mẽ hơn trên tổ chức phát triển so với các
điều khiển của những chuẩn mực có tính thể chế hoặc các quy luật. Các vòng đời tự nhiên
và hợp lý gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình này, bởi vì các giai đoạn sau trong trình
Trang 9

tự phụ thuộc vào và được xác định bằng các thành quả trong giai đoạn trước đó. Trong
một số trường hợp, giai đoạn sau trong hai biến thể này đúng là không thể xảy ra mà
không có sự hoàn thành các giai đoạn trước đó. Ví dụ, các giai đoạn sau trong cuộc sống
của một người không thể xảy ra mà không có các giai đoạn trước đó- chúng ta không thể
có sự khởi đầu của gia đoạn trưởng thành thời thanh niên mà không cần phải đi qua các
thay đổi của cơ thể, tinh thần và t âm lý của tuổi niên thiếu. Giai đoạn tái thể chế hóa của
các mô hình thay đổi thể chế được trình bày bởi Hinings, Greenwood, Reay và Suddaby
trong cuốn sách này không thể xảy ra trừ khi giai đoạn phá hủy thể chế hóa đã xảy ra. Sự

phá hủy thể chế hóa là hợp lý khi xảy ra trước sự tái thể chế hóa.

Ngược lại, một vòng đời thể chế được xác định bởi các luật lệ và quy tắc xây dựng xã hội
(xem Van de Ven và Hargrave, chương 9), mà cuối cùng phụ thuộc vào thẩm quyền hoặc
quyền lực của một số tổ chức xã hội bên ngoài đến quá trình. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, quá trình
phê duyệt cho các loại thuốc mới phải phù hợp với một thủ tục pháp lý bắt buộc được ban
hành bởi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA). Quá trình này được thiết kế hợp
lý và từng bước nhưng các bước có thể thay đổi khi luật pháp và thủ tục hành chính thay
đổi và thậm chí trong các trường hợp đặc biệt, những nhà quản lý có thể bỏ một số bước
hoặc yêu cầu. Kết quả là, các vòng đời thể chế ít nghiêm ngặt trong việc định hình các quá
trình thay đổi tổ chức.

Vòng đời tự nhiên và vòng đời hợp lý được thích nghi với hiện tượng khác nhau. Các
vòng đời hợp lý được tìm thấy trong các quá trình quản trị vô hình như sự phát triển các ý
tưởng, các quyết định và các nền văn hóa hoặc những thay đổi trong ngôn ngữ và các hình
tượng trong một tổ chức. Các vòng đời tự nhiên thích hợp hơn đối với các hiện tượng hữu
hình được căn cứ trong không gian và thời gian, chẳng hạn như vòng đời của các tổ chức
(trong đó căn cứ t ại những điều kiện dễ dàng, các ngành công nghiệp, các thị trường và
nhân viên của họ) hoặc sự tăng trưởng của cơ s ở hạ tầng. Trong trường hợp các vòng đời
tự nhiên, cấu trúc và chức năng hiện tại hình thành nền tảng cho cấu trúc và chức năng sau
này. Trong trường hợp các vòng đời hợp lý, hình thức hay mục đích của ý tưởng hoặc việc
xây dựng hình tượng xác định quỹ đạo của những thay đổi.

Lý thuyết quá trình mục đích luận (Thay đổi có chủ ý)

Quá trình mục đích luận xem sự phát triển như là một chu kỳ xây dựng mục tiêu, thực
hiện, lượng giá và sửa đổi các hành động hay các mục tiêu dựa trên những gì đã được học
hoặc dự định bởi các tổ chức. Trình tự này nổi lên thông qua việc ban hành có mục đích
Trang 10


hoặc cấu trúc xã hội của một tình trạng kết thúc đã được hình dung giữa các cá nhân trong
tổ chức.

Các ví dụ về những lý thuyết thay đổi mục đích luận có thể được tìm thấy trong các lý
thuyết của thuy ết biểu sinh (Etzioni, 1963), học tập thích nghi (March và Olsen, 1976), và
hầu hết các mô hình hoạch định chiến lược và ra quyết định (Chakravarthy và Lorange,
1991; Mintzberg, Raisinghani và Theoret, 1976; Nutt, 1984). Trong một thay đổi của lý
thuyết mục đích luận, việc thiết lập một mục tiêu đáp ứng cho một vấn đề được nhận thức
hay cơ hội đặt quá trình trong sự vận động. Tổ chức được giả định là có mục đích và thích
ứng bởi chính nó hoặc trong tương tác với các tổ chức khác, nó cấu trúc một tình trạng kết
thúc đã được hình dung, sẽ hành động để đạt được điều đó và giám sát tiến bộ của tổ chức.
Như vậy, các lý thuyết mục đích luận xem sự phát triển như là một chuỗi lặp đi lặp lại của
việc xây dựng mục tiêu, thực hiện, lượng giá và sửa đổi các mục tiêu dựa trên những gì đã
được học hoặc dự định của tổ chức.

Lý thuyết này có thể hoạt động trong một tổ chức đơn lẻ hoặc trong một nhóm các tổ chức
hợp tác nào được đồng nhất đủ để hoạt động như m ột tổ chức chung đơn lẻ. Vì các quá
trình mục đích luận là mục tiêu điều khiển, các đường dẫn phát triển được theo bởi tổ chức
là không được định trước, nhưng được t ạo ra bởi các hoạt động cần thiết để đạt mục tiêu.
Từ khi có nhiều cách để gặp bất kỳ mục tiêu nào đó, nhiều đường dẫn có khả năng và
không có trình tự của các giai đoạn hay các bước. Trong khi một số lý thuyết mục đích
luận xác định các bước hoặc các giai đoạn, có nhiều đường dẫn thông qua các bước này,
và đường dẫn được xác định bằng sự cấp bách phát sinh trong suốt quá trình như các vấn
đề được giải quyết bởi tổ chức phát triển.

Ví dụ: trong mô hình của chiến lược ra quyết định của M intzberg và cộng sự (1976), nhà
quản lý phải nhận thấy các vấn đề hay cơ hội, phát triển một tình huống chẩn đoán, đưa ra
một giải pháp, đáp ứng các bên tham gia và đạt tới sự ủy quyền. Mười hoạt động khác biệt
góp phần tạo ra năm điều kiện tiên quyết, và những người ra quyết định tham gia vào
nhiều trình tự khác nhau và các sự kết hợp của các hoạt động này, phụ thuộc vào các cấp

bách bên trong và bên ngoài. Cũng không phải là một thứ tự đặc biệt trong đó các điều
kiện t iên quyết được giải quyết. Trong trường hợp đặc biệt, một chẩn đoán sẽ hướng dẫn
việc đưa ra giải pháp và sự lựa chọn, trong trường hợp khác, một quyền chọn giải pháp có
thể chứng minh để thuyết phục rằng những người ra quyết định xác định lại vấn đề và
chẩn đoán để phù hợp với nó. Quá trình này được định hướng để đạt được các điều kiện
tiên quyết của một quyết định tốt ''bằng mọi cách'' và không có một trình tự cần thiết của
các hoạt động.
Trang 11


Các lý thuyết mục đích luận dự đoán trước sự kiện dựa trên thời gian. Mô hình của
M intzberg và cộng sự. cung cấp một minh hoạ tốt. Mục đích và chiến lược của đơn vị
được ban hành trong một loạt các sự kiện mà ý nghĩa của chúng xuất phát từ đóng góp của
chúng vào mô hình tổng thể, mô hình nổi lên trong suốt những hoạt động. Cuối cùng, các
lý thuyết mục đích luận, giống như các lý thuyết vòng đời, nhấn mạnh sự hội tụ. Đối với
thay đổi xảy ra, đơn vị phải được hướng dẫn bởi một mục tiêu thống nhất làm tăng thêm
sự nhất quán những hoạt động của mình. Khi đơn vị bao gồm nhiều thực thể, họ phải đồng
ý với một mục tiêu và hành động tập thể cho một động lực mục đích luận để duy trì.

Trong gia đình mục đích luận, những quá trình với hoạch định có chủ ý và hợp lý hóa sau
đó có thể được phân biệt. Các quá trình tiên phong thực hiện dường như là mô hình tự
nhiên nhất cho mục đích luận đối với hầu h ết các n hà khoa học xã hội Mỹ, theo quan điểm
của sự nhấn mạnh phổ biến trên các quan niệm cổ điển của sự hợp lý trong những truyền
thống kinh tế và ra quyết định. Tuy nhiên, trong khi các quá trình có thể diễn ra theo cách
mong đợi, đôi khi lý do vận hành sau sự kiện (M arch, 1994). Trong các trường hợp này,
các tác nhân sắp xếp lại quá trình khi họ có cảm giác về những gì đang xảy ra (Weick,
1995). Khi quá trình mở ra, sự hiểu biết của họ về nó thay đổi và họ hành động theo ý thức
đang nổi lên của họ về tình huống, những hành động của họ tạo nên cơ sở cho những giải
thích tương lai rằng lần lượt thiết lập lại các căn cứ để hành động. Trong trường hợp các
quá trình nhạy cảm, “hoạch định” nổi lên sau đó, cấu thành lại theo những mô hình chính

thức hay những ý định. Mintzberg đã đặt tên ''chiến lược đang nổi lên'' này. Ví dụ, nhà sản
xuất hàng dệt may ở Scotland thích sử dụng lao động thủ công hơn là nhà máy có mức vốn
cao, dần dần khớp nối một chiến lược mà tập trung vào ''bán hàng may mặc chất lượng cao
cấp đắt tiền thông qua các kênh phân phối chuyên biệt cho một số lượng hạn chế người
tiêu dùng thu nhập cao'' (Porac, Thomas và Baden-Fuller, 1989, trang 409). Chiến lược
này không được hoạch định có ý thức nhưng nổi lên khi các nhà sản xuất đấu tranh để tìm
thấy một thị trường ngách thích hợp khi đối mặt với cạnh tranh khốc liệt. Tuy nhiên, chiến
lược này có những điểm nổi bật của ý định và mục đích mỗi khi nó nổi lên, và nó định
hướng hoạt động tiếp theo giống như là nó đã được đặt ra một cách cẩn thận ngay từ ban
đầu.

Lý thuyết quá trình biện chứng (Thay đổi xung đột)

Trong các mô hình biện chứng của sự phát triển, những xung đột nổi lên giữa các thực thể
theo một luận điểm chống đối và phản đề mà va chạm tạo ra một sự tổng hợp, mà theo
Trang 12

thời gian trở thành luận điểm cho chu kỳ tiếp theo của sự tiến triển biện chứng. Đối đầu và
xung đột giữa các thực thể đối lập này tạo ra chu kỳ biện chứng.

Thay đổi nổi lên từ một động lực biện chứng thông qua những nỗ lực để giải quyết m âu
thuẫn, xung đột, hoặc căng thẳng bên trong hoặc xung quanh các đơn vị. Những lý thuyết
biện chứng mẫu mực của sự thay đổi bao gồm lý thuyết của Marx (1954) về sự phát triển
kinh tế và nhiều phiên bản của nó, lý thuyết của Smith và Berg (1987) về các nghịch lý
trong cuộc sống nhóm, và lý thuyết của Sztompka (1993) về thay đổi xã hội. Những căng
thẳng và chống đối mà Seo, Putnam, và Bartunek (chương 4 của quyển này) thảo luận
trong các lý thuyết hoạch định của thay đổi cũng gây ra những quá trình biện chứng của
thay đổi.

Trong những lý thuyết biện chứng, không giống như các lý thuyết vòng đời, mục đích

hoặc điểm kết thúc của một quá trình thay đổi không rõ ràng ngay từ khi bắt đầu, nhưng
nổi lên từ quá trình biện chứng. Trong một số trường hợp, thay đổi được định hướng bởi
xung đột hay mâu thuẫn của chính nó. Ví dụ, trong lý thuyết của Marx, mỗi thời đại kinh
tế mới nổi lên do sự xung đột giữa các luận điểm và phản đề. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện
do sự mâu thuẫn giữa các tổ chức kinh tế phong kiến và các lực lượng đang tăng trưởng
của sản xuất, thúc đẩy bởi những khám phá khoa học như động cơ hơi nước và đồng hồ.
Bản chất và cơ chế tổ chức kinh tế tư bản giữ lại những cái bóng của chế độ phong kiến
(đối với một việc là một hệ thống cấp bậc của quyền lực, nhưng thời gian này, những
người ở cấp thống trị là các nhà tư bản và không truyền cho giai cấp quý tộc), nhưng cũng
có những đặc điểm mới hoàn toàn (nơi tập trung của công nhân là trong các nhà m áy và
các thành phố). Trong các trường hợp khác, những kết quả thay đổi từ những nỗ lực của
đơn vị để giải quyết xung đột hay căng thẳng và giảm thiểu những tác động tiêu cực của
nó. Smith và Berg (1987) thừa nhận rằng các nhóm đôi khi đối phó với sự căng thẳng giữa
bản sắc cá nhân và việc mong muốn được là một phần của tập thể bằng cách nhấn mạnh
trên một cực hơn là cực khác. Một nhóm có thể quá nhấn mạnh lòng trung thành và sự phù
hợp, trong khi nhóm khác có thể dính kết ít hơn và tập trung vào việc cho phép các thành
viên thể hiện chủ nghĩa cá nhân của họ. Làm thế nào một nhóm đối phó với căng thẳng có
trong quá trình thay đổi trong nhóm.

Hướng phát triển của sự thay đổi theo chiều hướng biện chứng không được xác định trước.
Các đơn vị phản ứng và đối phó với các xung đột, mâu thuẫn, và căng thẳng theo nhiều
cách khác nhau, và các hướng dẫn kết quả sẽ khác nhau rất nhiều từ trường hợp này đến
trường hợp khác. Trong khi những khoảnh khắc cơ bản của quá trình biện chứng có thể
Trang 13

phân biệt ở cấp độ khái niệm- ví dụ: luận điểm, phản đề, sự tổng hợp, thông thường, chúng
quấn vào nhau và chỉ có thể được phân loại ở phần cuối của quá trình thay đổi. M ột nhóm,
đang đối mặt với căng thẳng về chủ nghĩa cá nhân - tập thể, ngay lập tức có thể hội tụ trên
một chiến lược đối phó (ví dụ, nhấn mạnh một cực hơn cực khác) hoặc nó có thể chuyển
từ một chiến lược sang chiến lược khác trong nỗ lực để đối phó với những hậu quả tiêu

cực không thể tránh khỏi của bất kỳ cơ chế đối phó cụ thể nào. Mặc dù đối mặt với cùng
một căng thẳng biện chứng, những đường dẫn của hai nhóm sẽ khác nhau đáng kể, và có
nghĩa là không có cách nào để dự báo trước thời gian, hình dạng hoặc hình thức của con
đường phát triển.

Giả thiết rằng khi họ đang có xung đột, mâu thuẫn, và căng thẳng, các lý thuyết biện
chứng nhấn mạnh sự phân kỳ. Sự khác biệt và những xung đột và các cuộc đấu tranh mà
mà bản thân phát sinh là trung tâm của những giải thích biện chứng của sự thay đổi.
Những lý thuyết biện chứng, giống như những lý thuyết mục đích luận, kết hợp chặt chẽ
với quan niệm về thời gian có sự kiện làm cơ sở. Sự biện chứng này bị thúc đẩy bởi những
căng thẳng và những mâu thuẫn, xảy ra tại các khoảng thời gian không đều đặn, đánh dấu
những thời điểm đáng kể trong quá trình.

Hai biến thể của lý thuyết thay đổi biện chứng có thể phân biệt: (1) luận đề, phản đề, và
tổng hợp theo Hegel về quá trình xung đột cơ bản và (2) một quá trình Bakhtinian về
những biện chứng căng thẳng cơ bản.

Những biện chứng xung đột vận hành thông qua sự nổi lên của một phản đề để phản ứng
lại một luận đề và việc giải quyết xung đột tiếp theo trong một sự tổng hợp. Trong khi một
chu kỳ mới có thể bắt đầu trong sự tổng hợp đã đạt được, sự tổng hợp đại diện cho một
việc giải quyết tạm thời của xung đột hay mâu thuẫn. Ví dụ, xung đột giữa lợi ích của
những công nhân và những người quản lý trong một công ty gặp khó khăn tài chính có thể
được nhận thức trong các phạm vi sau: vị trí của nhân viên nổi lên như một phản đề đối
với công ty được kiểm soát bởi ban quản trị điển hình (luận đề) và một cách giải quyết
thông thường là đối với công nhân thì công ty trả tiền cho họ để họ từ bỏ quyền quản lý,
kể từ đây công ty trở thành sự quản lý của chính họ (tổng hợp). Việc tổng hợp được bao
gồm các yếu tố từ cả hai luận đề và phản đề, và đại diện cho một điểm ổn định trong quá
trình thay đổi (ít nhất tạm thời). Các phong trào thông qua các biện chứng Hegel thường bị
phản đối bởi đơn vị; nó có thể cố gắng bỏ qua, đàn áp, hoặc chống lại các phản đề, và
phong trào thường chỉ xảy ra sau một khoảng thời gian đáng kể của xung đột. Một phần

quan trọng của ''câu truyện'' thay đổi và đổi m ới cho phép biện chứng Hegel là sự chống
Trang 14

đối và xung đột đi kèm với phong trào qua các giai đoạn, để chúng có thể thiết lập nên
những năng động tạo ra quá trình biện chứng tiếp theo.

M ột sự lựa chọn thay thế cho biện chứng Hegel là phép biện chứng căng thẳng (Bakhtin,
1981; Werner và Baxter, 1994), trong đó đề xuất rằng thay vì phát triển thông qua một mô
hình luận đề - phản đề - tổng hợp, biện chứng đóng vai trò chính nó trong một chuỗi
không bao giờ kết thúc của căng thẳng giữa các thuyết nhị nguyên như hội nhập - khác
biệt. Mỗi mặt của nhị nguyên đòi hỏi phía đối lập phải tồn tại, và có tương tác lẫn nhau
ngay lập tức giữa hai bên. Các khái niệm đối lập tương hỗ bao hàm lẫn nhau, tồn tại thông
qua sự đối kháng của chúng, và luôn luôn duy trì hoạt động như là các nguồn tiềm tàng
của sự thay đổi. Trong chương của Seo, Putnam, và Bartunek đã bàn luận, những mối
căng thẳng tồn tại cùng thời điểm; chẳng hạn như áp lực cho sự hội nhập - khác biệt, tập
trung bên trong - bên ngoài, và phụ thuộc - độc lập lẫn nhau. Thay đổi được định hình bởi
cách các đơn vị đối phó với các biện chứng và những vấn đề, những thách thức, và các
xung đột mà nó sinh ra. Baxter và Montgomery (Werner và Baxter, 1994) xác định bảy
phản ứng khả thi cho những căng thẳng và những mâu thuẫn, bao gồm: (a) từ chối - bỏ
qua sự căng thẳng; (b) xoắn ốc đảo ngược - tham dự vào một bên của căng thẳng, sau đó
đến bên kia, sau đó quay lại cái đầu tiên một lần nữa, và tiếp tục như thế; (c) phân khúc -
bằng cách sử dụng các phần hoặc các khía cạnh khác nhau của đơn vị để liên hệ đến hai
cực của căng thẳng; (d) cân bằng, là cố gắng để tham gia cả hai cực nhưng giảm áp lực từ
mỗi bên; (e) hội nhập, trong đó tích cực tham gia với cả hai cực; (f) hiệu chuẩn - đóng
khung lại hoàn cảnh để các cực không còn đối lập, và (g) tái khẳng định - công nhận cả hai
cực và chủ động kết hợp cả hai vào đơn vị.

Lý thuyết quá trình tiến hóa (Thay đổi cạnh tranh)

M ột mô hình tiến hóa của sự phát triển bao gồm một trình tự lặp đi lặp lại của các sự kiện

biến thể, sàng lọc, và duy trì giữa các chủ thể trong một dân số cho trước. Chu kỳ tiến hóa
được tạo ra bởi sự cạnh tranh các nguồn lực môi trường khan hiếm giữa các thực thể sinh
sống trong dân số đó.

Các động lực tiến hóa hướng sự thay đổi thông qua quá trình cốt lõi của sự biến thể - sàng
lọc - duy trì (VSR). Trong các giải thích tương tự, các biến thể trong các đặc trưng đơn vị
xuất hiện, và chúng cho phép đơn vị cạnh tranh các nguồn lực khan hiếm trong môi trường
sẽ được lựa chọn cho sự sống còn. Các đơn vị sống sót sinh ra những đơn vị khác giống
như chúng, duy trì các “thiết kế” cho sự cạnh tranh sống còn trong dân số. Sự giải thích
Trang 15

VSR vận hành ở cấp độ của đơn vị cá nhân hoặc tổ chức và là quá trình cấp độ vi mô mà
dân số của một loài tiến hóa và cuối cùng là thịnh vượng hoặc bị diệt vong. Những ví dụ
về các lý thuyết với các thành phần VSR là lý thuyết tổ chức của Weick (1979), lý thuyết
sinh thái học tổ chức của Aldrich (1979, 1999), và mô hình tổng hợp tích lũy của sáng chế
chiến lược của Usher (1954). Trong khi ngành sinh học cung cấp những ý tưởng ban đầu
về quá trình tiến hóa, các nhóm, các tổ chức, và các xã hội rõ ràng là khác nhau từ các cơ
chế và những giả định đặc biệt chắc hẳn được thực hiện về sự tiến hóa xã hội (xem Baum
và Rao, trong quyển sách này; Baum và M cKelvey, 1999). Các nhà lý thuyết tiến hóa có
xu hướng không quan tâm đến nguồn gốc của biến thể, nó có thể được tạo ra bởi các sự
kiện ''mù'' ngẫu nhiên hoặc có chủ ý (Campbell, 1974). Sự chọn lọc có thể được thúc đẩy
bởi các lực lượng bên ngoài môi trường, nhưng nó cũng có thể được thực hiện thông qua
các sự lựa chọn của nhân vật. Sự duy trì có thể được thực hiện thông qua các cơ chế tiến
hóa tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được diễn ra trong các cấu trúc được xây dựng đặc
biệt giống như những cơ sở dữ liệu được tạo ra để quản lý kiến thức.

Trong lý thuyết tiến hóa, sự xuất hiện của các biến thể trong quá trình chọn lọc cạnh tranh,
và duy trì không thể được dự đoán trước thời gian, bởi vì việc dịch chuyển các áp lực cạnh
tranh các nguồn lực khan hiếm trong môi trường. Do đó, hướng của đơn vị cho một động
lực tiến hóa có thể dự đoán trước một cách yếu ớt một hoặc nhiều chu kỳ biến thể - sàng

lọc - duy trì sẽ xảy ra, nhưng số lượng các chu kỳ và các hướng hoạt động cụ thể qua các
chu kỳ này là không được xác định. Lý thuyết tiến hóa rẽ nhánh ở chỗ nó nhấn mạnh biến
thể như là nguồn gốc của sự thay đổi. Để sống sót trong quá trình tiến hóa, các biến thể
phải làm cho đơn vị thích nghi tốt hơn cả trong nội bộ và trong môi trường hiện tại của nó,
gây ra một sự gián đoạn với các hình thức trước đó. Cuối cùng, lý thuyết tiến hóa hợp
thành một quan điểm tính chu kỳ theo thời gian mà thước đo của nó được xác định bằng
ba giai đoạn, liên tục lặp lại thành công khi các thực thể phát triển.

Các lý thuyết thay thế của sự tiến hóa xã hội có thể được phân biệt về những đặc điểm
được thừa kế như thế nào và đơn vị của việc phân tích.¹ Những biến thể này phản ánh các
quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu đầu tiên của tiến hóa: Darwin, Lamarck,
M endel, và Gould. Tổ chức các nhà nghiên cứu theo quan điểm của Darwin về sự tiến hóa
(ví dụ, Hannan và Freeman, 1977, 1989; M cKelvey, 1982) lập luận rằng những đặc điểm
đạt được thông qua các quá trình liên thế hệ, trong khi những người theo quan điểm của
Lamarck (ví dụ, Burgelman, 1991; Singh và Lumsden, 1990) lập luận rằng những đặc
điểm cũng có thể đạt được trong vòng một thế hệ thông qua học tập và bắt chước. Tổ chức
các nhà tiến hóa theo học thuyết Darwin lập luận rằng các biến thể hoặc các hình thức tổ
Trang 16

chức mới được xác định và in dấu khi sinh ra và không thay đổi trong suốt thời gian sống
của một tổ chức, nhờ vào quán tính tổ chức. Ngược lại, những người theo quan điểm
Lamarck cho rằng các tổ chức học tập và tiếp thu các biến thể mới tại các thời điểm khác
nhau trong suốt vòng đời của chúng. N gày nay, hầu hết tổ chức các nhà nghiên cứu chấp
nhận quan điểm của Lamarck về việc đạt được những điểm tiêu biểu.

Nhiều nghiên cứu của các nhà sinh thái học dân số đã sử dụng tỷ lệ tổ chức sinh và tử là
các tiêu chuẩn đại diện của một thế hệ tổ chức và kiểm tra một nhiệm vụ rằng tỷ lệ tử vong
của tổ chức có thể suy giảm một cách đơn điệu với độ tuổi sau một thời gian ngắn của tăng
trưởng ở mật độ tổ chức (xem các nhận xét trong Baum, 1996, và Hannan, Carroll,
Dundon và Torres, 1995). Những sự hình t hành có tổ chức thường được đo lường như là

lối vào của các công ty vừa được sáp nhập vào cộng đồng, được giả định là các vật mang
của một trong hai hoặc là thừa kế những hình thức xa xưa để lại hoặc là các biến thể tổ
chức mới được chọn lọc. Các sự khai tử của tổ chức, thường được đo bằng các sự tan rã
công ty một cách hợp pháp - bao gồm cả những sự sát nhập tổ chức, mua lại, và đổi tên -
được giả định là các vật mang của các hình thức tổ chức đã bị ra loại bỏ do môi trường
đang trở nên tan vỡ.

Việc đo lường tỷ lệ sinh và tử của một hình thức tổ chức cung cấp thông tin hữu ích về sự
lan truyền của hình thức đó trong một cộng đồng tổ chức, nhưng không nắm bắt được làm
thế nào mà hình thức tổ chức đó nổi lên và tiến triển trong lịch sử qua các thế hệ. Tổ chức
các nhà nghiên cứu chấp nhận quan điểm di truyền học Mendel của thuyết tiến hóa chỉ ra
rằng các hình thức mới của các tổ chức thường là những sản phẩm lai ghép của các hình
thức đa dạng xa xưa của các sắp xếp tổ chức (M cKelvey, 1982; Baum và Singh, 1994;
Van de Ven và Grazman, 2000). Họ lập luận rằng các thế hệ mới của các hình thức tổ
chức này thường xuyên (nhưng không phải là luôn luôn) được tạo ra bởi các sự kiện do
cặp đôi hoặc kết hợp lại các nguồn lực, các năng lực, và các sắp xếp tổ chức có từ trước
hoặc để tạo ra một hình thức tổ chức mới hoặc để mở rộng một hình thức tổ tiên.

Các nguồn lực xa xưa mà được kết hợp lại để tạo ra những thế hệ mới này, có thể tồn tại
hoặc là ngay bên trong hay bên ngoài của vấn đề tổ chức. Sự tăng trưởng bên trong tổ
chức xảy ra khi các hình thức xa xưa đang nằm trong các tổ chức. Các ví dụ phổ biến là
khoản đầu tư nội bộ hoặc sự kết hợp lại của các đơn vị hiện có, các nguồn lực, hoặc các
năng lực để sáng tạo hoặc cải tạo các chương trình, các sản phẩm, các dịch vụ, hoặc các
thói quen của một tổ chức. Sự tăng trưởng bên ngoài xảy ra bằng việc kết hợp các nguồn
lực và các thành phần từ các tổ chức khác nhau thông qua, ví dụ, những sự hợp nhất, mua
Trang 17

lại, các sát nhập chiến lược, và những liên doanh tổ chức. Kể từ khi các hình thức xa xưa
mà được gặp nhau để sản xuất các hình thức mới, thường được lồng trong các mạng lưới
phức tạp của hệ đẳng cấp phụ thuộc lẫn nhau ở trong và giữa các tổ chức, thì các sự kết

hợp lại của chúng thường sinh ra các hình thức lai mới của tổ chức. Nghiên cứu về các
cách thay thế kết hợp các hình thức tổ chức xa xưa để tạo ra những tổ chức mới yêu cầu
việc truy tìm dòng dõi phả hệ của các sự sắp xếp tổ chức từ những hình thức xa xưa cho
đến hiện tại. Phả hệ là một hồ sơ gốc hoặc dòng dõi của một nhóm từ xa xưa của nó. Như
M cKelvey (1982) đề nghị, so với việc nghiên cứu các tỷ lệ tổ chức sinh và tử, một nghiên
cứu phả hệ có thể nắm bắt tốt hơn làm thế nào mà các hình thức tổ chức được tạo ra, điều
chỉnh, và tái tạo lại thông qua các mối nối, sự hợp nhất, hoặc tương tác giữa các nguồn gốc
của họ trong một cộng đồng.

M ột nhân tố khác phân biệt các lý thuyết tiến hóa là cấp độ của phân tích. Gould và
Eldridge (1977), Arnold và Fristrup (1982), và Gould (1989) chỉ ra rằng thuyết Darwin cổ
điển nằm trong việc phân loại của sự t hay đổi tiến hóa ở cấp độ của các sinh vật đơn lẻ.
Việc phân loại này là hoạt động chọn lọc tự nhiên thông qua việc sinh ra và chết đi khác
nhau của các sinh vật riêng lẻ, được minh họa bằng nhiều nghiên cứu sinh thái học dân số
của các tỷ lệ tổ chức sinh và tử. Mô hình nhấn mạnh cân bằng của Gould thêm vào một
chiều hướng phân cấp cho thuyết tiến hóa bằng cách phân biệt việc phân loại (tăng trưởng
hay suy giảm của các s inh vật của một loài nhất định) từ sự hình thành loài (quá trình mà
các loài hoặc các nhóm mới được hình thành). Cái nhìn ở nhiều cấp độ này của sự tiến hóa
sẽ quan trọng khi chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ liên cấp độ xen vào giữa các động lực
thay đổi sau đó trong chương này.

Các ý nghĩa thực tiễn

Trong khi loại hình học được thiết kế chủ yếu như m ột trợ giúp để phát triển lý thuyết, nó
cũng có một mặt thực tế. Đặc biệt, nó cho thấy những sai sót thực hiện có thể xảy ra trong
các quá trình thay đổi cho mỗi động lực. Các quá trình mục đích luận của sự thay đổi
hoạch định là vấn đề cho những thành kiến nhận thức cá nhân (Kahneman, Slovic, và
Tversky, 1982) - những sai sót trong tư duy phê phán và ra quyết định (Nutt, 2002), leo
thang các cam kết cho các tiến trình thất bại của hành động (Ross và Staw, 1986), và suy
nghĩ theo nhóm (Janis, 1989). Các quá trình biện chứng của thay đổi thường thất bại do

các phương pháp rối loạn chức năng của việc giải quyết xung đột và đàm phán (Bazerman,
1985). Các chương của Hinings, Greenwood, Reay, và Suddaby và Seo, Putnam, và
Bartunek thảo luận làm thế nào các thay đổi đều đặn trong các mô hình vòng đời thể chế
Trang 18

thường bị kháng cự, dẫn đến phá hoại hoặc chỉ phù hợp với các nhiệm vụ, thay vì chủ
quan hóa chúng. Cuối cùng, chương của Baum và Rao chỉ ra rằng các quá trình tiến hóa
của sự biến thể, chọn lọc, và duy trì chỉ hoạt động dưới các điều kiện cạnh tranh các nguồn
lực khan hiếm, các quá trình phá vỡ khi các nguồn lực dồi dào và sự cạnh tranh thấp.
Nghiên cứu các lỗi thực hiện này rất hữu ích để xây dựng sự khác biệt giữa lý thuyết của
sự thay đổi và lý thuyết của việc thay đổi (Bennis, 1966, đã thảo luận trong chương 4 của
quyển này). Bốn lý thuyết của sự thay đổi của chúng tôi cố gắng để trả lời câu hỏi như thế
nào và tại sao thay đổi xảy ra. Các lý thuyết của việc thay đổi tập trung vào các câu hỏi
thực hiện, đó là, làm thế nào một quá trình thay đổi được thực hiện và hướng dẫn trong các
chỉ dẫn có tính xây dựng.

Sự hữu dụng của khuôn khổ

Khuôn khổ này có một số chức năng có ích. Trước hết, khuôn khổ mô tả các lý thuyết quá
trình khá đơn giản, các điều khoản trừu tượng, mang đến một cách để gỡ rối các lý thuyết
phức t ạp của sự phát triển thành các động lực thành phần. Bốn động lực loại lý tưởng phục
vụ như là các dạng cội nguồn thuộc về lý thuyết, và các sự phức tạp của quá trình phát
triển có thể được phân tích như ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dạng nguyên thủy này.

Thứ hai là bốn lý thuyết cơ bản có thể được sử dụng như là tiêu chuẩn để đánh giá hình
thức, sự đầy đủ, và độ kín của các lý thuyết phát triển cụ thể. Khi các lý thuyết được phát
triển cho một bối cảnh cụ thể, như đổi mới sản phẩm mới, chúng đều được thích nghi với
hiện tượng. Tuy nhiên, các lý thuyết đã xây dựng lên từ mặt nền đôi khi có các thành phần
bị thiếu không được đề xuất bởi nghiên cứu về một hiện tượng cụ thể, nhưng đó lại cần
thiết cho một sự tạo thành tốt, lời giải thích hoàn chỉnh. Ví dụ, một số lượng đáng ngạc

nhiên của các lý thuy ết thời kì của phát triển không xác định rõ những gì thúc đẩy hoặc
gây ra quá trình chuyển đổi từ một pha này sang pha khác. Tuy nhiên, việc mô tả về động
lực vòng đời chỉ ra rằng đây là một thành phần quan trọng của cơ chế sinh ra này, và có
thể đề nghị rằng điều này phải được xác định cho một lý thuyết pha cụ thể để hoàn chỉnh.
Bốn động lựcphân định các phần cần thiết của một giải thích đầy đủ, cung cấp các tiêu
chuẩn để xây dựng và đánh giá các lý thuyết của sự thay đổi và phát triển.

Thứ ba là, khuôn khổ hỗ trợ nghiên cứu quy nạp bằng cách viết ra các đặc tính của bốn
động lực và các điều kiện mà chúng có khả năng hoạt động. Thay vì dựa vào những định
kiến về giả thuy ết là tốt nhất, các nhà nghiên cứu có thể áp dụng các kiểm tra cho bốn
động lực để xem cái nào phù hợp với những hiện tượng phức tạp đang được kiểm tra. Điều
Trang 19

này giúp ngăn chặn những lời tiên tri tự hoàn thành có thể xảy ra khi chúng t ôi mong đợi
một số lượng nhất định của các giai đoạn phát triển hoặc của một quá trình nhất định, việc
này quá dễ dàng để tìm thấy bằng chứng trong các quá trình phức tạp cho bất cứ điều gì
chúng tôi mong đợi, và bỏ qua các động lực khác (Poole, 1981).

Cuối cùng, khuôn khổ mang đến những cái nhìn sâu vào các mối quan hệ giữa các giải
thích đa dạng của sự thay đổi và phát triển tổ chức. Theo cuốn sách này cho thấy, một loạt
các lý thuyết đã được nâng cao, vay mượn từ nhiều ngành như sinh học và phát triển con
người. Sự đa dạng của các lý thuyết và các khái niệm vay mượn từ các ngành khác nhau
đã thường xuyên khuyến khích chia tách quan điểm mà không làm phong phú thêm cho
nhau và tạo ra các dòng cô lập của nghiên cứu (Gioia và Pitre, 1990). Bất kỳ quan điểm lý
thuyết đơn luôn cung cấp chỉ một phần mục của một hiện tượng phức tạp. Như được thảo
luận trong phần kế tiếp, đó là ảnh hưởng lẫn nhau giữa những quan điểm khác nhau giúp
các nhà nghiên cứu đạt được một sự hiểu biết toàn diện hơn. Loại hình học có thể được sử
dụng để phát hiện ra những điểm tương đồng trong các lý thuyết dường như khác nhau và
để làm nổi bật “những khác biệt làm nên một sự khác biệt” trong các giải thích. Điều này
làm cho có thể phân biệt sự phổ biến trong một loạt các lý thuyết cụ thể mà có thể bị bỏ

qua.

Các lý thuyết phức tạp của thay đổi và đổi mới tổ chức

Hầu hết các quá trình quan sát của sự thay đổi, phát triển, và đổi mới tổ chức là phức tạp
hơn các loại lý tưởng. Một lý do cho việc này là thay đổi và đổi mới tổ chức diễn ra xuyên
qua không gian và thời gian, như được thảo luận trong chương 1. Kết quả là, nhiều hơn
một động lực có thể vận dụng trong bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Phát triển và thay đổi tổ
chức chịu ảnh hưởng bởi các đơn vị và các nhân vật đa dạng, cả bên trong và bên ngoài tổ
chức. Sự phân tán theo không gian của những thứ này có nghĩa là các ảnh hưởng khác
nhau có thể hoạt động đồng thời trên các phần khác nhau của tổ chức, từng thành phần
truyền “đà" riêng biệt của nó đến quá trình thay đổi. Ví dụ, trong một nghiên cứu về nỗ lực
phát triển sản phẩm, Van de Ven và Garud (1993) nhận thấy rằng một quá trình mục đích
luận giải thích quá trình phát triển trong phòng thí nghiệm R & D của công ty. Trong bộ
phận các công việc thường qui, trong đó tập trung vào sự chấp thuận sản phẩm của FDA,
một mô hình vòng đời tương ứng với các bước trong quá trình phê duyệt hoạt động quản
lý. Hai động lực khác nhau này đã tương tác khi sự phát triển sản phẩm đã tiến triển. Khi
sự phát triển sản phẩm đã tiến triển, nhưng có động lực khác đang vận hành trong lĩnh vực
lớn hơn của ngành công nghiệp y tế, một quá trình tiến hóa. Thiết kế sản phẩm tiên phong
Trang 20

của công ty bước đầu đã được hỗ trợ bởi các nhà nghiên cứu, nhưng bằng chứng đã gắn
kết mà khiến hầu hết các nhà nghiên cứu và các bác sĩ chuyển sang trung thành với thiết
kế của một công ty cạnh tranh, do đó “loại bỏ” sản phẩm. Các động lực cũng có thể thay
đổi một cách mạnh mẽ khi một quá trình mở ra. Theo thời gian, có cơ hội cho các động
lực khác nhau đi vào hoạt động, đặc biệt là tạo ra phân tán không gian của các ảnh hưởng.
Khi sản phẩm được nghiên cứu bởi Van de Van và Garud đã trưởng thành, động lực vòng
đời điều chỉnh đều đặn sự chấp thuận trở thành chi phối, làm lu mờ quá trình mục đích
luận và mở rộng gia nhập để quá trình chấp thuận bậc thang. Quá trình quan sát kết quả
gồm nhiều lớp và phức tạp, và để nắm bắt đầy đủ một lý thuyết phải kết hợp nhiều hơn

một động lực.

Các quá trình thay đổi và đổi mới tổ chức cũng phức tạp do sự không hoàn chỉnh vốn có
của bất kỳ động lực đơn lẻ nào. Mỗi động lực được vẽ trong đồ thị 13.1 có một hoặc nhiều
thành phần được xác định ngoại sinh đối với mô hình. Ví dụ, các biến thể trong mô hình
tiến hóa được giả định phát sinh ngẫu nhiên, nhưng quá trình đưa đến sự biến thể là không
xác định. Trong mô hình biện chứng, nguồn gốc của luận đề và phản đề không được tính
đến, cũng không phải là nguồn gốc của sự bất mãn trong mô hình mục đích luận, và các
quá trình bắt đầu khởi động và cả kết thúc trong mô hình vòng đời. Các đầu vào ngoại sinh
cho từng mô hình có thể được tìm thấy trong các mô hình khác. Ví dụ, quá trình chọn lọc
trong mô hình tiến hóa có thể kết thúc vòng đời, và bước thực hiện trong chu kỳ mục đích
luận có thể kích hoạt bước khởi đầu trong vòng đời và phản đề trong mô hình biện chứng.
Sự tổng hợp trong mô hình biện chứng có thể là nguồn gốc của sự biến thể trong chu kỳ
tiến hóa. Có những khả năng khác, theo đó các mô hình khác có thể bổ sung không đầy đủ
bất kỳ mô hình đơn lẻ nào của sự thay đổi.

Có thể chấp nhận là có nhiều lý thuyết của sự thay đổi và đổi mới được kết hợp nhiều hơn
một động lực, bây giờ chúng tôi sẽ xem xét các kiểu tương t ác giữa các động lực. Thông
qua các thảo luận tiếp theo chúng tôi sẽ rút ra và cố gắng thêm vào quan điểm về lý thuyết
và ý tưởng tiên tiến cho các chương trước.

Xây dựng những lý thuyết phức hợp bằng cách kết hợp nhiều động lực

M ột lý thuyết phức hợp tốt cho sự thay đổi hoặc đổi mới chỉ ra cụ thể và rõ ràng nơi mà
các động lực khác nhau kết hợp lại với nhau - không gian, thời gian t ại thời điểm chúng
hoạt động và tính chất, mức độ ảnh hưởng giữa chúng lẫn nhau. Ba khía cạnh chính có thể
phân biệt. Trước tiên, chúng tôi chỉ ra được các hình thức khác nhau của các mối quan hệ
Trang 21

liên cấp. Các tổ chức ở đây là tổ chức đa cấp và lý thuyết của sự thay đổi hoặc đổi mới của

tổ chức phải được xem như là quá trình tương tác lẫn nhau ở nhiều cấp độ khác nhau. Giả
định chung nhất là các mối quan hệ có thứ bậc trong đó cấp cao hơn thâu tóm và thiết lập
các giới hạn hoạt động của cấp thấp hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong ba loại hình của
mối quan hệ liên cấp mà chúng t ôi sẽ thảo luận. Thứ hai, chúng tôi thảo luận về các mối
quan hệ chuẩn giữa các động lực có thể thấy được, ngay cả chúng vượt hoặc nằm trong
phạm vi ở nhiều thứ bậc. Trong khi các mối quan hệ tích cực và tiêu cực tuyến tính được
cho là phổ biến nhất, thì các nghiên cứu gần đây về lý thuyết phức hợp và lý thuyết hệ
thống phi tuyến cho rằng có nhiều mối quan hệ phức tạp khác có thể được giữ vững
thường xuyên hơn. Cuối cùng, chúng tôi xem xét quy mô thời gian mà tại đó các động lực
khác nhau và làm thế nào các động lực hoạt động với quy mô thời gian khác nhau liên
quan đến nhau. Cuối cùng, chúng tôi xem xét các quy mô thời gian mà các động lực khác
nhau hoạt động và liên quan như thế nào giữa các động lực có quy mô thời gian khác
nhau.

Chúng tôi nên lưu ý là các động lực ở một lý thuy ết phức hợp có thể giống hoặc khác
nhau. Một cách tiếp cận phổ biến nhất cho các mô hình sinh thái gần đây của sự thay đổi
tổ chức là mô tả quá trình thay đổi trong điều kiện các động lực tiến hóa được lồng vào
nhau (theo Van de Ven and Grazman, 1999). Ở các mô hình như vậy thì chúng có cùng
chuỗi lý luận dưới sự phân tích ở nhiều cấp độ khác nhau và mối quan hệ giữa các động
lực thường được mô t ả như là một quá trình đi theo một quá trình tương tự ở một mức độ
cao hơn và là một quá trình định hướng cho một quá trình tương tự ở một mức độ thấp
hơn. Tuy nhiên, các vấn đề này có thể phức tạp hơn. Van de Ven và Poole (1995) thảo
luận một số lý thuyết mẫu có kết hợp nhiều loại động lực, một số lý thuyết ở các cấp độ
khác nhau của phân tích và các lý thuyết khác hoạt động ở cùng một mức độ. Vấn đề trong
trường hợp này là làm thế nào các động lực hoạt động theo cơ chế khác nhau ăn khớp với
nhau. Theo minh hoạ của các thảo luận sau đây, điều này cũng có thể xảy ra ở nhiều cách
khác nhau.

Mối quan hệ giữa các động lực ở nhiều cấp độ khác nhau


Hầu hết các nghiên cứu về sự thay đổi tổ chức tập trung vào phân tích ở một cấp độ đơn
lẻ. Tuy nhiên, các đơn vị tổ chức chính yếu là nằm trong một hệ thống đa cấp: các cá nhân
nằm trong các bộ phận, các bộ phận nằm trong các tổ chức, các tổ chức nằm trong các
ngành hoặc cộng đồng, các ngành, cộng đồng nằm trong các quốc gia hay các nền văn
hóa. Trong một số trường hợp các đơn vị được lồng vào nhau trong một hệ thống thứ bậc
Trang 22

như thể chúng phụ thuộc lẫn nhau, cũng chính vì điều đó sự thay đổi của một đơn vị có
cấp độ phụ thuộc sẽ làm thay các đơn vị có cấp độ cao hơn và thấp hơn. Ở trường hợp
khác, các cấp độ khác nhau hoạt động độc lập hơn nhưng vẫn còn ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong khi sự thay đổi của một mô hình đa cấp đã được công nhận là hữu ích trong việc mô
tả cuộc sống tổ chức, nhưng nó vẫn chưa được kết hợp rộng rãi vào việc giải thích sự thay
đổi của tổ chức. Kết quả là, chúng tôi biết tương đối ít về việc làm thế nào hay tại sao các
quá trình thay đổi ở một cấp tạo điều kiện hoặc hạn chế sự thay đổi các cấp khác của một
hệ thống phân cấp hoặc các chuỗi.

M eyer, Goes, và Brooks (1993) cung cấp một bản miêu tả chi tiết về cách thiết kế nghiên
cứu của họ, phản ánh tốt lý thuy ết đương đại nhưng cũng không thể đo lường hoặc giải
thích đầy đủ những thay đổi có nhiều bất thường được trải nghiệm qua các tổ chức bệnh
viện và các ngành công nghiệp trong những năm 1980 ở khu vực vịnh San Francisco. Họ
kết luận rằng ''sự cần thiết cấp bách nhất là phát triển một khung rộng hơn cho các suy
nghĩ về sự thay đổi tổ chức;. . . [Một điều đang xem xét] phương thức thay đổi [bốn động
lực thay đổi của chúng tôi] và một cấp độ mà tại đó nó xảy ra (tổ chức hoặc ngành)'' (trang
71). Dưới lý thuyết tiến hóa xã hội, Baum và Singh (1994) và Miner (1994) cũng đã kêu
gọi mở rộng lý thuyết này để chúng bao gồm nghiên cứu về các quá trình của sự biến thể,
sàng lọc và duy trì giữa các cấp độ khác nhau của các thực thể của tổ chức.

Nếu sự thay đổi tổ chức là một hiện tượng đa cấp độ và các động lực có khả năng hoạt
động trên các cấp độ khác nhau của phân tích, thì những kiểu nào của các mối quan hệ
cùng cấp có thể có? Chúng tôi có thể phân biệt các động lực lồng vào nhau, xen vào nhau

và kết hợp với nhau.

Các động lực được lồng vào nhau khi một động lực cấp thấp hơn được liên kết chặt chẽ
với các động lực bậc cao hơn, các chức năng phục tùng của động lực cấp thấp hơn kết nối
trực tiếp với các hoạt động của động lực cấp cao hơn. Ví dụ, một chu kỳ sống hoặc một
động lực có mục đích luận có thể diễn tả các hành động của các cá nhân tham gia vào quá
trình VSR nằm trong động lực tiến hóa. Trong trường hợp này, động lực cấp thấp làm mẫu
các biểu hiện để có thể cấu thành lên quá trình tiến hóa để làm sao chúng có thể tương
thích với quá trình của cấp cao hơn. Tuy nhiên, các chức năng này được thực hiện bởi một
động lực được lồng nhau không cần xác thực hoặc hỗ trợ, chúng chỉ cần sự giúp đỡ để
hướng theo động lực cấp cao hơn. Mô hình phát triển tổ chức của Greiner (1972) đã thừa
nhận có chu kỳ tồn tại của sự sáng tạo, ủy thác, sự phối hợp và cộng tác. Ở mỗi giai đoạn
khi lên đến cực điểm của các cuộc khủng hoảng biện chứng khác nhau (của sự thống trị, tự
Trang 23

chủ, kiểm soát, cô lập, và ''?''), đẩy các tổ chức vào giai đoạn tiếp theo của sự tăng trưởng.
Những cuộc khủng hoảng này được hình thành bởi các cuộc đấu tranh giữa các cá nhân,
những người đang cố gắng đối phó với các vấn đề của tổ chức. Quá trình chống đối làm
suy yếu giai đoạn đó kết hợp lại thành một cuộc khủng hoảng dẫn đến việc tiến bộ của quá
trình đó.

Trong cấu trúc phân cấp lồng vào nhau của các cá nhân trong các tổ chức nằm trong các
cộng đồng hoặc các ngành, các t ổ chức đại diện cho bản thân nhưng là một cấp duy nhất
của phân tích, tất cả đều bao gồm và bao phủ bởi các cấp khác. Các tổ chức được xem như
là hệ thống đang phát triển được lồng vào các hệ thống khác đã phát triển ở mức độ cao
hơn (ví dụ, ngành công nghiệp hoặc cộng đồng) và đang lồng vào các hệ thống mức độ
thấp hơn của phân tích (ví dụ, các nhóm làm việc hoặc các nhà quản lý), như mô tả của
Baum và Rao trong chương 8. Phân tích cộng đồng ở cấp độ cao hơn, Astley (1985) đã mô
tả những tổ chức có thành phần phức tạp cũng trải qua quá trình biến thể, sàng lọc và duy
trì của tự bản thân nó, vì chúng phát triển với sự thay đổi ở mức độ cao hơn của điều hành

và tổ chức, cũng như nhiều sự phát triển mang tính xã hội và kỹ thuật như minh họa trong
các chu kỳ hủy diệt sáng tạo của Schumpeterian. Sự phát triển đóng vai trò giải thích cho
cấu trúc thứ bậc của lý thuyết tiến hóa được biểu trưng như là nguồn cảm hứng mạnh mẽ
trong việc nghiên cứu sinh học tiến hóa (xem ví dụ của Arnold và Fristrup, 1982; Buss,
1987; Gould, 1982; Gould và Eldridge, 1977).

Quan điểm đa cấp của sự tiến hóa này rất quan trọng trong việc hiểu thế nào về sự sàng lọc
và thích nghi có thể xảy ra ở nhiều cấp độ. Ở bất cứ cấp trọng tâm nào thì sự sàng lọc tập
trung vào quá trình tiến hóa của sự chọn lọc hoặc chuyển đổi giữa các nhánh mới (ví dụ,
sự biến thể hoặc sự hình thành loài người), trong khi sự thích nghi là một kiểu của đặc tính
di truyền có ảnh hưởng tích cực đến tính phù hợp của sự tồn tại trong điều kiện ràng buộc
là có một nhánh bền vững đã được chọn. Vì vậy, sự sàng lọc thừa nhận có sự phân nhánh
trong một giống nòi, trong khi sự thích nghi thừa nhận sự phụ hợp hoặc hoặc điều chỉnh
với nhánh đã được chọn. Arnold và Fristrup (1982) tiếp tục lập luận rằng sự phân nhánh
và sự tiếp tục tồn tại là thành phần thiết yếu của sự phù hợp ở mọi cấp độ. Phân nhánh cho
thấy được sự biến thể hoặc các mức độ hình thành loài người, trong khi sư duy trì cho thấy
có sự phụ hợp (hoặc mức độ tuyệt chủng) của các thực thể trong các nhánh đã chọn.

Trong khi mối quan hệ thứ bậc rất hấp dẫn bởi trật tự và sự cuốn hút của nó, các kiểu khác
của các mối quan hệ giao nhau cũng như vậy. Các động lực đan xen nhau khi động lực cấp
thấp và cấp cao ảnh hưởng lẫn nhau nhưng không liên kết chặt chẽ thành một quá trình
Trang 24

gắn kết riêng lẻ. Trường hợp này, các động lực hoạt động độc lập ở một vài cấp bậc. Trái
ngược với động lực lồng nhau được kết nối chặt chẽ, động lực cản trở nhau được kết nối
vừa phải hoặc lỏng lẻo. K ết quả là, các động lực hoạt động theo cách riêng của chúng và
tương tác lẫn nhau, nhưng không 'đồng bộ' ở mức độ như động lực lồng nhau được. Ví dụ,
mô hình mục đích luận của một sự thay đổi được hoạch định trong một tổ chức có thể là
giả thuy ết cho sự phát triển của nhiệm vụ chung được chia sẻ bởi nhiều cá nhân (Bryson,
1988). Tuy nhiên, những cá nhân giống nhau này cùng phát triển dọc theo tiến trình sống

riêng của chúng và có thể gặp áp lực giữa tập hợp hay độc lập vì một tổ chức sẽ nỗ lực để
sở hữu được bản thân nhằm phá hủy cho nhiệm vụ chung (Putnam và Stohl, 1996). Những
áp lực có thể hướng một số cá nhân chọn "không tham gia" tổ chức do việc dành năng
lượng của chúng cho các phần khác của cuộc sống. Trong trường hợp này, quy trình cấp
cá nhân có thể làm suy yếu các quá trình của cấp tổ chức hoặc họ có thể đẩy mạnh các
quá trình này, tùy thuộc vào quá trình các cá nhân giao nhau với các giai đoạn của chu kỳ
sống (Moreland và Levine, 1988). Lần lượt, các chu kỳ sống của tổ chức ảnh hưởng đến
chu kỳ sống của cá nhân bởi chúng là một, mặc dù không phải là yếu tố duy nhất trong thế
giới của chúng. Hai quá trình cá nhân và tổ chức có tính toàn vẹn của riêng mình và ảnh
hưởng lẫn nhau.

Có hiện tượng "trượt" trong các mối quan hệ của động lực cản trở. Sự ảnh hưởng của một
động lực ở cấp độ này lên một động lực ở cấp độ khác là một quá trình trung gian mà qua
đó các động lực gắn kết với nhau. Bản chất của quá trình này sàn lọc các tác động liên cấp,
ảnh hưởng đến sức mạnh và bản chất của vị thế. Tùy thuộc vào quá trình, ảnh hưởng liên
cấp có thể mạnh hay yếu và cũng có thể thay đổi theo thời gian. Theo các ví dụ minh họa,
các mối quan hệ thứ bậc thường liên quan đến các mối liên kết chặt chẽ, theo đó các khóa
liên động của động lực là rõ ràng. Trong các mô hình sinh học, các đặc tính di truyền cung
cấp một đối tượng ranh giới chính mà trên đó quá trình có thể hoạt động từ nhiều cấp độ.
Trong các phiên bản tổ chức của thuyết tiến hóa, các dạng tương tự của đặc tính di truyền
là rất khó xác định, nhưng Van de Ven và Grazman (1999) cho rằng hình thức tổ chức
(được định nghĩa dưới dạng các thước đo như nhiệm vụ, cấu trúc thẩm quyền, công nghệ
và thị trường) là các công cụ cơ bản của sự phát triển của tổ chức (xem thêm Baum và Rao
về lập luận này). Họ thừa nhận rằng các khía cạnh của hình thức là nương tựa, kết hợp lại
và tạo mới trong quá trình phát triển của tổ chức, là kết quả trong một phả hệ của các hình
thức tổ chức. Các động lực cản trở hoạt động không có điểm chung. Thay vào đó, nó là
cần thiết để xác định một quá trình độc lập của các động lực mà chúng tự kết nối với các
động lực cản trở.
Trang 25


Để tiếp tục ví dụ về sự tham gia của cá nhân trong nỗ lực thay đổi tổ chức, các cấp cá nhân
và tổ chức được kết nối với nhau bởi các quá trình chi phối mức độ đầu tư của các cá nhân
để có được sự tồn tại ở cấp cao hơn. Các cá nhân là thành viên của nhiều đơn vị có trật tự
cao hơn như là các gia đình, các hiệp hội tự nguyện, các mạng lưới hữu nghị, các tổ chức
trung tâm do đó họ có hạn chế về sự chú ý và sức lực dành cho các đơn vị này, nên các cá
nhân phải có những lựa chọn nơi họ sẽ đầu tư thời gian và sức lực của họ (Putnam và
Stohl, 1996). Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phân bổ này bao gồm động lực thăng
tiến mà đơn vị cấp trên tạo cơ hội so với các đơn vị cấp trên khác, các nhu cầu cá nhân, và
nhà lãnh đạo thay đổi có nổi bậc trong tổ chức hay không. Quá trình kết nối sẽ tác động
đến bản chất và sức mạnh của ảnh hưởng liên cấp. Chẳng hạn một nhà lãnh đạo mạnh mẽ
có một tầm nhìn rõ ràng cho sự thay đổi có thể kích thích năng lực cá nhân tập trung cho
sự thay đổi và rút cá nhân đó ra khỏi các đơn vị khác, dẫn đến một sự tập hợp của các cá
nhân tập trung cho nỗ lực thay đổi. Điều này cho thấy sức mạnh của ảnh hưởng liên cấp.
Bản chất và sức mạnh của ảnh hưởng cũng có thể thay đổi theo thời gian vì quá trình kết
nối thay đổi. Nếu lãnh đạo không có uy tín, chúng tôi mong chờ sức mạnh của sự kết nối
để làm suy yếu vì các cá nhân tái phân bổ năng lực của mình cho các chương trình khác.
Điều này sẽ cho thấy một sự suy giảm ảnh hưởng liên cấp hoặc thậm chí như là các cấp bị
ngắt kết nối với nhau.

Chúng tôi sẽ thảo luận tiếp theo việc đưa ra giả thuyết cho động lực cản trở khó hơn cho
các động lực phân cấp hoặc tổng hợp. Mô hình Moreland và Levine (1988) về xã hội hoá
các cá nhân thành các nhóm cung cấp cho một ví dụ tốt. Họ cung cấp một hình ảnh thuyết
phục về các cá nhân được hình thành bởi các nhóm và lần lượt ảnh hưởng đến nhóm như
thế nào. Tuy nhiên, M oreland và Levine tự giới hạn mình vào trường hợp của các thành
viên đơn lẻ và không dành nhiều sự chú ý tới đặc tính mối quan hệ hoặc tương tác giữa
các thành viên. Sự phức tạp này là rất khó để đưa chúng thêm vào các lý thuyết của
M oreland-Levine và thường rất khó ngay cả nhận thức về cách thức kết nối như vậy có thể
được mô hình hóa. Tuy nhiên, đó là một điều khó khăn nhưng không có nghĩa là không
thể, và chúng tôi hy vọng các nhà lý luận trong tương lai sẽ chuyển sự chú ý của họ cho
các câu hỏi như thế này. Các động lực cản trở nên được nhình nhận là phổ biến chắc chắn

hơn nhiều so với các tài liệu hiện tại. Khó khăn lớn của họ có thể đã khuy ến khích các nhà
nghiên cứu trong việc khái niệm những điều này hoặc khuyến khích họ áp đặt những điều
đó vào khuôn khổ thứ bậc.

Loại thứ ba là động lực tổng hợp đại diện cho trường hợp mà một quy trình ở cấp độ cao
hơn nổi bậc lên hoặc được thành lập bởi sự kết hợp của các quá trình cấp thấp hơn. Trong

×