Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.59 KB, 53 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Với bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một nền kinh tế nào thì vốn luôn là yếu
tố hàng đầu quyết định sự tăng trưởng kinh tế.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, Việt Nam đã
và đang từng bước vươn lên, bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục được
mọi thị trường, chiếm lĩnh thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của
mình trên trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt
động một cách bình đẳng theo pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và
phát triển mạnh mẽ, cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới
công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Theo dự tính trong tương lai thì nhu cầu vốn ngày càng tăng nhằm đáp ứng
yêu cầu của sản xuất kinh doanh tạo ra năng lực mới nâng cao khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Để hoạt động kinh doanh được phát triển và cạnh tranh được
trên thị trường các doanh nghiệp cần phải đầu tư một lượng vốn không nhỏ, mà vốn
tự có của doanh nghiệp chỉ đáp ứng được một phần nào như cầu vốn của họ. Đặc
biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất
cấp thiết. Vì vậy ngân hàng chính là nơi mà các doanh nghiệp này tìm đến để giải
quyết các khâu về vốn.
Tín dụng của các ngân hàng thương mại là một trong những hình thức đáp
ứng nhu cầu về vốn đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa
và nhỏ nói riêng. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không ít những khó khăn như: sự an toàn, chất lượng,
1
hiệu quả… đặc biệt là vấn đề chất lượng của các khoản tín dụng. Đây là mối quan
tâm hàng đầu của các ngân hàng trong đó có Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam chi nhánh Đăk Lăk. Nâng cao chất lượng tín dụng luôn là một vấn đề cấp thiết
và quan trọng đối với các ngân hàng, vì chất lượng tín dụng liên quan trực tiếp đến
quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.


Chính vì lý do đó mà em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng
tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam chi nhánh Đăk Lăk” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt
nghiệp.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về tín dụng, chất lượng tín dụng, doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
- Tìm hiểu thực trạng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Đăk Lăk.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh
Đăk Lăk.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Đăk Lăk.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề về chất lượng tín dụng và đề xuất một số giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Đăk Lăk.
1.4.2. Phạm vi về không gian
2
Đề tài được thực hiện nghiên cứu tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam chi nhánh Đăk Lăk, có trụ sở đặt tại 35 Nguyễn Tất Thành – TP.Buôn Ma
Thuột - Tỉnh Đăk Lăk.
1.4.3. Phạm vi về thời gian
Thời gian của số liệu được thu thập, sử dụng trong nghiên cứu là từ năm
2008-2010.
PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
2.1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị
(tiền hay hiện vật) của người sở hữu sang cho người khác sử dụng và sẽ hoàn trả
người sở hữu nó sau một thời gian nhất định với một lượng giá trị lớn hơn.
Tín dụng là một quan hệ vay mượn tài sản (tiền tệ hoặc hàng hóa) được dựa
trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn lẫn lời sau một thời gian nhất định.
Một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ, người cho vay) cung
ứng tiền, hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng khoán dựa vào lời hứa thanh toán lại trong
tương lai của bên kia (người thụ trái, người đi vay). [3]
2.1.1.2. Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế.
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
3
Hay nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối
lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng
buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn
giá bán trao tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu.
Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì
vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất
hàng hoá. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội
thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và
nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian sử dụng vốn của tổ chức hay cá nhân đó. Trong khi
đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá trình tái
sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì
chỉ có ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải

quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay,
vừa là người cho vay”.[4]
Với tư cách là người đi vay : ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ
chức cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong
xã hội
4
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức
năng phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Có thể thấy rõ hơn khái niệm về tín dụng ngân hàng qua ví dụ sau :
Với lợi thế về du lịch Việt Nam đang ngày càng thu hút nhiều du khách nước
ngoài “trở thành điểm đến của thiên niên kỷ mới”, do vậy số lượng khách du lịch
đến Việt Nam sẽ tăng lên. Nếu biết tận dụng cơ hội này thì việc xây dựng nên khách
sạn không những đem lại lợi nhuận cho chính bản thân mà còn đem lại sự phát
triển cho nền kinh tế. Nhưng để xây dựng được khách sạn đủ khả năng cạnh tranh
thì cần có lượng vốn rất lớn mà nguồn vốn của chính bản thân thì khó có thể đáp
ứng. Trong khi đó có một số người khác có món tiết kiệm do tích luỹ được trong
nhiều năm, tạm gọi là lượng tiền nhàn rỗi. Nếu hai bên gặp được nhau và bên đối
tác sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn thì kế hoạch sẽ trở thành hiện thực. Tuy nhiên,
khả năng gặp mặt giữa hai bên có xảy ra không? Trong nền kinh tế thị trường, hàng
ngày hàng giờ không biết xảy ra bao nhiêu mối quan hệ như vậy. Nó đã hình thành
nên: một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia

là những người có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là
làm như thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc
thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết kiệm còn
đang nằm phân tán trong xã hội. Không phải bất kì ai cũng có khả năng hoặc đầu tư
vay vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường tài chính đòi
hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó các ngân hàng thương mại với
chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa
5
khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được
những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian, tín dụng ngân
hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một
bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện
pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kĩ thuật theo hướng hiện đại
tiên tiến, ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm
dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn
trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền
tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành
nguồn vốn tập trung phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đầy hoạt động
sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
2.1.1.3. Các loại tín dụng ngân hàng
Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung:

Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử
dụng

Sự chuyển nhượng này có thời hạn

Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí
Tín dụng ngân hàng (sau đây gọi tắt là tín dụng) có thể phân chia thành ra
nhiều loại khác nhau tùy theo những tiêu thức phân loại khác nhau.


Dựa vào mục đích của tín dụng:
Theo tiêu thức này tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành các loại sau:

Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.

Cho vay tiêu dùng cá nhân.

Cho vay bất động sản

Cho vay nông nghiệp.
6

Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu

Dựa vào thời hạn tín dụng:
Theo tiêu thức này tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:

Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm.
Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài
sản lưu động.

Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài
sản cố định.

Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục
đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào các dự
án đầu tư.


Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:

Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.

Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo
đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba
nào khác.

Dựa vào phương thức cho vay:

Cho vay theo món vay.

Cho vay theo hạn mức tín dụng

Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay:

Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ
một lần khi đáo hạn.
7

Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.

Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể
mà tùy khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
[3]
2.1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp (cả về ngân hàng và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh) ta phải hiểu rõ các

nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng để từ đó phát huy những ảnh
hưởng tích cực cũng như hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác cả ngân hàng
và doanh nghiệp phải cố gắng linh hoạt để phù hợp với quy định của Nhà nước
trong hoạt động tín dụng. Có như thế thì cả ngân hàng và doanh nghiệp mới đề ra
các biện pháp đúng đắn, cụ thể, linh hoạt để đạt được mục tiêu hoạt động của mình
một cách tốt nhất. Sau đây chúng ta lần lượt nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng ngân hàng thuộc về ngân hàng và doanh nghiệp.
 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng
Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nó có ý nghĩa
quyết định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Chính sách tín dụng phải phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế của đảng và nhà nước, đồng thời kết quả hài
hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và người sử dụng vốn vay.
Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực
tiễn.
- Thông tin tín dụng
Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định
cần thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm thiểu rủi ro tín
dụng, nâng cao hiệu quả tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ nguồn
thông tin sẵn có của ngân hàng hoặc từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC), từ khách
hàng, từ đối thủ cạnh tranh hoặc nói cách khác từ nguồn trực tiếp hay gián tiếp, từ
các nguồn thông tin của cơ quan pháp luật
8
- Công tác tổ chức Ngân hàng
Nhân tố này không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà tác động đến
mọi hoạt động của ngân hàng. Một Ngân hàng có cơ cấu tổ chức đựơc sắp xếp một
cách khoa học, sự phân công công việc được tiến hành một cách cụ thể, có sự liên
kết giữa các bộ phận thì việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng sẽ được thực
hiện kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, quản lý có hiệu qủa và an toàn các
khoản tín dụng.

- Chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh
nói chung, còn nói đến hoạt động Ngân hàng thì nó lại càng quan trọng. Vì cán bộ
công nhân viên của Ngân hàng là bộ mặt, hình ảnh của Ngân hàng đối với khách
hàng. Hơn nữa nghiệp vụ ngân hàng càng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng
nhân sự ngày càng cao. Việc tuyển dụng nhân viên có đạo đức tốt, giỏi chuyên môn
nghiệp vụ sẽ giúp ngân hàng ngừa tối đa những sai phạm có thể xẩy ra để đem lại
một khoản tín dụng có chất lượng.
- Công tác kiểm soát nội bộ
Đây là công tác mà Ngân hàng nào cũng cần tiến hành thường xuyên, liên
tục nhằm duy trì chất lượng, hiệu quả kinh doanh của mình phù hợp với các chính
sách, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đã đề ra. Để làm tốt công tác này, Ngân hàng cần
sắp xếp một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, trung thực làm nhiệm vụ
này và có chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. Có như thế, công tác tín dụng mới
được thực hiện đúng quy trình nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
 Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
- Năng lực của doanh nghiệp
Không một doanh nghiệp nào đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu
quả. Nhưng nhiều khi do năng lực có hạn chế, họ không thực hiện được mục đích
của mình và làm ảnh hưởng đến khoản tín dụng mà họ đã nhận từ ngân hàng.
- Trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp
Do trình độ của nhiều nhà lãnh đạo còn nhiều hạn chế về học vấn, kiếm thức
cũng như kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi họ không dự đoán được những biến
động của thị trường, yếu kém Marketing sản phẩm Do sự bảo thủ của nhiều nhà
9
quản lý không dám đổi mới khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không có
hiệu quả, dẫn đến tình trạng không thu hôi hết được vốn và làm ảnh hưởng đến hiệu
quả của doanh nghiệp từ đó ảnh hưỏng đến chất lượng của khoản tín dụng đã sử
dụng.
- Đạo đức của người đi vay

Ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích kỹ các yếu tố có liên
quan đến khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ và cách thức sử dụng vốn
vay. Nhưng thông tin này có thể bị thay đổi sau khi doanh nghiệp nhận được tiền
vay. Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay không hợp lý dẫn đến không
đạt đựơc hiệu quả sản xuất kinh doanh. Còn có nhiều ngừơi có ý tham nhũng và kết
quả là hiệu quả sử dụng vốn vay Ngân hàng kém thậm chí không thu hồi được. Vì
vậy, công tác kiểm tra, giám sát của ngân hàng là rất quan trọng.
 Các nhân tố khách quan khác
Ngoài những nhân tố chủ quan trên còn nhiều nhân tố khách quan mà tác
động của nó cũng không nhỏ đến chất lượng của các khoản tín dụng ngân hàng.
- Tác động của môi trường kinh tế
Đây là nhân tố luôn ảnh hưởng đến khả năng tài chính của người vay hay nói
rõ hơn là nếu môi trường kinh tế xấu làm cho hoạt động của doanh nghiệp gặp khó
khăn, ảnh hưởng đến thời hạn trả nợ và khả năng hoàn trả món vay cho ngân hàng
đo đó ảnh hưởng đến chất lượng của khỏan tín dụng đó của ngân hàng. Ngược lại
nếu môi trường kinh tế thuận lợi sẽ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thuận lợi, thu hồi được vốn nhanh đồng thời lợi nhuận thu được sẽ
cao và từ đó khả năng trả nợ của doanh nghiệp, khỏan vay sẽ được trả đúng hạn,
khoản tín dụng ngân hàng sẽ có chất lượng tốt.
- Tác động của môi trường pháp lý
Ngân hàng là một doanh nghiệp luôn phải hoạt động trong hành lang pháp lý
hẹp hơn bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào. Vì vậy, một hệ
thống pháp lý càng hoàn chỉnh, đồng bộ thì sẽ càng đem lại hiệu quả hoạt động của
ngân hàng, của các doanh nghiệp và đảm bảo đựơc chất lượng tín dụng của các
doanh nghiệp đó với ngân hàng. Còn nếu môi trường pháp lý không hoàn chỉnh, có
nhiểu lỗ hổng thì kết quả sẽ ngược lại cho cả ngân hàng và các doanh nghiệp từ đó
10
làm cho chất lượng của các khỏan tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp sẽ xấu
và khó có thể thu hồi.
- Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước

Trong nền kinh tế thị trường các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước bao
gồm các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách lãi suất, chính sách đối ngoại có
vai trò quan trọng đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt động của các
ngân hàng, các doanh nghiệp nói riêng. Chính sách kinh tế trong hoàn cảnh này thì
có tác dụng cho cả ngân hàng và doanh nghiệp nhưng trong hoàn cảnh khác thì lại
ngược lại. Các chính sách này nhằm ưu tiên phát triển hay hạn chế một ngành nào
đó để đảm bảo cân đối cho nền kinh tế. Do vậy các chủ trương, chính sách của Nhà
nước phải đúng đắn thì mới thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là điều kiện
cần để đạt được chất lượng và hiệu quả của các khoản tín dụng ngân hàng.
- Các yếu tố thiên tai gây nên
Chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi mang tính thời vụ.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước có thành phần kinh tế Nhà
nước, trong đó doanh nghiệp trong các ngành nông – lâm – ngư nghiệp lại chiếm
một tỷ lệ không nhỏ thì yếu tố này rất quan trọng. Khi thiên tai xảy ra như: lũ lụt,
hạn hán, mưa bão, hỏa hoạn, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp bị đổ bể, dẫn đến khả năng hoàn trả các khoản nợ là khó khăn hoặc
không thể, làm cho chất lượng của các khoản tín dụng bị giảm sút.
2.1.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Điều 3 của Nghị định 56/2009/NĐ-CP định nghĩa Doanh nghiệp vừa và nhỏ
như sau: “là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được
chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn
tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). [8]
2.1.2.2. Các chỉ tiêu xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
11
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng
lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
[8]

Ở Việt Nam, căn cứ vào những quy định tại điều 3 của Nghị định
56/2009/NĐ-CP thì để xác định doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh
nghiệp vừa là dựa trên hai tiêu chí cơ bản là số lao động và tổng nguồn vốn. Cụ thể
như sau:
Bảng 2.1: Các tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quy mô

Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 200
người

từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Công
nghiệp và xây
dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 200
người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
12
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống

từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
2.1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể
giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương
đồng như sau:

Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt
Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Vì thế,
đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.

Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều
chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn
định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh
tế.

Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy
mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.

Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh
nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được

dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.

Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường
đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa
lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân
sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
13
2.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
2.1.3.1. Chỉ tiêu tỷ lệ cho vay

Tổng dư nợ
Tỷ lệ cho vay =
Tổng lượng vốn huy động tích lũy
Tỷ lệ này cho biết khả năng ngân hàng tận dụng nguồn vốn huy động trong
hoạt động tín dụng.
- Cơ cấu cho vay theo mức lãi suất và lãi suất cho vay bình quân. Chỉ tiêu
này cho thấy được mức lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng. Nói chung, lãi
suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân thì ngân hàng mới
hoạt động và có lãi.
2.1.3.2. Chỉ tiêu nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm nợ quá hạn trên tổng dư nợ của ngân
hàng ở một thời điểm nhất định.
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn cho ta thấy rủi ro của món vay sẽ không trả được, bao nhiêu
khoản vay đến hạn, bao nhiêu khoản vay chưa hoàn trả. Tỷ lệ này càng cao thì ngân
hàng thương mại càng khó khăn trong kinh doanh vì khi có ngân hàng có nguy cơ
mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận, tức là tỉ lệ nợ quá hạn càng
cao chất lượng tín dụng càng thấp.
Để đánh giá chính xác chỉ tiêu này, người ta chia tỷ lệ nợ quá hạn ra làm hai

loại: Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi và tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng
thu hồi.
Tỷ lệ nợ quá hạn
có khả năng thu hồi

Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
14
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) = * 100
Tỷ lệ nợ quá hạn không
có khả năng thu hồi
=
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi
Nợ quá hạn
=
Nợ quá hạn
Hai chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn có khả
năng thu hồi và bao nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn không có khả năng thu
hồi. Vì vậy, đánh giá thêm hai chỉ tiêu này sẽ cho phép đánh giá chính xác hơn chất
lượng tín dụng.
2.1.3.3. Chỉ tiêu nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay mà không thể thu hồi lại
được. Tỷ lệ nợ xấu cho thấy phần trăm các khoản cho vay không có khả năng thu
hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng quá cao cho thấy hoạt
động tín dụng của ngân hàng chưa tốt, gây ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh
doanh của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu dưới 3% là ở mức tốt và tỷ lệ nợ xấu an toàn là
dưới 5%.
2.1.3.4. Hệ số thu nợ
Hệ số thu nợ =
Tỷ lệ này cho thấy khả năng thu hồi nợ vay của ngân hàng, tỷ lệ này càng

cao cho thấy ngân hàng xóa được nhiều nợ, chất lượng các khoản tín dụng tốt. Các
khoản nợ thu được ngân hàng sẽ tiếp tục cho vay và tham gia vào nhiều hoạt động
khác của ngân hàng, vốn được quay vòng nhanh sẽ làm cho lợi nhuận của ngân
hàng tăng lên, thúc đẩy quá trình phát triển của ngân hàng. Vì thế tỷ lệ này càng cao
càng cho thấy hoạt động tín dụng có chất lượng tốt và hoạt động kinh doanh của
ngân hàng có hiệu quả.
2.1.3.5. Chỉ tiêu trích lập dự phòng
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng =
15
Nợ xấu
* 100
Tổng dư nợ
Doanh số thu nợ
* 100
Doanh số cho vay
Doanh số trích lập dự phòng
* 100
Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro là khoản tiền ngân hàng trích lập ra khi thực hiện cho vay để
phòng ngừa rủi ro xảy ra đối với các khoản vay. Khi cho vay ngân hàng sẽ trích ra
0,75% giá trị khoản vay để phòng ngừa trường hợp khách hàng trả chậm hoặc
không trả được nợ đã vay, nếu đến kỳ hạn trả nợ khách hàng chưa trả được nợ thì
ngân hàng sẽ phải trích lập dự phòng với tỷ lệ tùy theo thời gian trả chậm của khách
hàng và tùy theo tài sản đảm bảo của khoản nợ đó. Tỷ lệ trích lập dự phòng cao sẽ
làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống, vì như thế có nghĩa là nợ quá hạn lớn
và ngân hàng phải trích lập dự phòng nhiều dẫn đến chi phí tăng và lợi nhuận giảm
xuống.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay chiếm khoảng 96% tổng số

doanh nghiệp trên toàn quốc với gần 120.000 doanh nghiệp. Trong đó, doanh
nghiệp Nhà nước chiếm 3,5%, còn lại chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh
chiếm xấp xỉ 97%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 17%, lĩnh vực xây dựng 14%, nông
nghiệp 14%, còn lại 55% số doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.
Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay thường hoạt động với mục
tiêu hướng nội, trong một phạm vi không gian rất nhỏ nên trình độ quản lý, quản trị
doanh nghiệp thường khá yếu kém. Kỹ năng sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm bản thân hoặc gia đình. Vì vậy khả năng lập kế hoạch kinh doanh tổ
chức và triển khai hoạt động sản xuất còn mang tính chất tự phát. Mỗi khi có sự
thay đổi về môi trường kinh doanh, bộ phận doanh nghiệp này sẽ gặp nhiều khó
khăn để thích ứng.
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực khoa
học công nghệ thì trình độ khoa học kỹ thuật của phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 20-50 năm so với các nước trong khu
vực. Do vậy sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghiệp thấp, hàm lượng chất
16
xám ít, giá trị thương mại và sức mạnh cạnh tranh kém so với các sản phẩm cùng
loại của các quốc gia trong khu vực cũng như thế giới. Bên cạnh đó, do hạn chế về
vốn nên khả năng quảng bá, tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn. Phần lớn chưa xác lập được kênh bán
hàng nên các sản phẩm làm ra vừa phải cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong
nước vừa phải cạnh tranh với các hàng hóa nhập khẩu.
Phần lớn đều thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin kinh doanh. Những nguồn
thông tin về thị trường đầu vào như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường
nguyên vật liệu Bên cạnh đó, những thông tin về môi trường kinh doanh như hệ
thống pháp luật, các văn bản liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, thị trường tiêu
thụ sản phẩm cũng chưa được cập nhật nên dẫn tới hậu quả là nhiều doanh nghiệp
vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh theo kiểu “thầy bói xem voi” nên bỏ lỡ nhiều cơ hội
kinh doanh.

Bên cạnh những yếu kém từ phía chủ quan của các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
còn phải kể đến những yếu tố khách quan kìm hãm sự phát triển của bộ phận doanh
nghiệp này. Đầu tiên phải kể đến là vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ
yếu thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở nhiều nơi vẫn còn bị đối xử bất bình đẳng
trong các quan hệ giao dịch về đất đai, mặt bằng sản xuất, vay vốn, hệ thống thông
tin thị trường Vấn đề vốn hiện nay được coi là bức xúc nhất. Hầu hết các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đều có nhu cầu vay vốn để đầu tư trang thiết bị khoa học kỹ
thuật nhưng đều vướng phải những hàng rào khó vượt qua về tài sản thế chấp nên
rất khó tiếp cận các nguồn vốn vay. Nhằm tháo gỡ những khó khăn về vấn đề này,
bộ tài chính đã có nhiều văn bản nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng như trình thủ tướng Chính phủ ban hành quyết
định số 193/2001/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt
động của quỹ bảo lãnh tín dụng; ban hành thông tư số 42/2002/TT-BTC ngày
7/5/2002 hướng dẫn một số điểm quy chế thành lập tổ chức và hoạt động của quỹ
bảo lãnh tín dụng Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay, quỹ bảo lãnh tín dụng
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như chưa được triển khai thành lập ở các địa
phương. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do hầu hết các địa phương đều không huy
17
động được nguồn vốn để đóng góp 30% vốn điều lệ hình thành quỹ bảo lãnh tín
dụng. Mặt khác, ngân hàng cũng không mặn mà với việc góp vốn vào quỹ bảo lãnh
tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ do không đủ hấp dẫn về lợi ích. Do vây,
các tổ chức tín dụng này cũng ít quan tâm đến việc tham gia đóng góp để hình thành
70% quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về vấn để mặt bằng sản xuất, hiện nay đại đa số các doanh nghịêp dân doanh
vẫn đang phải tự xoay xở tìm kiếm đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, làm
tăng chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Theo báo cáo điều tra của viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương; để có mặt bằng kinh doanh, doanh nghiệp phải “mua
lại” đất của người khác bao gồm cả tiền đền bù giải phóng mặt bằng, tự san lấp mặt
bằng kinh doanh, thuê lại mặt bằng đã mua với các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền Mặt khác, diện tích đất Nhà nước có để cho thuê thường quá ít so với nhu
cầu ở một số tỉnh thành phố tập trung nhiều doanh nghiệp. Như ở Hà Nội, theo điều
tra của ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội chỉ có 376 doanh
nghiệp dân doanh thuê được đất của Nhà nước để làm mặt bằng kinh doanh, trong
khi đó, chỉ riêng 10 tháng đầu năm 2002 đã có thêm ít nhất 400 doanh nghiệp có
nhu cầu thuê đất. Nếu có đất để cho thuê thì giá lại quá cao, phải trả tiền một lần
cho thời gian dài từ 10-60 năm vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ Các chương trình trợ giúp thông tin, trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực,
trợ giúp xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đã được các
Bộ ngành, địa phương tổ chức triển khai nhưng nhìn chung kết quả đạt được còn rất
khiêm tốn. Điều quan trọng nhất là nhận thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về
việc tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn
rất hạn chế. Nếu các doanh nghiệp này không nhanh chóng chuyển đổi thì sẽ không
bắt kịp với quá trình hội nhập, có nguy cơ tụt hậu
2.2.2. Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh
Đăk Lăk
Năm 2010, hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk tiếp tục gặt hái
được nhiều kết quả quan trọng, hầu hết các tổ chức tín dụng đều hoàn thành hoặc
hoàn thành vượt kế hoạch. Tính đến cuối năm 2010, tổng nguồn vốn huy động tại
chỗ đạt 12.413 tỷ đồng, tăng hơn 45% so với đầu năm. Trong đó, tiền gửi của dân
18
chiếm tỷ trọng cao nhất, hơn 63% nguồn vốn huy động, với mức tăng hơn 50% so
với đầu năm. Về hoạt động tín dụng, tổng doanh số cho vay trong năm đạt trên 42
nghìn tỷ đồng, tăng gần 14% so với năm 2009; tổng doanh số thu nợ 36.690 tỷ
đồng; đưa tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt hơn 29 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 23%
so với đầu năm (không tính dư nợ của Chi nhánh Ngân hàng Phát triển khu vực Đăk
Lăk – Đăk Nông). Nợ xấu ở mức thấp, khoảng 1,6%/tổng dư nợ. Hoạt động dịch vụ
tiếp tục có bước phát triển; hoạt động thanh toán quốc tế không ngừng mở rộng,
phục vụ tốt nhu cầu đa dạng của khách hàng. Công tác tiền tệ kho quỹ bảo đảm an
toàn tuyệt đối, đáp ứng tốt nhu cầu vốn tiền mặt phục vụ nền kinh tế…

Về nhiệm vụ năm 2011, ngành Ngân hàng Đăk Lăk đã đề ra một số mục tiêu
chính như tiếp tục đẩy mạnh công tác huy động vốn tại chỗ, mở rộng tín dụng để
đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; chỉ
đạo các tổ chức tín dụng điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung
vốn cho lĩnh vực sản xuất, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Phấn đấu tăng trưởng huy động vốn tại chỗ đạt 25%-30%; tăng trưởng
dư nợ tín dụng khoảng 20% - 25%.
Phó Bí thư Tỉnh ủy Đăk Lăk Trần Sỹ Thanh đánh giá cao những đóng góp
của ngành Ngân hàng Đăk Lăk trong năm qua, đồng thời yêu cầu ngành Ngân hàng
nỗ lực hơn nữa nhằm thực hiện có hiệu quả cùng lúc hai nhiệm vụ: Đáp ứng tốt nhu
cầu vốn cho nền kinh tế và bảo đảm an toàn hệ thống. Đối với NHNN Chi nhánh
Đăk Lăk, cần chú trọng hơn nữa đến chất lượng công tác kiểm tra, giám sát. Riêng
các tổ chức tín dụng, cần chủ động tham mưu với hội sở để có cơ chế, chính sách
phù hợp với đặc trưng của tỉnh Đăk Lăk; tăng cường công tác giáo dục cán bộ công
nhân viên trong đơn vị.[8]
2.2.3. Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Theo tạp chí Kinh tế (ngày 15/8/2008), Vụ Tín dụng – Ngân hàng Nhà nước
vừa cho biết, báo cáo mới nhất từ 6 Ngân hàng Thương mại Nhà nước, 31 Ngân
hàng Thương mại cổ phần, 33 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên
doanh cho biết, đến nay tổng số doanh nghiệp đang còn quan hệ tín dụng với ngân
19
hàng 163.673 doanh nghiệp, chiếm trên 50% số doanh nghiệp vừa và nhỏ với tổng
nguồn vốn kinh doanh là 482.092 tỷ.
Trong đó vốn tự có của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng là 36,25%, vốn vay
ngân hàng chiếm tỷ trọng 45,31%, còn lại vốn khác chiếm 18,44%. Vốn tự có bình
quân 1 doanh nghiệp đến 31/7/2008 là 1,33 tỷ đồng; bình quân vốn vay ngân hàng
của 1 doanh nghiệp là 1,79 tỷ đồng.
Vụ Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước) cũng cho biết, trong 7 tháng đầu năm
2008, doanh số cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM) đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ là 289.100 tỷ đồng. Trong đó, khối NHTM Nhà nước là 141.816

tỷ đồng chiếm 47,7%, khối NHTM cổ phần là 139.837 tỷ đồng chiếm 47,07%; khối
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 7.446 tỷ đồng, chiếm
2,5%.
Dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ đến 31/7/2008 của các ngân hàng
thương mại đạt 299.472 tỷ đồng (chiếm 27,3% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế),
tăng 16,65% so với 31/12/2007 và tăng 70,5% so với 31/12/2006. Trong đó cho vay
ngắn hạn chiếm 73,05%; cho vay trung dài hạn chiếm 26,95%.
Cụ thể, dư nợ trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 5,1%, lĩnh vực công nghiệp
và xây dựng chiếm 38,51%, lĩnh vực thương mại, dịch vụ 56,39% trên tổng dư nợ.
Các NHTM Nhà nước đi đầu trong việc cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đạt
dư nợ là 170.481 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 56,98%; tiếp đến là các NHTM cổ phần
với dư nợ đạt 120.936 tỷ đồng, chiếm 40,42% tổng dư nợ toàn ngành; các ngân
hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đạt dư nợ 8.053 tỷ đồng, chiếm
2,6%.
Theo thống kê, tỷ lệ nợ xấu cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của toàn hệ
thống là 3,64% (số tuyệt đối là 10.886 tỷ đồng), tăng 1% so với năm 2007 và giảm
0,19% so với năm 2006. Trong đó nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) là 4.064 tỷ
đồng, chiếm 37,3% tổng nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Cụ thể là: Tỷ lệ nợ xấu
của khối NHTM Nhà nước là 4,59%, NHTM cổ phần 2,44%, Ngân hàng liên doanh
và nước ngoài 1,45%.
20
Qua số liệu báo cáo từ các ngân hàng, trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ
hiện đang có quan hệ tín dụng với các NHTM nêu trên cho thấy 23% số doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả; 73,2% doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt
động trung bình và 3,8% doanh nghiệp gặp khó khăn trong đó có 1,42% doanh
nghiệp có khả năng mất vốn.
Mặc dù vậy, các NHTM đều coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là đối tượng khách
hàng tiềm năng của mình. Doanh số và dư nợ cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngành ngân hàng liên tục tăng qua các năm. Nhiều NHTM cổ phần đã tập trung
cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ lên tới trên 70% dự nợ, một số chi nhánh của

NHTM Nhà nước có dư nợ cho vay đạt trên 95%.
Do đó, tổng số doanh nghiệp đang còn quan hệ tín dụng với ngân hàng
163.673 doanh nghiệp (chiếm trên 50% số doanh nghiệp vừa và nhỏ) với tổng
nguồn vốn kinh doanh là 482.092 tỷ, trong đó vốn tự có chiếm tỷ trọng là 36,25%,
vốn vay ngân hàng chiếm tỷ trọng 45,31%, còn lại vốn khác chiếm 18,44%.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn được xem là đối tượng khách hàng tiềm năng
của các ngân hàng TMCP. Theo khảo sát của Ngân hàng TMCP An Bình
(ABBANK), hiện có đến 74,4% doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn về thủ tục
và tài sản đảm bảo khi vay vốn, 30% gặp khó khăn về hạn mức và thẩm định giá
Về phía ngân hàng, ông Nguyễn Đình Tùng – Phó tổng giám đốc Ngân hàng TMCP
Quốc tế cho biết: “Các ngân hàng cũng gặp khó khăn trong quá trình xét duyệt hồ
sơ vay vốn. Đa số hồ sơ vay của các DN vừa và nhỏ thiếu thông tin về tình hình tài
chính, hoạt động kinh doanh…”.
Cố gắng đi tìm tiếng nói chung, các ngân hàng ngày càng tạo nhiều thuận lợi
cho DN. ABBANK vừa dành ra hạn mức tín dụng 1.500 tỉ đồng để cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ vay. ABBANK cũng khởi xướng áp dụng lãi suất cho vay tối đa
chỉ bằng 95% lãi suất cho vay cùng kỳ hạn bình quân của các ngân hàng TMCP
khác. ABBANK cho vay 80% giá trị tài sản thế chấp nếu doanh nghiệp vừa và nhỏ
thế chấp bằng bất động sản; 65% giá trị tài sản đảm bảo khi thế chấp bằng động sản.
Ông Phạm Quốc Thanh – Phó tổng giám đốc ABBANK cho biết, ngân hàng còn đa
dạng các tài sản đảm bảo để phù hợp với các loại hình hoạt động của doanh nghiệp
21
vừa và nhỏ. Đặc biệt, ngân hàng thanh giản tối đa những thủ tục xét duyệt, thẩm
định, giải ngân… nhằm giảm thời gian giải quyết hồ sơ xuống 3 ngày kể từ ngày
nhận đầy đủ hồ sơ. Ông Nguyễn Đình Tùng cũng cho hay: “Ngoài việc giải quyết
hồ sơ vay nhanh chóng từ 3 – 5 ngày để giúp doanh nghiệp không bị lỡ cơ hội kinh
doanh, VIB Bank chủ động nghiên cứu ngành nghề, tập quán kinh doanh, khó khăn
và nhu cầu của doanh nghiệp để thiết kế những sản phẩm phù hợp. Hơn nữa, VIB
Bank có quy chế xếp hạng mức tín nhiệm doanh nghiệp ngay từ khi doanh nghiệp
mới giao dịch để từ đó có những chính sách ưu đãi lãi suất”.

Một ngân hàng nước ngoài là Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải Việt
Nam (HSBC) cũng triển khai dịch vụ thấu chi hoặc hạn mức tín dụng ngắn hạn để
tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Đối với hình thức thấu chi, tiền lãi tính
trên số tiền đã giải ngân và tính lãi theo ngày, thanh toán bằng việc ghi có vào tài
khoản vãng lai. Còn đối với dịch vụ hạn mức tín dụng ngắn hạn, doanh nghiệp có
thể vay từ 1 tuần đến 12 tháng, trả lãi hằng tháng…
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) vừa phối hợp với Ban Thư ký Nhà nước
về các vấn đề kinh tế của Thụy Sĩ (SECO) triển khai chương trình bảo lãnh tín dụng
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ Quỹ Tín dụng xanh (SMESC). Chương trình
nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn đầu tư nâng cấp và mở rộng hoạt động
sản xuất nhưng thiếu tài sản đảm bảo, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào công nghệ giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ
vay vốn từ 25.000 – 1.000.000 USD hoặc tiền đồng với giá trị tương đương. Sau khi
đầu tư, doanh nghiệp sẽ được hoàn lại 25% giá trị khoản vay nếu mức độ cải thiện
môi trường từ 50% trở lên; 15% giá trị khoản vay cho mức độ cải thiện môi trường
từ 30% đến dưới 50%. [8]
22
PHẦN THỨ BA
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh
Đăk Lăk
3.1.1. Qúa trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam chi nhánh Đăk Lăk
Xuất phát trước tình hình thực tế của tỉnh Đăk Lăk, là tỉnh có diện tích rộng
19.800km
2
, có tiềm năng lớn về sản xuất cây công nghiệp dài ngày đặc biệt là cây
cà phê và cây cao su. Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp là rất lớn, vốn tín dụng cho vay nền kinh tế không ngừng tăng
trưởng qua các năm và cho đến cuối năm 1998 trên địa bàn tỉnh đã có 3 chi nhánh

23
Ngân hàng thương mại quốc doanh và hai chi nhánh NHTMCP đang hoạt động với
số dư nợ cho vay đạt trên dưới 2000 tỷ đồng. Song cũng mới chỉ đáp ứng được
một phần cơ bản nhu cầu vốn cần thiết cho yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh
trên địa bàn tỉnh.
Nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động cũng như tạo điều kiện giúp địa phương
có thêm điều kiện về vốn hoạt động để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế. Sau
quá trình khảo sát tình hình thực tế, được sự nhất trí của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh
HĐQT-NHCT1 ngày 12/02/1999 thành lập chi nhánh Ngân hàng Công thương
Đăk Lăk theo quyết định của số 021/QĐ- HĐQT- NHCT1 của chủ tịch HĐQT
Ngân hàng Công thương Việt Nam .
Là chi nhánh của Ngân hàng thương mại quốc doanh ra đời trong thời kì giá
cà phê và các mặt hàng nông sản khác liên tục sụt giảm, tình hình sản xuất kinh
doanh của các thành phần kinh tế và dân cư tại địa phương hết sức khó khăn hoạt
động của Ngân hàng Công Thương Đăk Lăk không hề thuận lợi, việc huy động
vốn tại địa phương khó khăn, tỷ lệ nợ quá hạn cao .
Trước thực tế đó lãnh đạo của chi nhánh đã tìm mọi biện pháp để tháo gỡ kịp
thời khó khăn như : tiếp tục cho vay đầu tư chăm sóc cây cà phê, cho vay thu mua
xuất khẩu đối với những đơn vị có khả năng khắc phục; thành lập ban thu nợ quá
hạn để tạo thuận lợi cho việc phân tích, phân loại nợ và có biện pháp thu hồi phù
hợp. Với cách làm này, chi nhánh đã giúp nhiều khách hàng vượt qua khó khăn,
từng bước làm ăn có lãi và thanh toán được vốn vay cho chi nhánh.
Từ nền tảng đó, chi nhánh đề ra phương châm “Phát triển an toàn và hiệu
quả” bằng cách tiếp tục đổi mới phong cách giao dịch, nhiệt tình với khách hàng,
coi công việc của khách hàng là của mình, thành công của khách hàng cũng chính
là thành công của mình. Chi nhánh còn tích cực chuyển hướng hoạt động kinh
doanh, từng bước cơ cấu lại dư nợ tín dụng, tăng dần tỉ trọng cho vay trung và dài
hạn, mở rộng đối tượng cho vay là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, cho
vay tiêu dùng, cho vay các dự án lớn như thủy điện, xe buýt, khách sạn …
Xác định được tầm quan trọng của việc huy động vốn, chi nhánh đã chủ

động tìm biện pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế và
24
trong dân cư như: Tăng cường công tác tiếp thị, mở rộng các sản phẩm dịch vụ
hợp tác liên kết với các đơn vị nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài.
Tên giao dịch là: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam Chi nhánh Đăk
Lăk
Tên viết tắt: Vietinbank Đăk Lăk.
Trụ sở chính tại: 35 Nguyễn Tất Thành, TP Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk.
Qua hơn 10 năm thành lập và phát triển, khoảng thời gian chưa phải là dài
nhưng cũng đủ để thấy một ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Đăk Lăk
tăng trưởng mạnh mẽ và vững chắc, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn tỉnh nhà. [7]
3.1.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
chi nhánh Đăk Lăk
Sơ đồ 3.1: Bộ máy tổ chức của Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh
Đăk Lăk

25
GIÁM ĐỐC
Kiểm tra -
Kiểm toán nội
bộ
PGĐ phụ trách
kinh doanh
PGĐ phụ
trách KT-KQ

×