Tải bản đầy đủ (.ppt) (31 trang)

Năng lực tiến hóa của tổ chức dân cư và cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.61 KB, 31 trang )

NĂNG LỰC TIẾN HÓA CỦA TỔ CHỨC
DÂN CƯ VÀ CỘNG ĐỒNG

GVHD: THẦY NGUYỄN HỮU LAM
Hvth HVTH: Nhóm 8
1.Nguyễn Kim Nam
2.Võ Văn Thủ
3.Lê Hùng Tú
1
NĂNG LỰC TIẾN HÓA CỦA TỔ CHỨC
DÂN CƯ VÀ CỘNG ĐỒNG

Giới thiệu

Năng động tiến hóa của những tổ chức

Sự Phân cấp Kép của Sự Tiến hóa tổ chức

Những thực thể Sinh thái và Phả hệ

Sự Tương tác và những quá trình Bản sao

Những quá trình VSR

Bên trong và quá trình xử lý cấp độ chéo

Những sự tương tác Sinh thái và Phả hệ

Năng động Tiến hóa Vi mô của những tổ chức dân cư

Sự Biến đổi: Những phong cảnh phích hợp với sự Khám


phá tổ chức
2
NĂNG LỰC TIẾN HÓA CỦA TỔ CHỨC
DÂN CƯ VÀ CỘNG ĐỒNG

Những nguồn tổ chức bên trong của sự biến đổi tổ
chức

Tính năng động tiến hóa vĩ mô của Tổ chức cộng đồng

Xác định tổ chức cộng đồng

Cơ cấu tổ chức cộng đồng

Hãy cẩn thận về cộng đồng

Biến thể: Doanh nhân và các hình thức tổ chức mới

Mô phỏng và sáng tạo Doanh nhân

Lựa chọn: Cơ hội nghề nghiệp sinh thái

Tổn hại cộng đồng
GIỚI THIỆU

Khả năng của xã hội để trả lời các vấn đề xã hội có thể là các quyết
định đến tính đa dạng của các dạng tổ chức, trong 1 khoảng thòi gian
dài, môi trường năng động, đa dạng được gìn giữ hoặc tăng lên bởi
những dạng mới. Hơn nữa, những dạng (mẫu) mới là động cơ sống
còn của sự tiến hóa tổ chức. Thực vậy, một thành phần quan trọng của

sự thay đổi tổ chức, ở mức vỹ mô gồm có sự chọn lọc và sự thay thế
của những dạng tổ chức hiện hữu bởi tổ chức dạng tổ chức mới. Hơn
nữa, từ những dạng tổ chức mới này thì những hiện thân cấu trúc của
những công nghệ, lòng tin, giá trị, và những khuôn mẫu, nẩy sinh
những sự chuyển động xã hội trong những cơ quan mới, những công
nghệ mới với sự trợ giúp để nuôi dưỡng và phản chiếu văn hóa và
thay đổi kỹ thuật trong xã hội. Vì những lý do này, đâu là những dạng tổ
chức mới là một câu hỏi chính được đặt ra của những lý thuyết gia tổ
chức.
4
GIỚI THIỆU(TT)

Những dạng tổ chức mới là những tái hợp mới của những mục đích, những
quan hệ nhà chức trách (bao gồm những cấu trúc quản trị), công nghệ và thị
trường khách hàng. Sự tiến hóa của các dạng tổ chức mới tạo ra những
không gian tài nguyên mới bởi những đặc trưng của cuộc thí sáng tạo trong
số những tổ chức và những doanh nhân đã có. Nó bắt đầu với sự tăng
nhanh từng phần của những biến đổi bên trong tồn tại của dân cư và cuối
cùng là chỉ dẫn tới một tổ chức tạo ra suy nghĩ có tính chất đổi mới , vượt
qua những dạng đã có để thiết lập cái mới. Dạng tổ chức mới làm đông lại
như là kết quả của 1 tiến trình cô lập hoặc tách ra từ 1 tổ chức khác, bao
gồm kỹ thuật những tính không phù hợp, những hoạt động cơ quan như là
điều chỉnh của chính phủ và imprinting. Sự nổi lên của những dạng tổ chức
mới là một nguồn thiết yếu của sự biến đổi tổ chức, đóng một vai trò sống
còn trong sự tạo thành tính đa dạng tổ chức.
5
Năng động tiến hóa của những tổ chức

Sự tiến hóa tổ chức có thể là 1 khái niệm như tác động lẫn nhau giữa
hai loại quá trình, sự tương tác và bản sao, hành động theo hai cách

của những thực thể, sinh thái và phả hệ, ở mức đa dạng của tổ chức
(Baum and Singh, 1994a). Sự chuyển qua những thực thể phả hệ ,
phần lớn thông tin của họ không hề sứt mẻ trong những bản sao liên
tiếp. Những thực thể sinh thái, phụ thuộc kết cấu và những biểu lộ theo
hành vi của những thực thể phả hệ tương tác với môi trường, và sự
tương tác này gây ra bản sao khác. ''Sự tiến hóa tổ chức là kết quả của
sự sao chép những thực thể phả hệ, tương tác của thực thể sinh thái
và kết quả của những sự tương tác này có khác biệt nhỏ so với những
thực thể phả hệ mà họ sản sinh” (Baum and Singh, 1994a, p. 4).
6
Sự Phân cấp Kép của Sự Tiến hóa tổ
chức

Sự tiến hóa tổ chức thì được cảm nhận thường xuyên tới
nhiều thứ bậc phân cấp đa dạng . Những sự phân cấp liên
quan của sự tiến hóa tổ chức thì bao hàm, với vệc hình
thành bên trong tổ chức khác. Toàn bộ được bao gồm
những phần cấp độ thấp của tổ chức và toàn bộ rộng lớn
hơn. Tổ chức cộng đồng, ví dụ, được bao gồm những dạng
tổ chức dân cư, những tổ chức tự thân hợp thành, v.v Sự
lồng nhau của những thực thể vào trong những thực thể
lớn hơn ở một thứ bậc cao tạo ra những tổ chức là một hệ
thống thứ bậc. Mỗi mức cấu thành của “một nút chọn lọc”
của những thực thể tổ chức nào cũng được giữ hay loại trừ
(Baum and Singh, 1994a; ampbell, 1974, 1994).
7
Những thực thể Sinh thái và Phả hệ

Những dạng thực thể này thành lập những mức khác nhau hai bao
hàm cả những sự phân cấp, phả hệ và sinh thái được tổng kết trong

bảng 8.1 (Baum và Singh, 1994 a). Sự phân cấp phả hệ là dạng được
thành lập bởi những thành phần của kí ức hoạt động cơ quan được
bảo tồn và phân phối sản xuất và thông tin tổ chức. Nó được bao gồm
những dòng, những thực thể bền vững theo thời gian thông qua bản
sao trong cùng 1 trạng thái tương tự. Sự phân cấp sinh thái phản chiếu
cơ cấu kinh tế và sự hợp nhất (thí dụ, sự trao đổi tài nguyên và sự biến
đổi) của những hệ thống tổ chức. Nó được bao gồm những thực thể
lâu đời, kết quả tác dụng tích lũy của sự biến đổi , sự chọn lọc trong
thời gian, và kết cấu, hành vi biểu lộ của những thực thể lớp phả hệ.
8
Sự Tương tác và những quá trình Bản
sao

Hai lớp của những quá trình, sự tương tác và bản sao phân biệt những
sự phân cấp sinh thái và phả hệ tương ứng (Baum and Singh, 1994a).
Những quá trình trong sự phân cấp sinh thái liên quan với những sự
tương tác lẫn nhau giữa những thực thể sinh thái tại cùng mức (của) tổ
chức ( chẳng hạn., giữa những tổ chức bên trong những dân cư, và
những dân cư bên trong những cộng đồng) đó là mối kết nối tới những
sự trao đổi nguồn lực đưa tới những thực thể sinh thái. Tính chất xã
hội, kỹ thuật, và những điều kiện môi trường kinh tế ngoại cảnh kinh tế
mạnh mẽ được bao hàm trong những mẫu liên tục tổ chức và sự thay
đổi tạo tiến hóa tổ chức xuyên qua ảnh hưởng của họ trên những thực
thể sinh thái, và bằng việc hình thành các mức bộ phận của sự phân
cấp sinh thái tại hệ sinh thái.
9
Những quá trình VSR

Sự Tiến hóa của tất cả những mức độ này của tổ chức
phản chiếu điều hành của ba quá trình cơ bản: sự biến đổi,

sự chọn lọc và sự duy trì, hay VSR (Aldrich, 1979, 1999;
McKelvey, 1982, 1997). Quan niệm về sự thay đổi này
được bắt nguồn từ Campbell (1965) mục (bài báo) dịch,
dựa trên một tính tương tự giữa sự chọn tự nhiên trong sự
tiến hóa và sự truyền lan có chọn lọc sinh học của những
dạng văn hóa' ( Campbell, 1965, P. 26). Ba phần tử chìa
khóa mô hình của Campbell ( P. 27) là:
10
Những quá trình VSR (TT)

1. Biến cố của những sự biến đổi: Hỗn tạp, sự tình cờ, mù, cơ hội, sự
ngẫu nhiên nhưng trong bất kỳ sự kiện nào.(Quá trình thay đổi trong
tiến hóa hữu cơ, và những sự đáp lại khám phá trong học tập).

2. Tiêu chuẩn chọn lọc đảm bào: sự loại bỏ có chọn lọc, sự truyền lan
có chọn lọc, sự duy trì có chọn lọc của những kiểu nhất định trong
những biến đổi. (Vi phân tồn tại của những sinh vật đột biến nhất định
trong sự tiến hóa hữu cơ, sự tăng cường vi phân của những sự đáp lại
nhất định trong học tập)

3. Một cơ chế cho sự bảo tồn, sự sao lại hay sự truyền lan những
phương án xác thực được chọn. (Quá trình sao lại cứng ngắt của hệ
thống nhiễm sắc thể/ Gen trong những cây và những động vật, kí ức
trong học tập)
11
Bên trong và quá trình xử lý cấp độ chéo

Những quá trình bên trong mỗi mức của phân cấp ( chẳng
hạn., sáng kiến, bản sao, cuộc thi), khi đứng một mình thì
từng cái cấu thành chỉ có một phần tử của toàn bộ quá trình

tiến hóa. Tuy nhiên. ở đó cũng có những hiệu ứng tương
tác mức bên trong mỗi sự phân cấp. Sự tiến hóa tổ chức
trên tất cả là một sản phẩm của những sự tương tác bị
ghép. Mặc dù có một sự tự trị của sự kiện và quá trình bên
trong từng thứ bậc và mỗi mức được vận hành hầu như là
độc lập như một hệ thống VSR động , ở đó cũng có cả
hướng lên lẫn xuống (xuôi) ( Campbell, 1974, 1990). những
quá trình của các loại giới hạn những mức tương tác qua
lại thì xảy ra ngang mức điều chỉnh.
12
Bên trong và quá trình xử lý cấp độ chéo

Những người cấu thành, và hành động bởi những tổ chức
và những sự tương tác trong số những tổ chức đó. Sự hiểu
biết của họ, lòng tin , và những thái độ phù hợp, những tổ
chức giúp đỡ tạo dáng cho những quyết định từ đó những
tổ chức được thành lập. Những quyết định này (những biến
đổi) được đưa vào trong dân cư, ở mức bậc cao. Nơi chọn
lọc, sự lạc dòng ngẫu nhiên và tinh thần kinh doanh được
năng động lấy lại. Nói chung, ngụ ý điều đó nói, tại mỗi
mức, những đặc tính bền bỉ của mức trước đây ép buộc
làm nẩy sinh ở mức tiếp theo.
13
Năng động Tiến hóa Vi mô của những
tổ chức dân cư

Trong khung phân cấp kép, đó là những sự tương tác giữa
những sự phân cấp sinh thái và phả hệ là hợp nhất tất cả các
thực thể tham gia trong quá trình tiến hóa tổ chức. Những
phần tử của hai tương tác phân cấp này, điều chỉnh sự thay

đổi bên trong lẫn nhau và như những sản phẩm phụ tạo nên
những mẫu và những sự kiện tiến hóa tổ chức: sự liên tục và
sự cải biến của thực thể gồm có những sự phân cấp sinh thái
và phả hệ (Baum and Singh, 1994a).
14
Những sự tương tác Sinh thái và Phả hệ

Trong khung phân cấp kép, đó là những sự tương tác giữa
những sự phân cấp sinh thái và phả hệ là hợp nhất tất cả
các thực thể tham gia trong quá trình tiến hóa tổ chức.
Những phần tử của hai tương tác phân cấp này, điều chỉnh
sự thay đổi bên trong lẫn nhau và như những sản phẩm
phụ tạo nên những mẫu và những sự kiện tiến hóa tổ chức:
sự liên tục và sự cải biến của thực thể gồm có những sự
phân cấp sinh thái và phả hệ (Baum and Singh, 1994a).
Những nguồn tổ chức bên trong của
sự biến đổi tổ chức

Đa số những tổ chức mới cấu thành những bản sao - Với sự biến đổi -
của những dạng tổ chức hiện hữu ( Aldrich và Kenworthy, 1999). Như
vậy, những đúc kết những quá trình tiến hóa vi mô mà sản sinh sự liên
tục và thay đổi bên trong những dòng của tổ chức đã thiết lập dạng tổ
chức. Trong dịp này, một tổ chức đúc kết, sản phẩm của nó có tính chất
đổi sáng kiến điều hành, sự thoát ra khỏi dạng đã thiết lập để tạo ra
một cái gì mới (thí dụ, ''speciates''). Sự xuất hiện của những dạng là
miền của đại tiến hóa. Sự hiện ra và đặc tính của những dạng hình
thành tổ chức mới bởi cả hai cơ hội để tạo ra nguồn lực không gian
mới ( Hannan và Freeman, 1989; Schumpeter, 1934) và những đặc
trưng và sáng tạo trong các cuộc thi, tồn tại những tổ chức và những
doanh nhân (Lumsden Và Singh, 1990). Tổ chức dạng mới đại diện cho

những sự tái hợp mới của những đặc tính tổ chức cốt lõi ( Cry out và
Singh, 1999), bao gồm :
16
Năng độngTiến hóa Vi mô của những
tổ chức dân cư

Đa số những tổ chức mới cấu thành những bản sao - Với sự biến đổi -
của những dạng tổ chức hiện hữu ( Aldrich và Kenworthy, 1999). Như
vậy, những đúc kết những quá trình tiến hóa vi mô mà sản sinh sự liên
tục và thay đổi bên trong những dòng của tổ chức đã thiết lập dạng tổ
chức. Trong dịp này, một tổ chức đúc kết, sản phẩm của nó có tính chất
đổi sáng kiến điều hành, sự thoát ra khỏi dạng đã thiết lập để tạo ra
một cái gì mới (thí dụ, ''speciates''). Sự xuất hiện của những dạng là
miền của đại tiến hóa. Sự hiện ra và đặc tính của những dạng hình
thành tổ chức mới bởi cả hai cơ hội để tạo ra nguồn lực không gian
mới ( Hannan và Freeman, 1989; Schumpeter, 1934) và những đặc
trưng và sáng tạo trong các cuộc thi, tồn tại những tổ chức và những
doanh nhân (Lumsden Và Singh, 1990). Tổ chức dạng mới đại diện cho
những sự tái hợp mới của những đặc tính tổ chức cốt lõi ( Cry out và
Singh, 1999), bao gồm :
Năng độngTiến hóa Vi mô của những
tổ chức dân cư

Những mục đích - Cơ sở dựa trên sự phù hợp và những nguồn lực
được huy động khác ( bao gồm phi lợi nhuận, lợi nhuận, hợp tác, tôn
giáo, và những định hướng từ thiện);

Những quan hệ Nhà chức trách - Cơ sở của sự trao đổi bên trong tổ
chức và giữa tổ chức và những thành viên của nó ( bao gồm những
cấu trúc cai trị, chẳng hạn., thị trường, sự phân cấp và thị tộc);


Công nghệ Lõi - Như lập mã trong đầu tư vốn, cơ sở hạ tầng, và những
kỹ năng và kiến thức của những người làm thuê;

Chiến lược thị trường - Những loài của những khách hàng hay những
khách hàng tới những tổ chức ở các nước phương đông sản xuất nó,
và cách thu hút những nguôn lực từ môi trường.
Sự Biến đổi: Những phong cảnh phích
hợp với sự Khám phá tổ chức

Những biến đổi tổ chức là kết quả của hành vi con người. Bất kỳ loại thay đổi
nào, định trước hay mù, đều là sự biến đổi. Những cá nhân cố ý sản sinh biến
đổi, ví dụ, kỹ thuật viên và tình trạng đầy đủ quản lý trong những nỗ lực của họ
để điều chỉnh mối quan hệ tổ chức tới môi trường. Những biến đổi mù, trong sự
tương phản thì ngẫu nhiên, sản phẩm của cơ hội, may mắn hay sản phẩm bất
ngờ của cuộc khám phá sáng tạo. Đa số những biến đổi thì nhỏ, phục vụ chủ
yếu để ghi nhớ mãi thứ tự tồn tại hơn là đổi chỗ nó. Tổ chức những sự biến đổi
cung cấp nguyên liệu từ đó việc chọn lọc có thể thực hiện được. Một số biến
đổi tỏ ra có lợi đối với những tổ chức so với những cái khác việc kiếm được
những tài nguyên trong một môi trường cạnh tranh và như vậy xác thực không
phải bởi môi trường vô định nào đó nhưng bởi những giám đốc bên trong
những tổ chức và những nhà đầu tư, những khách hàng và những người điều
chỉnh chính phủ (McKelvey, 1994; Meyer, 1994a; Miner, 1994).
Những nguồn tổ chức bên trong của
sự biến đổi tổ chức

Ở trung tâm điểm bền vững của những vấn đề phối hợp và
điều khiển lý thuyết tổ chức là một di chúc tới cái chung của
sự biến đổi bên trong những tổ chức (Aldrich,1999). Những
ý tưởng mới - Những sự biến đổi - Nẩy sinh mọi thứ định

giờ và được thử ở ngoài như một kết quả của sự sáng tạo
cũng như những lỗi của những thành viên dễ mắc lỗi trong
1 tổ chức. Những thành viên tổ chức quên tiêu chuẩn
20
Tính năng động tiến hóa vĩ mô của Tổ
chức cộng đồng

Bây giờ chúng ta đã khám phá VSR vi tiến hóa quá trình hình thành và
kiên trì chuyển đổi qua thời gian trong một hình thức tổ chức hiện có,
chúng tôi đã sẵn sàng để bắt đầu kiểm tra của chúng ta về tiến hóa lớn
VSR quy trình thông qua đó mới hình thức tổ chức phát sinh, và đáng
kể những thách thức gắn với thành lập của họ. Điều này đòi hỏi chúng
ta chuyển từ cấp độ dân số suy nghĩ cấp cho cộng đồng suy nghĩ.
Cộng đồng sinh thái kiểm tra cách thức mà tương tự và không tương tự
quần tương tác đặc biệt để tham dự các cách thức mà họ phát triển các
hình thức tập thể thích ứng với môi trường (Hawley, 1950) và sự nổi lên
các loại mới của hình thức tổ chức. Nó chỉ là ở mức này là việc tạo ra
các quần thể mới và sự xói mòn của ranh giới của quần thể hiện tại có
thể được quan sát.
Xác định tổ chức cộng đồng

An dân tổ chức xây dựng xung quanh một tổ chức hình thức phát triển
mối quan hệ với khác quần thể tham gia vào các hoạt động khác,
nhưng liên quan đến một kỹ thuật hoặc tổ chức phổ biến cốt lõi, đó là
ràng buộc chúng thành các cộng đồng tổ chức (Aldrich, 1999; Astley,
1985; Fombrun, 1986; Hannan và Freeman, 1989). Một hình thức tổ
chức điển hình tương tác với nhiều loại khác nhau của các tổ chức.
Chúng bao gồm các tiểu bang và ngành nghề mà điều tiết và giám sát
hoạt động của tổ chức, trường học đào tạo tiềm năng nhân viên, nhà
cung cấp vật chất kỹ thuật đầu vào, sản xuất tương tự và có liên quan

(bổ sung và cạnh tranh) sản phẩm và dịch vụ, và người tiêu dùng của
các sản phẩm và dịch vụ (Baum và Korn, 1994; Scott, Ruef, Mendel, và
Caronna, 2000).
Cơ cấu tổ chức cộng đồng

Tổ chức cộng đồng do đó nổi lên như bộ quần thể trở thành
liên kết với nhau bởi Hội sinh và cộng sinh, và những mối
liên kết ngày càng trở nên yếu tố quyết định quan trọng của
kết quả cho các thành viên của người dân mà bao gồm các
cộng đồng. Hiểu biết về cấu trúc của các mối quan hệ, trong
đó xác định bối cảnh cộng đồng, là một bước rất quan trọng
trong sự hiểu biết quá trình chỉnh sự xuất hiện và lựa chọn
hình thức tổ chức mới: như cộng đồng tổ chức phát triển,
cộng đồng cơ cấu thay đổi, thay đổi các cơ hội môi trường
và khó khăn phải đối mặt với các doanh nhân tiềm năng.
Hãy cẩn thận về cộng đồng

Ba cảnh cáo là để ở đây để tránh nhầm lẫn suy luận về cấu trúc cộng
đồng cấp tổ chức và tiến hóa. Trước tiên, các cuộc thảo luận của tổ
chức cộng đồng thường được đánh đồng cấp tổ chức chức năng với
bằng chứng về tương tác mạnh sinh thái năng động và cân bằng. Tuy
nhiên, các tính năng này là tài sản của nhiều chất hóa học, vật lý, sinh
học, và hệ thống xã hội, và họ không bao hàm chức năng tổ chức. An
dân số tổ chức có thể có một mang năng lực, bất kể nó quản lý hay
khai thác hơn tài nguyên của nó. Ngay cả những hoạt động khác
thường nhất cộng đồng có thể được ổn định, đáp ứng theo những cách
mà chống sự lo lắng-sự ổn định ở mức độ cộng đồng xảy ra khi hệ
thống tổng thể của liên dân số tương tác được đặc trưng bởi phản hồi
tiêu cực (Puccia và Levins, 1985). Nói chung thực tế, đó tổ chức quần
thể có tác động mạnh mẽ trên mỗi khác và đối với môi trường không

nên nhầm lẫn với chức năng tổ chức cấp trên.
Hãy cẩn thận về cộng đồng

Thứ hai, mặc dù chắc chắn đóng thuyết hổ trợ vai trò quan trọng trong
cộng đồng cấp chức năng tổ chức, và có thể được phổ biến hơn trong
chức năng hơn so với các cộng đồng rối loạn chức năng tổ chức, các
tỷ lệ tương tác trong một cộng đồng được lẫn nhau nói chút ít về tổ
chức chức năng của nó. Chức năng cộng đồng cấp tổ chức có thể liên
quan đến cạnh tranh và ăn thịt ngoài thuyết hổ trợ. Thật vậy, thuyết hổ
trợ là một sản phẩm phụ không thể tránh khỏi các hiệu ứng gián tiếp,
mà sẽ tồn tại ngay cả trong đánh giá cao cộng đồng rối loạn chức năng
(Baum và Korn, 1994) 0,10 Cộng đồng cấp chức năng tổ chức phải
được nghiên cứu bằng cách điều tra các tài sản đó góp phần thiết kế
chức năng. Cho dù chức năng tài sản được tạo ra bởi lẫn nhau hoặc
cạnh tranh tương tác giữa các thành viên của cộng đồng là một vấn đề
thứ cấp.

×