Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Luận văn Đề tài chính sách bảo hộ hàng nội của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.27 KB, 12 trang )

LUẬN VĂN
ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HÀNG NỘI
CỦA VIỆT NAM


Thành phố Hồ Chí Minh
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường hàng hoá nội địa của Việt Nam những năm gần gặp phải không ít khó
khăn khi cạnh tranh với các mặt hàng nước ngoài. Đặc biệt khi Việt Nam mở cửa cho đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam cũng như ký kết các cam kết khi gia nhập các tổ chức quốc
tế. Ngoài những thuận lợi đạt được thì bên cạnh đó hàng nội đang rất nhiều khó khăn
trong sự cạnh tranh khắc nghiệt, đặc biệt khi gia nhập WTO. Hàng nội hơn bao giờ hết
cần sự quan tâm và đầu tư của chính phủ để có thể sống sót qua thời gian quá độ này.
Nếu chính phủ không đẩy mạnh, không xúc tiến năng nổ các chính sách bộ hộ hàng nội
địa thì chẳng bao lâu thị trường Việt Nam sẽ chỉ tràn đầy hàng ngoại nhập. Cùng với việc
đó là nên kinh tế Việt Nam dù gia nhập WTO cũng chỉ là bước lùi, sẽ hoà tan trong nền
tự do thương mại này.
Việt Nam cần phải thấy rõ tầm quan trọng trong việc đưa ra các chính sách bảo hộ
chính xác để hàng nội vượt qua thời kỳ khó khăn này thì sau này sẽ đúc kết ra được
những thương hiệu Việt Nam có thể vươn đến tầm quốc tế. Phải bảo hộ để có thể đứng
vững, để có thể xây dựng thương hiệu cũng như uy tín của Việt Nam trên thương trường
thế giới khi gia nhập WTO. Gia nhập WTO rõ ràng sẽ có rất nhiều lợi nhưng cũng rất
nhiều thách thức. Và việc bảo hộ là một trong hành động thiết thực và cấp thiết để Việt
Nam có thể vượt qua thách thức và đạt đến hành công.
Do đó nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo hộ hàng nội địa sẽ ảnh hưởng
thế nào đến nền kinh tế Việt Nam sau này nên đã chọn vấn đề này để phân tích, tìm hiểu
sâu thêm. Từ đó có cái nhìn xa hơn và sâu hơn về nên kinh tế đang hội nhập của Việt
Nam.
I. HIỆN TRẠNG HÀNG NỘI SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO:
Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào đầu năm 2007. Ngoài những lợi ích mà


Việt Nam đạt được khi gia nhập như mở rộng thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài,
được giảm thuế nhập khẩu hàng nội địa sang các nước khác… Đồng thời chúng ta phải
đối mặt với những khó khăn rất lớn về mạnh cạnh tranh hàng hoá trong nước, cũng như
việc ràng buộc cam kết mở cửa thị trường song song với việc cắt giảm thuế quan;chính
sách giá cả minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các quy định của WTO;
giảm hoặc điều chỉnh lại thuế xuất khẩu đối với một số hàng hóa; không áp dụng trợ cấp
xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập; duy trì hỗ trợ nông nghiệp trong nước
ở mức không quá 10% giá trị sản lượng; bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp công nghiệp bị
cấm từ thời điểm gia nhập.
Ở đây ta chỉ phân tích chủ yếu về việc cắt giảm thuế quan và bình đẳng đối xử
giữa các mặt hàng đang tồn tại trên thị trường. Đây là một bất lợi rất lớn đối với Việt
Nam, vì chất lượng hàng nội của chúng ta còn non nớt không đủ sức để cạnh tranh với
mẫu mã cũng như chất lượng của hàng nước ngoài. Khi gia nhập WTO cũng đồng nghĩa
với việc ta mở cửa cho hàng ngoại ồ ạt tràn vào Việt Nam khi cắt giảm thuế nhập khẩu,
cũng như không còn sự ưu đãi đặc biệt nào từ chính phủ đối với hàng nội. Nên dẫn đến
việc tất yếu là rất nhiều doanh nghiệp đang đối mặt với việc phá sản và hàng nội đang
kêu cứu.
Trước khi gia nhập WTO, ta có thể áp dụng các chính sách ngăn chặn sự bành
trướng của hàng ngoại ở Việt Nam như việc thực hiện thuế nhập khẩu và các hàng rào
phi thuế quan.
Thuế nhập khẩu là loại thế của một quốc gia đánh vào hàng hóa có nguồn gốc
từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được dùng với mục đích điều
tiết sự nhập khẩu các mặt hàng nước ngoài bằng cách tăng hoặc giảm thuế nhập khẩu
theo mục đích của nhà nước. Đồng thời cũng là biện pháp chống lại các hành vi phá
giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới mức giá chung
của thị trường. Cũng như bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, bảo vệ các ngành
công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh sòng phẳng
trên thị trường quốc tế.
Tiếp theo là các hàng rào phi thuế quan. Gồm có các biện pháp hạn chế định
lượng, các biện pháp tương đương thuế quan, các rào cản kỹ thuật, các biện pháp liên

quan đến đầu tư nước ngoài, các biện pháp quản lý hành chính, các biện pháp bảo vệ
thương mại tạm thời. Những biện pháp này cũng với thuế nhập khẩu vừa hạn chế sự nhập
khẩu hàng nước ngoài vào nội địa vừa bảo hộ hàng hoá trong nước tránh được sự cạnh
tranh khốc liệt.
Tuy nhiên khi gia nhập vào WTO với những ràng buộc cam kết thì hai hình thức
bảo hộ này sẽ dần bị gỡ bỏ hay nói cách khác là không còn được sử dụng rộng rãi nữa.
Đồng nghĩa với phải giảm thuế quan với hàng loạt mặt hàng nước ngoài nhập vào nội địa,
cùng với việc đối đãi hàng nội và hàng ngoại bình đẳng để thực hiện tiêu chí của WTO là
“tự do thương mại”. “Tự do tương mại” ở đây có nghĩa là không còn rào cản đối với bất
kỳ mặt hàng nào giữa các nước nước thành viên WTO. Điều này dẫn đến hiện trạng hàng
nội đang bị đe doạ lất lướt và cần sự bảo hộ của chính phủ. Do nhu cầu cấp thiết này
chính phủ không thể không tiến hành các chính sách cụ thể để giúp hàng nội địa tồn tại
và có đủ sức để tồn tại trong hàng loạt hàng ngoại nhập tốt hơn cả về chất lượng và hình
thức.
II. NỘI DUNG CÁC CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HÀNG NỘI ĐỊA:
Để giải quyết tình trạng khó khăn hiện tại của hàng nội địa, chính phủ đã đưa ra
những chính sách phù hợp nhất cho từng mặt hàng, đồng thời không vi phạm những cam
kết đã ký với các tổ chức quốc tế đặc biệt là với WTO. Trong các chính sách đó nổi trội
nhất là 6 chính sách sau: ba công cụ quan trọng được sử dụng như rào cản thương mại
(chống phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đặc biệt); giảm thuế nguyên liệu sản xuất; phát triển
công nghiệp để thay thế hàng nhập khẩu; hỗ trợ vay vốn cho doanh nghiệp; phát động
chiến dịch loại bỏ hàng nhái, hàng độc hại; cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng
Việt Nam. Ta sẽ lần lượt phân tích từng chính sách sau đây.
1. Ba công cụ được sử dụng như rào cản thương mại:
Ba công cụ này được sử dụng thay cho hai chính sách là thuế hải quan và các rào
cảng phi thuế quan sau khi ký kết với WTO.
Đầu tiên là chính sách chống phá giá. Trước hết chúng ta phải hiểu tiêu chí để áp
dụng chống phá giá là gì ? Đó là khi một công ty bán một mặt hàng xuất khẩu thấp hơn
giá thông thường mà họ bán mặt hàng đó tại thị trường trong nước. Có nghĩa là khi một
mặt hàng nước ngoài vào Việt Nam lại có giá thấp hơn giá thị trường ở nước đó. Sau khi

mở cửa, cắt giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng nước ngoài thì Việt Nam đã phải
đối mặt với việc hàng hoá tràn vào nội địa nổi trội về chất lượng lẫn hình thức. Cộng
thêm việc mặt hàng nước ngoài lại có giá cả thấp hơn so với hàng nội địa sẽ người tiêu
dùng trong nước trở nên ưa chuộng sử dụng hàng ngoại hơn dẫn đến hàng nội không còn
chỗ đứng trên thị trường. Khi đó chính phủ có quyền áp dụng chính sách chống bán phá
giá bằng cách tăng thuế quan khi nhập khẩu để tăng giá mặt hàng đó ngang với mức
chung trên thị trường. Bằng cách này hàng nội sẽ có được sự bình đẳng về mặt giá cả để
củng cố sức cạnh tranh với hàng ngoại mà không vi phạm cam kết.
Tiếp theo là chính sách chống trợ cấp. Đây là pháp lệnh chống trợ cấp đối với
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (Pháp lệnh 22/2004/PL-UBTVQH11), trợ cấp là sự hỗ
trợ về tài chính của Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ dành cho tổ chức, cá nhân khi
sản xuất, xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam và đem lại lợi ích cho tổ chức, cá nhân đó…
Điều này có nghĩa là chính phủ nước đó không được phép có bất kỳ sự hỗ trợ nào cho
việc xuất khẩu mặt hàng đó vào Việt Nam. Chẳng hạn như việc chính phủ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xuất khẩu; không thu những khoản thu mà tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ phải nộp; đặc biệt cung cấp cơ sở hạ tầng riêng cho một mặt hàng thiết yếu…Khi
chính phủ Việt Nam tiến hành điều tra và cho ra kết quả có sự trợ cấp của nước đó thì
mặt hàng đó sẽ bị áp dụng thuế chống trợ cấp tương đương với sự hỗ trợ của nướng đó
đối với mặt hàng được trợ cấp.
Cuối cùng là chính sách tự vệ đặc biệt. Khác với hai biện pháp chống bán phá giá
và chống trợ cấp, biện pháp tự vệ thường được nói đến như một công cụ bảo vệ ngành
sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước trong trường hợp khẩn
cấp nhằm hạn chế những tác động không thuận lợi gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản
xuất trong nước do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, biện
pháp tự vệ có thể được áp dụng kể cả khi các đối tác thương mại thực hiện kinh doanh
một cách chính đáng, không có tình trạng bán phá giá hoặc trợ cấp. Chính vì vậy, biện
pháp tự vệ được áp dụng một cách khắt khe hơn so với hai biện pháp còn lại. Nếu như
yêu cầu về điều kiện để áp dụng biện pháp chống phá giá và chống trợ cấp chỉ dừng lại ở
mức cơ quan điều tra phải chứng minh có tình trạng bán phá giá hay trợ cấp và việc bán
phá giá hoặc trợ cấp đó gây thiệt hại “đáng kể” cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự

trong nước thì trong các cuộc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ, cơ quan điều tra phải
chứng minh được tình trạng thiệt hại “nghiêm trọng” mà ngành sản xuất hàng hóa “tương
tự hoặc cạnh tranh trực tiếp” trong nước phải hứng chịu do việc gia tăng “bất thường”
của luồng hàng hóa nhập khẩu. Việc áp dụng biện pháp tự vệ phải đáp ứng được ba điều
kiện: Có sự gia tăng đột biến một cách tuyệt đối của hàng hóa nhập khẩu về khối lượng,
số lượng hoặc trị giá; Ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự trong nước nhập
khẩu bị thiệt hại một cách nghiêm trọng; Thiệt hại nghiêm trọng mà ngành sản xuất trong
nước phải gánh chịu xảy ra hoặc bị đe dọa xảy ra là do sự gia tăng đột biến một cách
tuyệt đối của hàng hóa nhập khẩu về khối lượng, số lượng hoặc trị giá gây ra (“xác định
mối quan hệ nhân quả”).
Thông qua ba chính sách này Việt Nam đã có thể kiểm soát được những mặt hàng
nhập khẩu có hại cho hàng nội. Từ đó áp dụng chính sách thuế thích hợp để điều chỉnh,
ngăn chặn lượng hàng ngoại đang đe doạ hàng nội. Đây là một công đôi việc với Việt
Nam, vừa có thể hạn chế việc nhập khẩu lại vừa tạo điều kiện cho hàng nội có cơ hội
vương lên trong rừng hàng ngoại như hiện nay.
2. Giảm thuế nguyên liệu sản xuất:
Trong tình trạng kinh tế ngày một suy thoái nên nhu cầu dùng hàng rẻ và bền của
người Việt Nam ngày càng tăng cao thì hàng nội lại không thể đáp ứng được nhu cầu giá
cả đó. Dẫn đến tình trạng người tiêu dùng quay lưng với hàng nội địa thà sử dụng hàng
nhái giá rẻ. Với tình trạng đó chính phủ đã đề ra chính sách giảm thuế nhập khẩu đối với
nguyên liệu dùng trong việc sản xuất mặt hàng chính yếu trong nước. Ta cần hiểu rõ hàng
nội Việt Nam giá cả lại cao là do Việt Nam không thể tự sản xuất các nguyên liệu để tạo
ra những sản phẩm hoàn chỉnh như: các phụ tùng ô tô, các linh kiện điện tử, máy móc…
mà phải nhập từ nước ngoài. Đồng thời lại phải đạt được chuẩn do nhà nước đề ra về chất
lượng sản phẩm nên giá thành luôn phải cao không phù hợp với nhu cầu của người dân.
Trong khi hàng ngoại quốc lại không cần tốn một khoảng tiền lớn cho việc nhập khẩu
nguyên liệu, do các nước tiên tiến có thể tự sản xuất nguyên vật liệu vì vậy giá thành
cũng rẻ hơn, có sức cạnh tranh cao hơn. Vì thế mục đích giảm thuế này nhằm giúp cho
hàng nội địa có thể sản xuất với giá thành rẻ hơn cho ra số lượng lớn hơn dẫn đến giá cả
không cao nhưng vẫn giữ được chất lượng. Đây là một trong những nổ lực hiệu quả của

chính phủ ta trong việc bảo hộ hàng nội.
Chẳng hạn như vừa qua Bộ tài chính vừa quyết định giảm 50% mức thuế giá trị
gia tăng cho nhiều loại linh kiện quan trọng cho láp ráp ô tô. Cụ thể, khung gầm đã lắp
động cơ dùng cho xe có động cơ; thân xe (kể cả ca-bin), dùng cho xe có động cơ như: xe
máy kéo, xe ô tô chở 10 người trở lên, tính cả lái xe gồm: ô tô buýt, và xe khách đường
dài; xe ôtô con và các loại xe ô tô khác thiết kế chủ yếu để chở người , xe ô tô vận tải
hàng hoá và một số ô tô chuyên dụng gồm xe cần cẩu, xe cứu hoả, xe trộn bê tông, xe
quét đường Bên cạnh đó một loạt thiết bị khác như: hiết bị đánh lửa hoặc khởi động
bằng điện; máy phát điện, thiết bị ngắt mạch; bộ lọc dầu hoặc xăng dùng cho xe ô tô
dùng cho xe ô tô cũng nằm trong danh mục được giám thuế. Đặc biệt, trong danh sánh
được giảm thuế lần này tập trung vào các mặt hàng nguyên liệu, thiết bị cơ khí, máy móc
điện tự phục vụ cho các dây chuyền sản xuất, các máy móc nông nghiệp Trong nhóm
các nguyên vật liệu có thể kể đến phế liệu và mảnh vụn của kim loại quý hoặc kim loại
dát phủ kim loại quý; nhôm lá mỏng, que hàn Nhiều nhất là các loại máy móc, chi tiết
máy móc, thiết bị cơ khí như lò hơi - lò nung; máy sản xuất khí và nén khí, máy bơm các
loại; máy làm lạnh, máy ly tâm, động cơ điện, thiết bị cơ khí, ròng rọc - cẩu và máy nâng
hạ; máy dệt và thiết bị kéo sợi.Các loại máy nông nghiệp và chế biến nông nghiệp như:
máy cày bừa; máy thu hoạch, máy làm cỏ, máy vắt sữa, thiết bị ép - nghiền sản phẩm;
thiết bị làm sạch và chế biến sản phẩm nông nghiệp Bên cạnh đó một số thiết bị điện tử
văn phòng như máy in, may photo cũng được giảm thuế.
Ngoài việc giảm thuế cho các thiết bị, máy móc sản xuất ra thì chính phủ còn giảm
thuế nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Hiện nay, phần lớn các nhà máy sản xuất
thức ăn chăn nuôi đều phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài với giá ngày càng cao.
Bởi vậy, Cục chăn nuôi đã đề xuất một số giải pháp như: tổ chức kiểm tra chất lượng và
giá thành thức ăn chăn nuôi tại một số nhà máy lớn, sau đó sẽ công bố công khai trên
các phương tiện thông tin đại chúng những cơ sở vi phạm. Chính phủ đưa mặt hàng thức
ăn chăn nuôi vào danh mục nhóm mặt hàng cần bình ổn giá, từ đó quy định giá trần từng
thời kì. Chính phủ cho phép giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu, mặt khác, vẫn giữ nguyên
mức thuế nhập khẩu thức ăn chăn nuôi thành phẩm là 0%.
Hai mặt hàng được áp dụng chính sách giảm thuế nguyên liệu trên đã phần nào

làm rõ về tầm quan trọng của chính sách này đối với việc bảo hộ hàng nội trong nước. Là
điều vô cùng cần thiết trong việc giảm giá hàng nội trong quá tự do thương mại hiện nay.
3. Phát triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu:
Chính sách này là bước tiến của chính sách giảm thuế nguyên liệu sản xuất. Vì
giảm thuế nguyên liệu chỉ là một bước đệm tạm thời không thể giải quyết dứt điểm việc
phụ thuộc vào việc nhập khẩu của hàng nội. Ta phải tự mình sản xuất được mới là thực
sự đứng vững trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Phát triển công nghiệp thay thể nhập
khẩu là một đường lối công nghiệp hóa theo đó quốc gia tiến hành công nghiệp hóa nỗ
lực thành lập và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp trong nước để sản xuất ra các sản
phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Chiến lược này đòi hỏi các biện pháp bảo hộ với những
ngành công nghiệp trong nước bằng cách dựng lên các hàng rào mậu dịch chống lại hàng
nhập khẩu và bằng các khoản trợ cấp. Có thể nói những chính sách trên đều cùng một
mục đích để thoả được yêu cầu cho chính sách phát triển công nghiệp này.
Chính sách này càng ngày càng thể hiện được sự hiệu quả hơn, điển hình là trường
hợp công ty Honda hoạt động ở tỉnh Vĩnh Phúc, như sẽ được phân tích chi tiết trong
Chương 11, tỷ lệ nội địa hoá tăng khá nhanh, từ 10% đến 66% trong năm năm (1998 đến
2002), vượt quá yêu cầu của Chính phủ Việt Nam (quy định tỷ lệ nội địa hoá tăng từ 10%
lên 60% trong vòng sáu năm). Hành động tích cực này có lẽ bắt nguồn từ kế hoạch và dự
tưởng về khả năng đẩy mạnh sản xuất của Honda (lượng xe máy sản xuất tăng đến một
quy mô nhất định sẽ tạo ra tính hiệu quả của thị trường cho sản phẩm công nghiệp phụ
trợ). Tuy tỷ lệ nội địa hoá của Honda tăng nhanh, song phân tích kỹ sẽ thấy vai trò của
doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp nội địa Việt Nam rất nhỏ. Phần lớn các bộ
phận, linh kiện và nhiều sản phẩm công nghiệp phụ trợ khác đều do Honda tự sản xuất
trong nội bộ nhà máy hoặc mua từ các doanh nghiệp FDI khác.
4. Hỗ trợ vay vốn cho doanh nghiệp:
Đây là chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp khi vay vốn tại các ngân hàng nhà
nước. Ngân hàng sẽ hỗ trợ cho việc vay vốn trung và dài hạn với lãi suất thấp theo chính
sách nhà nước đề ra cho doanh nghiệp hưởng ưu đãi. Với tình hình các nhà đầu tư nước
ngoài mạnh tay bỏ vốn vào thị trường Việt Nam hiện nay thì ta có thể chắc chắn một điều
rằng các doanh nhân nhỏ và vừa Việt Nam sẽ không thể nào cạnh tranh về nguồn vốn lưu

động bằng. Như thế sẽ gây ra sự mất cân bằng khi hàng ngoại được đầu tư mạnh về mọi
mặt (vốn, nhân công, kỹ thuật), hàng nội lại bị thiếu hụt do lượng vốn doanh nhân Việt
Nam không đủ mạnh. Do vậy chính phủ phải mở chính sách cho vay với lãi suất thấp để
hỗ trợ. Các ngân hàng vốn nhà nước sẽ đi tiên phong cho phong trào này, sẽ mở ra các
chương trình cho vay hỗ trợ với số tiền lớn cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện tiêu
chuẩn theo quy trình nhà nước đưa ra.
Để thực hiện chính sách này nhà nước đã đề ra việc hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn
được hỗ trợ lãi suất 4% một năm. Với việc làm này chính phủ sẽ thu hút được sự chú ý
của các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường mà điều tất yếu không thể thiếu cho
công ty là nguồn vốn. Với lãi suất hỗ trợ hấp dẫn như vậy thì chắc hẳn các doanh nghiệp
dù vừa hay nhỏ sẽ muốn tham gia để có được nguồn vốn phát triển công việc sản xuất
cũng như nâng cao chất lượng cùng khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
5. Phát động chiến dịch loại bỏ hàng nhái, hàng độc hại:
Ngoài sự cạnh tranh khốc liệt với ngoại nhập thì một vấn đề nhấn nhối phát sinh
không phải là nhỏ đó là hàng nhái, độc hại với giá thành rẻ mạt đang tràng lang khắp thị
trường Việt Nam. Nó gây ảnh hưởng mạnh đến hàng hoá nội địa, khi mà việc cạnh tranh
với hàng ngoại đã không phải là chuyện dễ dàng gì. Do đó chính phủ phải phát động
những chiến dịch loại bỏ hàng nhái, độc hại. Đặc biệt là đối với những hàng hoá xuất
phát từ Trung Quốc. Đây là vấn đề không thể áp dụng những chính sách về thuế quan hay
ràng cảng thương mại vì chủ yếu hàng nhái, độc hại được nhập lậu qua đường biên giới.
Chính phủ Việt Nam phải huy động lựng lượng an ninh truy quét, ngăn chặn bằng được
những đầu mối đưa hàng độc hại điển hình là của Trung Quốc vào Việt Nam. Đồng thời
thúc đẩy giới truyền thông đưa tin tuyên truyền cho quần chúng nhân dân nắm rõ tình
hình để có ý thức về việc không sử dụng hàng độc hại. Đừng vì ham muốn mua giá rẻ
nhất thời mà để lại hậu quả nặng nề. Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề bảo vệ hàng nội
mà còn là việc liên quan đến sức khoẻ, đời sống người dân. Nên chính sách phải được
thực hiện thường xuyên và có quy mô lớn.
Đặc biệt đối với hàng Trung Quốc, chính phủ Việt Nam phải đẩy mạnh việc kiểm
tra các sản phẩm này thường xuyên, xét nghiệm các thực phẩm, dệt may… để phát hiện
kịp thời những sản phẩm độc hại, thu hồi và ngăn chặn. Vừa có thể giảm sức cạnh tranh

của hàng Trung Quốc vốn đang rất bành trướng trên thị trường Việt Nam, vừa đảm bảo
cho sức khoẻ người dân trong nước.
6. Cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”:
Cuộc vận động này được chính phủ vận động vào năm 2009 và đến tận bây giờ
vẫn được tiến hành chủ yếu bằng hình thức tuyên truyền để nâng cao ý thức của người
dân. Các chính sách trên sẽ là vô hiệu quả nếu như nhận thức của người dân chúng ta
không ưa chuộng hàng quốc nội. Tâm lý của người tiêu dùng luôn quan niệm rằng hàng
ngoại vẫn luôn đẹp hơn, bền hơn, nhiều người dù hàng ngoại giá cả có mắc hơn vẫn thích
dùng hàng ngoại hơn. Đó chính là điều mà cuộc vận động này muốn nhắm vào – tâm lý
của người tiêu dùng. Chính người Việt Nam mới là nhân tố quan trọng để cứu lấy hàng
Việt Nam đang lâm tình trạng vào khó khăn.
Cuộc vận động với quy mô toàn quốc đã phổ biến khẩu hiệu này ở khắp mọi nơi,
nếu cùng kết hợp hiệu quả với những chính sách trên thì ắt hẳn người tiêu dùng sẽ không
quay lưng với hàng nội. Tinh thần của cuộc vận động này đang lan rộng trên cả nước,
điển hình như siêu thị Thái Hậu ở thị trấn Ba Đồn, tại đây những sản phẩm được bày bán
rất đa chủng loại. Từ nhóm hàng may mặc, nhóm thực phẩm đến nhóm mặt hàng tiêu
dùng đều mang nhãn hiệu "Made in Việt Nam", chỉ có một số lượng rất ít quần áo của
Trung Quốc được trưng bày chỉ đơn giản là để người tiêu dùng dễ dàng so sánh về chất
lượng cũng như giá thành.
Kết hợp với chính sách bài trừ hàng nhái, hàng độc hại của chính phủ thì dù các
sản phẩm hàng Việt Nam chất lượng cao có bước tiến còn chậm so với một số hàng ngoại
nhập nhưng chắc. Nhưng qua các sự cố như sữa Trung Quốc có melamine, thịt gà đông
lạnh nhập khẩu đã hết hạn sử dụng của Vinafood rất nhiều người không còn "dám" mua
những mặt hàng chỉ có một số chữ ngoại in trên bao bì mà không rõ chất lượng và khâu
kiểm duyệt như thế nào Trước tình hình này, nhiều người dân đã xem lại thói quen mua
sắm của mình và rất cân nhắc để chọn hàng nội hay hàng ngoại. Đó cũng là cơ hội cho
sản phẩm Việt vươn lên khẳng định vị trí của mình, tạo dựng niềm tin của khách hàng
bằng những sản phẩm tương tự nhưng có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả phải chăng
hơn.
III. KẾT LUẬN:

Với những chính sách vừa nêu trên ta có thể thấy Việt Nam dù đã rất nổ lực để
thực hiện các chính sách bảo hộ hàng nội địa nhưng như thế là chưa đủ. Chưa đủ cả về số
lượng cũng như mật độ các chính sách được thực hiện. Chúng ta cần nhiều hơn thế những
chính sách bảo hộ thật hiệu quả. Đặc biệt là trong việc điều tra các mặt hàng nước ngoài
nhập khẩu vào Việt Nam có đúng quy tắc hay không và tiến hành việc tăng thuế quan để
hạn chế sự nhập khẩu của hàng ngoại. Cần phải xây dựng chặt chẽ cơ sở pháp lý để các
doanh nhân nước ngoài không thể luồng lách để không bị đánh thuế bán phá giá hoặc
đánh thuế chống trợ cấp. Chúng ta cần phải năng nổ hơn nữa để bảo vệ hàng nội – những
đứa con còn nơn nớt của nền kinh tế Việt Nam trước những tai to mặt lớn như hàng ngoại
nhập.
Tóm lại việc bảo hộ hàng nội địa là điều vô cùng cần thiết, chính phủ không thể
chỉ đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải thúc đẩy sản xuất, nắm bắt cơ hội hội nhập.
Mà chính cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền phải hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi
tốt nhất để doanh nghiệp có thể phát huy khả năng của mình đưa thương hiệu hàng nội –
hàng Việt Nam chất lượng cao lên tầm cao mới, có đủ tự tin để tiến ra thị trường thế giới.
Dù đó là con đường rất dài và gian nan nhưng ta có thể tin vào tương lai hàng nội Việt
Nam nổi trội hơn cả những hàng ngoại đang tràn lan trên thị trường./.

×