Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo đề tài nghiên cứu văn học Hàn Quốc - Sijo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.36 KB, 32 trang )

BÁO CÁO
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU TRUYỀN THỐNG THƠ CỦA
HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM
1. Khái niệm Sijo:
Đây là phần khái quát đơn giản Sijo là gì? Có đặc trưng như thế nào và sẽ giúp
chúng ta có cái nhìn tổng thể về Sijo.
Sijo là một thể loại thơ truyền thống đặc trưng của Hàn Quốc, phát triển không
ngừng từ cuối thời kì Koryo cho đến nay. Chính vì việc phát triển không ngừng của
Sijo trong suốt năm trăm năm của vương triều Triều Tiên nên những bài Sijo được
sáng tác ở thời Triều Tiên được gọi là Sijo cổ nhằm để phân biệt với những bài Sijo
được sáng tác từ thời cận đại trở về sau.
Về mặt hình thức toàn tác phẩm Sijo gồm có 3 dòng mỗi dòng có từ 14 đến 16
âm tiết. Tổng số âm tiết trong một bài Sijo từ 44 đến 46 âm tiết. Nội dung của Sijo:
Vào đầu thời kì Choseon, Sijo được viết bởi tầng lớp Yangban và nội dung chủ
yếu chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo , nhưng đến thời kì hậu Choseon thì được viết
bởi tầng lớp bình dân nội dung chủ yếu là những tác phẩm về niềm vui và nỗi buồn của
tầng lớp bình dân.
2. Nguồn gốc và bối cảnh xuất hiện của Sijo:
Sijo được xuất hiện vào cuối thời kì Koryo tức là vào khoảng cuối thế kỷ 14, nó
được xem là một thể loại văn học đặc trưng của Hàn Quốc, và ngày nay nó đã trở nên
phổ biến. Một trong những lý do khiến cho Sijo trở nên phổ biến là vì nó được viết
bằng tiếng Hàn. Những bài hát truyền miệng trong đời sống tôn giáo của người dân
Hàn Quốc đều gắn liền với các triều đại lịch sử của Trung Quốc. Sijo thường được xuất
hiện trong những cuộc hội mặt, dân làng thường được nghe thôn trưởng kể về cuộc đời
của ông ta như những huyền thoại cũng như những chiến tích của ông ta trong thời
chiến tranh cũng như hòa bình. Câu chuyện kể sẽ được xen kẽ với các bài hát tạo nên
niềm hân hoan, tinh thần thoải mái. Chính những cuộc trò chuyện như thế này đã tạo
nên tính thơ ca cho nền thi thơ của Hàn Quốc. Do không muốn ảnh hưởng của ngôn
ngữ Trung Quốc cho nên trong thời kì cuối Koryo Sijo chủ yếu được truyền miệng.
( giữa thế kỉ 15 mới phát minh ra hangul).
Mãi cho đến những năm 20 của thập niên 90, hai từ sijo mới trở nên phổ biến,


khi nó được sử dụng như “tiêu đề” cho những tuyển tập thơ của các nhà thơ. Sijo được
viết dựa trên 2 đặc tính, thứ nhất là về “ thời gian ” và thứ hai là về “ lời bài hát ”.
Trước những năm 20 của thập niên 90, cụm từ tan-ga ( những bài hát ngắn ) đã được
sử dụng để chỉ những bài thơ, và sijo đã được sử dụng trong những bài hát vào thời đó.
Nhưng thực tế cuối cùng cụm từ sijo bao hàm luôn cả hai ý nghĩa của thơ và nhạc. Mặc
dù, gốc của sijo dành cho việc hát, thế nhưng tính âm nhạc trong sijo không phải là nhu
cầu của những người thưởng thức âm nhạc. Tiếng hát sijo là môn nghệ thuật xa xỉ chỉ
dành riêng cho tầng lớp quan lại trong xã hội, nhưng nó không có nghĩa là những tầng
lớp khác không thể quen thuộc với những ngôn từ hiện tại ( ví dụ như nhạc opera thì
dành cho tầng lớp cao, còn những bài hát đơn giản chỉ có ngữ điệu mà không có phối
nhạc thì dành cho tầng lớp bình dân ).
Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều giả thiết về nguồn gốc của sijo. Trong đó, có 3
giả thiết lớn:
• Thứ nhất: có giả thiết cho rằng Sijo đã chịu ảnh hưởng từ thơ chữ Hán,
mọt thể loại văn học Trung Quốc, nhưng đã được du nhập vào Hàn Quốc.
Và để chứng minh cho giả thiết này, người ta đã cố gắng chứng minh
Sijo giống với loại hình tuyệt cú của Trung Quốc. Thế nhưng, thực tế có
một số đáng kể thơ chữ Hán được đổi sang hình thức sijo.
• Thứ hai: cũng có giả thiết cho rằng sijo bắt nguồn từ hyang-ga căn cứ vào
ý nghĩa của của lời “tam cú lục danh” giải thích cho hyang- ga tương
thong với hình thức “tam chương lục cú” của sijo.
• Thứ ba: cũng có ý kiến quan tâm đến tính đoản hình của sijo đã cho rằng
hình thức sijo có 3 dòng được hình thành từ việc thêm một dòng lời bài
hát vào dân ca ngắn có hình thức hai dòng.
Giả thiết cho rằng sijo bắt nguồn từ thơ chữ Hán không thể giải thích sự
khác biệt giữa cấu trúc tam đoạn của sijo với cấn trúc tứ đoạn của thơ chữ Hán. Còn
thuyết cho rằng sijo bắt nguồn từ hyang-ga lại không thuyết phục ở chỗ cấu trúc của
sijo không phù hợp với thực trạng của lời bài hát của hyang-ga có hình thức mười
dòng. Còn đối với thuyết bắt nguồn từ dân ca lại có nhược điểm là không giải thích
được quá trình thêm một dòng vào loại hình dân ca hai dòng và cũng không giải thích

được sự khác biệt về giai tầng âm nhạc của hai thể loại này.
Chính vì thế, vấn đề nguồn gốc của sijo đến nay vẫn chưa được giải quyết
minh xác.
3. Thi luật và phân loại Sijo
3.1 Thi luật
Cho đến ngày nay vẫn không thể phân tích được nguyên thể đầu tiên của Sijo một
cách rõ ràng .Các nhà nghiên cứu cho rằng Sijo chính là kết quả từ sự phát triển của
dân ca cổ hoặc hyaangga vào cuối thời Silla. Tuy nhiên , một điều rõ ràng là Sijo có
dấu vết từ các bài dân ca cổ. thể loại dân ca cổ Hàn Quốc thường có hai câu, mỗi câu
có bốn nhịp, 1 nhịp có 3,4 hoặc 5 âm tiết (âm đơn) . Trong khi đó, Sijo cũng có 3 dòng,
mỗi dòng có cùng số nhịp như dân ca cổ, dòng cuối cùng bao gồm cả câu chuyển tiếp
và kết đoạn. đặc tính của Sijo trong câu cuối là nâng bài thơ lên một mức xúc cảm cao
hơn.
Như vậy thể thơ Sijo được soạn với bố cục gồm ba dòng ,mỗi dòng 4 nhịp thơ, mỗi
nhịp bao gồm chủ yếu 3 hay 4 âm tiết. . Riêng nhịp 1 của câu 3 luôn có 3 âm tiết,
các nhịp sau có thể có tới 5 âm tiết. Bài thơ Sijo có một bố cục tương tự như các
thể thơ Trung Quốc: khởi đầu, trình bày, chuyển tiếp và kết luận.
Dòng 1: khởi đầu, nêu ra vấn đề, tương ứng với “khai”
Dòng 2: trình bày, triển khai ý, tương ứng với “thừa”
Dòng 3: Nhịp 1 của dòng cuối tương ứng với chuyển tiếp “chuyển”, 3 nhịp còn
lại là kết luận “hợp”, một kết luận mạnh mẽ với sự ngạc nhiên (xoắn) ở, để giải quyết
các căng thẳng hoặc câu hỏi được nêu ra ở những dòng khác và đó là một kết thúc đáng
nhớ. Tiết nhịp đầu tiên gộp ý tưởng của cả bài thơ lại rồi sang tiết nhịp thứ hai,
đẩy ý thơ lên thành cao trào, sau đó hạ dần cug bậc. ở dòng thơ cuối này, ý tưởng
của thơ được hoàn tất một cách chặt chẽ.
THÂN NÀY NẾU CHẾT
(Seong Sang Mun)
이 몸이 죽어 가서 무엇이 될고 하니
봉래산 제일봉에 낙락장송 되었다가
백설이 만건곤할 제 독야청청 하리라.

DỊCH THƠ
- Một ngày ta ra đi
Thì thân này sao nhỉ ?
- Thành cây thông vĩ đại
Trên đỉnh núi Bông- rê
Khi thế gian tuyết đầy
Một mình ta đứng đấy !
Ví dụ như đoạn thơ trên, dòng 1 gồm có 3 nhịp: “이 몸이”- “죽어 가서”-“
무엇이”- “될고 하니”, tương tự dòng 2 và dòng 3 đều có 4 nhịp, trong mỗi
nhịp có 3 hoặc 4 âm tiết, riêng ở nhịp đầu tiên của dòng thứ ba bắt buộc là 3
âm tiết.Thường cuối dòng 3 có các âm như “리라” là những âm cảm thán của
bài thơ.
Chúng ta có thể thấy rõ cấu trúc của bài thơ Sijo cũng tương tự với bố cục
“khai, thừa, chuyển, hợp” của thơ Trung Quốc, chịu ảnh hưởng sâu sắc của thơ
tứ tuyệt. Thế nhưng khi giải thích hình thức của Sijo trên quan điểm phải có hai
nhịp hợp lại mới tạo thành lời có nghĩa, người ta gọi điều này là cú, nên cũng có
thể giải thích rằng Sijo là hình thức “tam chương lục cú”.
Một điều đáng chú ý và rất riêng ởthơ Sijo là ở dòng cuối cùng thường có các
từ cảm thán như: “a…, …ơi, thay…, hãy…, ư…!” hoặc dạng câu hỏi tu từ như:
“…chăng, …sao”.
Mỗi nhịp của Sijo, tất nhiên cũng bao gồm ngoại lệ 2 thay vì 3, 3 thay vì 4
âm tiết. tổng số âm tiết của một nhịp đôi khi có thể thay đổi nhưng tổng số nhịp
của một câu luôn cố định, chỉ có một số rất ít trường hợp trong một câu có 3 thay
vì 4 nhịp. tuy nhiên câu 3 nhịp ít hơn nhiều so với câu 4 nhịp. Bằng bố cục và kết
cấu thơ ngắn, người Hàn Quốc coi đó là biểu hiện cho mỹ học tập trung của họ
Đặc biệt khi bài Sijo được kết hợp cùng với nhạc thì câu thứ 3 có một ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. khi hát, nhịp thơ dài từ 3 đến 4 âm tiết phù hợp với chiều dài
âm giọng của người Hàn Quốc.
Cũng giống như thơ haiku của Nhật Bản, sijo có thể sử dụng lối chơi chữ, ám chỉ
và chơi từ tương tự. tuy nhiên, Sijo có thể sử dụng phép ẩn dụ và ngôn ngữ tượng trưng

khác một cách cởi mở hơn.
Núi Lam là tim tôi
nước xanh là tình người
Núi Lam nào biến đổi
nước xanh thì cứ trôi
Vẫn còn thương nhớ núi
nên nước lại quy hồi
(Nhật Chiêu dịch)
Hình tượng thiên nhiên không chỉ được sử dụng như là phép ẩn dụ cảm xúc của
người nói mà chính bản thân thiên nhiên còn được nhân cách hoá và ngụ ý để xây dựng
nên nhiều tầng nghĩa, từ loại biểu tượng này nổi lên một cảm xúc nhất quán.
Ở đây phép ẩn dụ còn pha tính triết lý và cả ngụ ý tôn giáo.
Một tính năng quan trọng ở đầu dòng cuối cùng là sự biến đổi: là một bất ngờ về ý
nghĩa, âm thanh, giai điệu hay kỹ thuật khác. Nó có thể được chủ quan và cá nhân, và
nó thường xuyên biến đổi sâu sắc, dí dỏm hoặc phương ngôn.
Từ thế kỷ 18, có một khuynh hướng thay đổi thể thơ Sijo theo hình thức dài hơn,
nhưng chỉ làm thay đổi chiều dài của một câu , chiều dài một bài thơ 3 câu vẫn không
thay đổi. Có hai hình thức: sijo dạng trung và sijo dạng dài (sijo cũ được gọi là sijo
ngắn). Sijo trung có sáu nhịp trong một câu, còn Sijo dài thì có tám nhịp trong một câu.
Mặc dù có vẻ đơn giản, loại thơ này vẫn đạt được những hiệu quả thẩm mỹ trọn
vẹn. Có lẽ chính vì thế mà sijo được cả giới bình dân lẫn giai cấp yangban ưa thích.
Với một mức độ nhất định, sijo cũng có chút ảnh hưởng của thơ ca phương Tây,
nhưng chỉ là ảnh hưởng về nội dung nhưng bố cục, cấu trúc câu thơ vẫn tuân theo một
cấu trúc cổ điển, mang nét riêng biệt mà lịch sử để lại.
Trong vườn hoa muôn màu, bướm trắng
Bao giờ cũng bay từng đôi.
Bên bờ sông thùy dương im lặng
Bao giờ cũng đứng từng đôi.
Trên đời này trừ tôi ra, tất cả
Bao giờ cũng sống từng đôi.

3.2 Phân loại
Sijo được phân loại theo dạng văn học, đặc điểm âm nhạc, kiểu vùng miền.
a. Sự phân loại văn học
@ Pyeong sijo ( 평시조 ): Loại Sijo ngắn, bao gồm ba dòng với khoảng 45 âm tiết,
được hình thành từ đầu triều đại nhà Yi, gắn liền với sự bắt đầu nhiệm sở của các
quan chức trong triều đình mới.
@ Eot sijo (엇 시조): thơ sijo dạng trung, có một trong ba dòng được mờ rộng thêm,
@ Saseol sijo (사설 시조 ): sijo dài, có 2 hoặc thậm chí là 3dòng đều mở rộng.
Sasoel sijo là sự kế thừa của sijo ngắn về nội dung và bố cục. Sasoel sijo được tổng
hợp từ các dạng dân ca của các tầng lớp cấp thấp trong xã hội, gần gũi với thực tế
và cuộc sống hơn, có một cảm xúc và bố cục rất tự do, tuy vẫn phải chấp nhận một
số nguyên tắc cố định của sijo ngắn.
Eot sijo và sasoel xuất hiện muộn hơn, đánh dấu mối wan tâm của đông đảo
tầng lớp dưới của xã hội, lưu hành rộng rãi vào cuối thời Choson.
b. Phân loại theo sự phổ nhạc.
Sijo không chỉ là một thể thơ mà còn được phổ nhạc để hát, mà trước tiên
là phục vụ cho tầng lớp nho sỹ. Vào đầu thời kỳ Choson, cách hát Sijo bị hạn chế
theo cách hát xướng của ca khúc nhưng đến cuối thời Choson, hát xướng Sijo
được lưu hành rộng rãi với lối hát xướng giản dị, nhẹ nhàng không có nhạc đệm.
vì thế, tầng lớp sáng tác và thưởng thức Sijo tăng lên nhanh chóng. Sijo tuy xuất
phát từ thể loại thơ của tầng lớp nho sĩ nhưng đã phát triển và trở thành thể loại
mà mọi tầng lớp đều có thể thưởng thức.
Đầu tiên là “pyeong sijo” mượn thể thơ sijo ngắn như là nguyên văn (lời) của
bản nhạc, và được hát ở quãng âm giữa. Thứ hai là “jireum sijo” , cũng mượn thể thơ
ngắn của sijo, bắt đầu bằng một quãng âm cao ở khúc nhạc đầu, chuyển thành một
quãng âm vừa ở khúc thứ hai. “Saseol sijo” lấy thể thơ sijo kể chuyện dài làm nguyên
bản (lời bài hát) và có thể sử dụng đa dạng các loại quãng âm. Cũng có nhiều sự biến
tấu từ ba loại này của sijo, ví dụ như “saseol jireum sijo” và “jireum sijo” cho phụ nữ
(jeojang jireum sijo).
c. Sijo được phân loại theo kiểu vùng miền

Sijo phong cách soeul và Gyeonggi (gyeonggi sijo) từ vùng trung tâm và sijo
phong cách địa phương (hyangjje sijo) từ những miền khác. Phần sau có thể được chia
thành “wanjje sijo” từ tỉnh Jeolla, “yeongjje sijo” từ tỉnh Gyeongsang và “naepojje
sijo” từ tỉnh Chungcheong. Những bài Sijo từ vùng trung tâm có loại phát âm được
phát triển khá sớm nên nó cũng có một chuỗi biến tấu rộng lớn. trong khi đó, những bài
sijo địa phương khác thì bao gồm hầu như là loại sijo kể chuyện và đều đặn.
MỘT SỐ BÀI THƠ SIJÔ
Tình yêu tôi là dòng sông
như nước hoài trôi vô tận
Tình tôi bao la che phủ
Chín mươi dặm cõi hồng trần
Em ơi tình tôi trao em
sẽ chẳng bao giờ khô cạn
(Khuyết danh)
Tôi gom hết tình tôi
cuộn đầy vào bọc lớn
Quàng lên lưng chú ngựa
căng sức trai tung hoành
Tuấn mã ơi chạy nhanh
đến người tôi yêu dấu
(Khuyết danh)
Có lẽ tôi bỏ cuộc thôi
bởi nhớ em mà chẳng thấy
Sự mềm yếu của tôi ơi
đớn đau làm tan tâm huyết
Người yêu tôi ơi có biết
nỗi niềm giăng kín trong tôi?
Yi Ineng (1832 - 1895)
Tên tuổi của các nhà thơ: Lý Hoảng/ Yo Hwang (1501-1570), Lý Nhĩ/ Yi I
(1536-1584), Phác Nhân Lão/ Pak Il-lo (1561-1643), Thân Khâm/ Sin Hum (1566-

1628), và nhất là nữ sĩ Hoàng Chân Y/ Hwang Chin Y(1506-1544) và nhà thơ Doãn
Thiện Đạo/ Yun Son-do (1587-1671), hai thi sĩ đã đưa thể thơ này lên đến đỉnh cao.
4. Vấn đề tư tưởng của thơ Sijo :
- Sijo (những điệu hát hiện hành) tiêu biểu cho thơ ca thời kỳ Joseon. Thể thơ này
được hình thành vào cuối thời kỳ Goryeo, nhưng nó phát triển mạnh dưới hệ tư tưởng
chủ đạo mới của thời Joseon thành bài ca Đạo tân Khổng.
- Đội ngũ sáng tác chủ yếu của thơ sijo là tầng lớp nho sĩ ở cung đình. Những thi
sĩ này sáng tác phần lớn là theo thể thơ chữ Hán, nhưng do thơ này chỉ ngâm vịnh
mà không hát được cho nên họ đã thông qua sijo để thoả mãn nhu cầu ca hát của mình.
- Vì thế, cuối thời Koryo và đặc biệt thời Choson, bên cạnh các thể thơ khác, sijo
là một thể loại mà các nho sĩ thường sáng tác và thưởng thức. Đến cuối thời Choson,
việc hát xướng được mở rộng, do đó thể loại sijo càng được lưu hành rộng rãi, tầng
lớp sáng tác và thưởng thức tăng lên nhanh chóng và mở rộng ra các thành phần xã hội
khác. Như vây, tuy xuất phát từ thơ ca của tầng lớp nho sĩ, nhưng trong quá trình phát
triển về sau này, sijo đã trở thành một thể loại thơ mang tính đặc sắc của dân tộc
Hàn Quốc được đông đảo người sáng tác và thưởng thức. Thơ sijo đã thoát ra
khỏi chốn cung đình chật hẹp gắn với tầng lớp quý tộc và đến với quần chúng nhân dân
đủ mọi tầng lớp trong xã hội.
- Thơ sijo nhằm chuyển tải tư tưởng Nho giáo mà trọng tâm là lý học của tầng
lớp nho sĩ Hàn Quốc đương thời, đặc biệt là thời đại Choson. Tính nhạc và chất
trữ tình của sijo lúc bấy giờ được các triều đình phong kiến sử dụng như một phương
tiện để chuyển tải tư tưởng Đạo Khổng và các tư tưởng triết học khác. Vì thế, trong thơ
sijo nổi bật là lòng trung thành và đạo đức Nho gia của bậc quân tử.
- Các bài sijo đều mang tinh thần Nho giáo, nội dung chính của một bài sijo
thường là sự trình bày của giáo lý Khổng tử hơn là sự trình bày của cảm xúc cá nhân.
Các tác phấm sijo đầu đàn của các thi sĩ tiền bối như Maeng Sa- seung, Lee Hyeon-bo,
Lee Lee và Lee Hwang đều mang nặng tính Nho giáo. Từ đó chúng ta có thể khẳng
định rằng, trong giai đoạn này, giáo lý Khổng tử là đối tượng chính, là nguồn cảm
hứng chính của sijo. Từ đây, có thể kết luận rằng thơ ca sijo qua các thời kỳ thăng trầm
của lịch sử, đã lấy các tư tưởng và tình cảm của lịch sử làm chủ đề chính để tự hoàn

thiện và phát triển cho mình, để lưu truyền lại những án thơ trữ tình bất hủ, mãi mãi đi
vào lòng dân tộc hôm nay và cả mai sau.
Theo dấu vết những tài liệu còn lưu truyền lại, vào giai đoạn sụp đổ của đế chế Koryo,
thơ văn lại rất hưng thịnh ở triều đình nhà Lee. Tất cả những hình thức thơ từ các khúc
nhạc đồng quê đến các bài thơ ca ngợi lòng trung thành yêu nước, tất cả đều khác so
với sijo về những bố cục ngữ pháp, nhưng lại đều giống nhau ở một điểm: tư tưởng
Nho giáo. Từ đây có một thực tế lịch sử là những bài sijo thường do các Nho sĩ có
chức sắc sáng tác nên, phục vụ trực tiếp cho tầng lớp trên. Như vậy không thể biểu
hiện hết toàn bộ sắc thái các tình cảm trong xã hội. Đó là một khuynh hướng sijo của
tầng lớp trên phản ánh tư tưởng Nho giáo, tuy nhiên cũng có một số thi sĩ tự nhiên diễn
tả cảm xúc của chính mình qua một số bài sijo không thể mang tư tưởng Nho giáo.
THÂN NÀY DÙ CÓ CHẾT
[1]
(Jeong Mong Ju)
이 몸 이 죽 고 죽 어 일 백 번 고 쳐 죽 어
백 골 이 진 토 되 어 넋 이 라 도 있 고 없 고
님 향한 일편 단심이야 가실 줄이 있으랴
Dịch theo tiếng Hàn hiện đại
이 몸 이 죽 고 또 죽 어 , 백 번 을 다 시 태 어 났 다 가 다 시 죽 어 서
흙에 묻힌 흰 뼈가 한줌 흙이 되고 먼지가 되어 없어지고, 혼백이 남아 있건 없건
간 에 ,
임금님께 바치는 한 조각 붉은 마음이야 어찌 변할 리가 있겠는가
( />DỊCH NGHĨA
Thân thể này dù có chết và chết đến trăm lần
Dù xương trắng hóa thành cát bụi, dù linh hồn còn hay không
Vẫn chân thành hướng về người, người ở phương nao.
( Thân xác chết đi sống lại rồi chết đi đến trăm lần)
Và xin một lòng hướng về người dẫu người có ở nơi nao. Vì cấu trúc 으랴 trong tiếng
Hàn được dùng để hỏi ý kiến người nghe về việc mình làm cho người nghe.


DỊCH THƠ
Thân này dù có chết
Chết, chết đến trăm lần
Dù xương dần hóa bụi
Dù linh hồn biến tan
Vẫn nồng nàn tha thiết

Một điều không thể phủ nhận trong thơ ca sijo là sijo không phải sáng tác để miêu tả
cảm xúc bởi thể giới của các tư tưởng Nho giáo là thế giới đạo đức phi cảm xúc. Chính
vì vậy tư tưởng và hình ảnh mà sijo phản ánh thường không mang tính thực tế mà chưa
nhiều ảo vọng. Do đó tư tưởng chính của các nhà thơ sijo là “ đạo đức – chính yếu, tình
cảm- thứ yếu”. Đó cũng là con đường suy nghĩ và sáng tác của thi sĩ sijo thời trước.
Điều này mang đến kết quả thơ sijo phần lớn diễn đạt các tư tưởng Nho giáo hoặc một
số ít cảm xúc thiên nhiên. Mặt khác cũng có một nhóm các thi sĩ đi ngược lại cới
khuynh hướng đương thời, để mô tả hình ảnh thực tế của tình cảm và nhân cách cuộc
sống cũng như con người.
Cơ sở ý niệm của sijo và Đạo trong những bài ca về sông Hồ:
Sijo do tầng lớp nho sĩ làm ra nên cơ sở mỹ học của Sijo là lý học. Lý học là một phần
Nho học, nghiên cứu cái lý của sự vật, tự nhiên, vũ trụ đang biến động theo nguyên lý
của sự vật, tự nhiên, vũ trụ biến động theo nguyên lý mang tính khách quan. Lý ở đây
là nguyên lý mang tính phổ biến của sự vận động trời đất vạn vật, nếu vận dụng vào xã
hội thì đó là đạo lý mà mọi người phải tuân thêo hoặc là nguyên tắc luật lệ thực tiễn. Vì
vậy, Lý học được xây dựng với trung tâm là tu dưỡng tâm và tính, chúng ta thường
nghĩ Nho giáo là những qui phạm đạo đức nghiêm ngặt chính là vì lẽ đó. Mỹ học tao
nhã và gọn gàng của Sijo rất thích hợp trong việc thể hiện thế giới quan và lối sống của
tầng lớp nho sĩ đương thời.

Trải qua nhiều biến động vào đầu thế kỉ XVI, vương triều choson đã xây dựng
được cơ sở ổn định về chính trị và văn hóa. Nơi mà tầng lớp nho sĩ có thể hiểu được
cái đạo của vũ trụ qua sự tu tâm dưỡng tính chính là tự nhiên sông hồ. Bởi vì họ cho

rằng có thể thực thể của lý thống trị vũ trụ trong tính bất biến của tự nhiên. Khuynh
hướng này có thể gọi là “sự phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên”.
Đến thế kỷ XVI thiên nhiên được thể hiện trong sijô được cách ly với hiện thực
chính trị hỗn tạp và được tạo thành bởi nhận thức theo đuổi chân lý mang tính học vấn
của sự bất biến. Tất nhiên là đằng sau cái lý của sự tách biệt hoàn toàn giữa tự nhiên và
hiện thực,nó đã phản ánh ý thức của phái Sĩ lâm đấu tranh với phái công huân và quyết
giành lại vị thế của mình. Trong cuộc đấu tranh chính trị với phái Công Huân, sau khi
thất bại nơi phái sĩ lâm trở về chỉ có thể là thiên nhiên sông hồ và ở đó, họ đã sống với
lòng tự hào về tu dưỡng học vấn và nghiên cứu chân lý của lý học.
Dòng chảy của những bài ca về sông hồ sau đó cứ thế liên tục phát triển, nhưng đến
khoảng cuối thế kỷ XVI, ý nghĩa nội tại của nó bị biến đổi đôi chút. Bài Cao Sơn cửu
khúc ca của Lý Nhĩ hoặc những bài của Thân Khâm viết về hứng thú nổi bật hơn là
mang tính chất đạo học nghiêm túc. Nói cách khác, mức độ nghiêm túc mang tính thẩm
mỹ ngày càng lớn hơn, nổi bật hơn so với sắc thái mang tính triết học.
5. Các tác gia tiêu biểu:
Thơ Sijo được viết vào khoảng cuối thời Koryo (Cao Ly) và đầu thời Yi (Lý)
thường là những tác phẩm ứng tác. Chúng vừa mang nội dung hồi tưởng quá khứ lại
vừa là văn chương tán tụng: mảng hồi tưởng quá khứ được viết bởi các cựu thần thời
Cao Ly và mảng văn chương tán tụng ra đời do các chủ đề đáng ca ngợi của thời đại
vua mới về sự vĩ đại của những công trình hoàng gia. Những biến động chính trị còn là
nguồn cảm hứng khiến các nhà thơ tiếc than về sự hỗn loạn, mất trật tự của xứ sở, đồng
thời họ còn bộc lộ những cảm hứng chủ đạo và các phong cách đa dạng của mình. Có
khi thì một vị tướng ca hát về những chiến thắng của quân đội ông đối với tộc người
Jurchen (Nữ Chân). Trong số các nhà thơ quân đội có Yi Sun-Sin (Lý Thuấn Thuần:
1545 - 1598), một đô đốc nổi tiếng về những chiến công làm đổi ngược thế trận trong
quá trình Nhật Bản xâm lược (1592 - 1598) đã để lại nhiều bài thơ Sijo đạt được giá trị
văn chương cao. Cũng có khi vua và các triều thần cùng ca hát về lòng trung nghĩa.
Cùng trong giai đoạn đó nhiều bài thơ châm biếm, đả kích chính trị, xã hội đã ra đời.
Chúng không thẳng thừng, thô mộc mà trau chuốt và tao nhã rất đáng gọi là thơ.
Yi Sun-Sin

Vào thế kỷ thứ 16 từ thời đại của vua Chung Jong (Trung Tông), các nhà thơ
bác học bắt đầu tham gia vào các hoạt động trên văn đàn. Có hai nhà tân Nho học nổi
tiếng là Yi Hwang (Lý Hoáng: 1501 - 1571) và Yi I (Lý Nhị: 1536 - 1584) đã sáng tác
ra một chùm thơ Sijo mà trong đó họ đã thể hiện được những cảm quan tinh tế của
mình trước cái đẹp của thiên nhiên. Điều mà họ khao khát là được sống tại một nơi ẩn
dật giữa những ngọn đồi xa cách cái thế giới xô bồ, ầm ĩ. Tuy nhiên ở đây có đến hai
loại nhà thơ bác học: một là những người đã từng thử chen chân vào thế giới quan chức
và đã nếm mùi thất vọng cay đắng, còn một là những quan chức già nua mong muốn
được trải qua những ngày tháng sau cùng của cuộc đời trong ẩn dật. Động cơ có thể
khác nhau nhưng họ lại giống nhau ở chỗ cùng tìm kiếm một cuộc sống bình lặng giữa
quang cảnh thiên nhiên. Khi họ bắt gặp một ngọn đồi hay đến gần một cái hồ, họ dành
trọn tâm trí của mình vào việc đọc sách hay làm bạn với hoa sớm, trăng đêm giữa
những con suối trong và ghềnh đá. Vì thế những tác phẩm của họ vừa mang tính học
thức vừa đầy giáo huấn, khắc sâu lời dạy của thánh nhân thời thượng cổ lại vừa mị cảm
và mơ mộng viễn vông khi hát về non xanh, nước biếc. Những bài thơ bác học này đã
tác động đến học giới không phải là ít. Những bài thơ Sijo của các nhà thơ này cùng
với cách mà họ sử dụng thể thơ Sijo thay vì các vần luật cổ điển của thơ Trung Quốc
đã khuyến khích các nho sinh Tống Nho quan tâm một cách nghiêm túc đến loại hình
nghệ thuật thơ ca này.
Yếu tính về những truyền thống vẻ vang của thơ Sijo được giữ gìn và tiếp nối
bởi Hwang Chin Y (Hoàng Chân Y: 1506 - 1544)
nhà thơ Triều Tiên vĩ đại nhất của mọi thời đại. Nàng
là một Kisaeng (Kỹ sinh) danh tiếng của đất Song Do
(Tùng Đô). Tiếng tăm của nàng trong thơ ca và âm
nhạc lan toả khắp kinh thành. Nàng là một bậc thầy
điêu luyện về cách khai triển những hình ảnh chọn
lọc trên một bình diện đầy kịch tích. Những hình ảnh
trong thơ nàng luôn đơn sơ và gợi cảm được phản
ánh trực tiếp từ thiên nhiên nhưng chúng luôn được
chọn lựa trong cái nhìn tương quan và đa nghĩa. Hình

tượng thiên nhiên không chỉ được sử dụng như là
phép ẩn dụ cảm xúc của người nói mà chính bản thân thiên nhiên còn được nhân cách
hoá và ngụ ý để xây dựng nên nhiều tầng nghĩa, từ loại biểu tượng này nổi lên một cảm
xúc nhất quán.
Núi Lam là tim tôi
nước xanh là tình người
Núi Lam nào biến đổi
nước xanh thì cứ trôi
Vẫn còn thương nhớ núi
nên nước lại quy hồi
Ở đây phép ẩn dụ còn pha tính triết lý và cả ngụ ý tôn giáo. Sự cảm nhận và khả năng
trực giác của Hoàng Chân Y trong các đề tài lớn về sự biến đổi cùng mối quan hệ giữa
cái siêu nghiệm và cái cố hữu được bộc lộ ra trong những ảnh quan đầy gợi cảm. Nghệ
thuật thơ ca của nàng ở đây gần như tương quan với các nhà thơ siêu hình Anh quốc.
Thơ của nàng đặc trưng bởi sự dồi dào của biểu tượng, sự cân đối của nhịp điệu và sự
hài hoà của ngôn từ. Cuối cùng là sự triển khai hoàn hảo và bậc thầy về các loại đề tài.
Sự hoàn hảo của thơ Sijo đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ 17 và 18. Các nhà thơ bác học lại
một lần nữa lại đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá thể thơ này đến gần với
công chúng. Khi các học giả tham dự vào, thơ của họ vừa “lãng mạn” lại mang đầy
tính triết lý. Họ nghỉ ngơi dưới những khóm trúc, cảm nhận được sự hài hoà tuyệt vời
của thế giới và sự huyền bí của tạo vật. Các đề tài của họ thường mang tính truyền
thống, họ lặp lại những lối thức và những chủ đề quen thuộc: câu cá dưới trăng, “đi cày
giữa mây” thưởng ngoạn sự gợi cảm của thiên nhiên, ca tụng rượu, niềm hoan lạc của
ái tình, nỗi buồn li biệt, than thở niềm quạnh hiu, cái đẹp của tình bạn, sự đáng sợ của
cái chết, sự bình dị của đời sống thôn dã, sự phù ảo của cuộc đời và những điều tương
tự. Đôi khi họ còn lấy thi hứng từ những nhà thơ Trung Quốc như Đào Tiềm (365 -
427), Lý Bạch (701-762), Đỗ Phủ (713-770) và những nhà thơ đời Tống. Các đề tài
này có lẽ đều mang tính ước lệ nhưng cách làm và thủ pháp lại khác nhau tuỳ thuộc
vào mỗi nhà thơ.
Bậc thầy của thể loại thơ Sijo vào thế kỷ 17 hiển nhiên là Yun Son Do (Duẫn

Thiện Đạo: 1587-1671), một nhà thơ tài năng và sáng tạo thuộc vào loại bậc nhất trong
các nhà thơ Triều Tiên. Những bài thơ trữ tình của ông thể hiện nhiều tâm trạng và
phương pháp đa dạng, những bài thơ thành thục của ông tràn ngập trong các kiểu viết
cực kì tinh tế. Ngôn ngữ của ông giản dị nhưng mãnh liệt, bình thường nhưng quý phái
và sự lựa chọn bậc thầy những ngôn từ chính xác của ông mới thực là vô song. Những
vần điệu khác nhau tinh tế và tao nhã cùng những bài thơ miêu tả những lối diễn đạt và
thủ pháp mới là điều tự nhiên vốn có trong ông. Số lượng những bài thơ mà ông để lại
là 75 bài. Yun còn được công nhận là người khám phá ra cái đẹp của ngôn ngữ Triều
Tiên. Những tiềm lực còn ẩn giấu của nghệ thuật đời thường được ông khai thác một
cách trọn vẹn và một cách chắc chắn rằng ông không chỉ thúc đẩy sự tiến bộ mà còn
hoàn chỉnh nghệ thuật thơ Sijo.
Từ thế kỷ thứ 18 thơ Sijo bước vào một giai đoạn phát triển mới. Kỉ nguyên này
tương đương với giai đoạn xuất hiện thể loại tiểu thuyết của giai cấp trung lưu. Trong
thơ ca nó có nghĩa là sự thoái lui của tầng lớp quý tộc, những kẻ đã chi phối văn đàn
trong nhiều thế kỷ cùng với sự xuất hiện của các nhà thơ thuộc tầng lớp trung lưu và
tầng lớp dưới. Những nhà thơ mới này đã cải tiến thơ Sijo một cách tự do với những
giai điệu đương đại. Ngôn ngữ của họ giản đơn và trực tiếp, họ cũng chẳng ngại gì mà
không dùng những ngôn từ thô mộc. Lối diễn đạt của họ thường đầy khoái lạc, tác
phẩm của họ mang đậm tính hiện thực và đầy hài hước. Những người làm hợp tuyển
nổi tiếng Kim Ch’on - ta’ek (Kim Thiên Trạch) và Kim Su Jang (Kim Thọ Tường) đặc
biệt chú ý không chỉ là thơ Sijo mà cả âm nhạc thời đại. Họ nhấn mạnh đến nhạc tính
của thơ Sijo, sáng tác cả ca từ đến giai điệu, họ hát lên những tác phẩm của mình có
nhạc đệm trước đông đảo khán giả.
Hai nhà thơ nổi lên vào cuối thế kỷ 19 là Pak Hyo-gwan (Phác Hiếu Khoan) và
An Min-yong (An Mai Anh) có vị trí nổi bật trong lịch sử thơ Sijo, họ còn được cho là
những người đã đạt đến đỉnh cao của thơ Sijo trước khi triều Lý sụp đổ. Thơ Sijo hiện
giờ vẫn còn là một thể thơ cổ điển rất được ưa chuộng
6. Cảm nhận, phân tích vẻ đẹp ngôn từ của một số bài sijo và so sánh đối chiếu
các bản dịch
GIÓ TRÊN XUÂN SƠN

1
(Woo Thaec)
        
    
1
     
 Là một từ sử dụng nhiều trong sijo. Nó không mang một nghĩa nhất định, không
có nghĩa thường được thêm vào như một cách để tạo câu hỏi tu từ.
 và : , : chốc lát
 sương giá
 già cỗi
DỊCH NGHĨA
Ngọn gió đùa giỡn làm tuyết tan trên núi xuân, không có nơi để đi
Tôi thầm cầu xin và mong rằng ngọn gió hãy thổi lên mái đầu của ta đi
Và ngọn gió sẽ thổi mái đầu bạc trắng từ lâu của tôi thành màu đen
( ngọn gió sẽ thổi tan sương giá già cỗi trên đầu tôi)
DỊCH THƠ
Trên xuân sơn gió đùa thổi tuyết,
Tuyết tan rồi chẳng biết về đâu
Này gió ơi ta khẽ khẩn cầu,
Ngang qua đầu thổi tung tóc rối
Rồi từ lâu tóc này trắng xóa,
Đợi gió về sẽ hóa thanh tân!
Trên xuân sơn, gió thổi tuyết
Tuyết tan rồi gió biết về nơi nao.
Bất giác ta xin nguyện cầu
Gió hãy thổi lên mái đầu của ta
Cho mái đầu bạc hóa trẻ
Như sương giá cũng tan theo gió lùa.
Cảm nhận:

Hình ảnh của ngọn gió xuân thổi tan những băng tuyết mùa đông, để lộ núi xuân
xinh đẹp và thiên nhiên hồi xuân, trẻ lại khi mỗi lần xuân về nhưng tuổi xuân của con
người thì qua đi mà không có sự quay lại, sự tuần hoàn như thiên nhiên. Vì thế tác giả
đã khát khao cơn gió mạnh mẽ có thể thổi bay những sương giá điểm trên tóc, để con
người lại được hồi xuân. Bài thơ sử dụng biện pháp tượng trưng ước lệ, con người già
cỗi cũng như ngọn núi tuyết phủ, tuổi già cũng như sương giá, chỉ là sương giá mùa
đông, phủ mờ lên thân xác con người chứ không phủ mờ lên tâm hồn con người được,
tâm hồn trẻ trung ấy vẫn khát khao tuổi trẻ một cách rạo rực. Bài thơ thể hiện khát
vọng tuổi trẻ. Bài này có tư tưởng khá giống với bài vội vàng của Xuân Diệu. Xuân
Diệu cũng từng than rằng:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời quá hẹp
Không cho dài thời trẻ của nhân gia.
TÁC GIẢ
Woo Thaec (, 1263- 1342); học giả cuối thời Goryo, nổi tiếng am tường về bản
chất con người và qui luật tự nhiên.
THÂN NÀY DÙ CÓ CHẾT
2
(Jeong Mong Ju)
      
    
      
Dịch theo tiếng Hàn hiện đại
    ,      
         ,     ,
         
( />1.  -       -chết đi- sống lại chết đi cả trăm
lần
2.  -        

3. () -  .          .
4. () -    .  
5.   -  .  . Thay đổi, biến chuyển.
Câu này trong một đọan thơ hiện đại dịch là “xin một lòng hướng về người dẫu có biến
chuyển thể nào đi nữa” sử dụng câu hỏi tu từ để khẳng định tấm lòng sắt son không
thay đổi.

DỊCH NGHĨA
Thân thể này dù có chết và chết đến trăm lần
Dù xương trắng hóa thành cát bụi, dù linh hồn còn hay không
Vẫn chân thành hướng về người, người ở phương nao.
2
( Thân xác chết đi sống lại rồi chết đi đến trăm lần)
Và xin một lòng hướng về người dẫu người có ở nơi nao. Vì cấu trúc  trong tiếng
Hàn được dùng để hỏi ý kiến người nghe về việc mình làm cho người nghe.
DỊCH THƠ
Thân này dù có chết
Chết, chết đến trăm lần
Dù xương dần hóa bụi
Dù linh hồn biến tan
Vẫn nồng nàn tha thiết
Hướng về người biết chăng ?
Cảm nhận:
Tác giả sử dụng một số yếu tố của đạo Phật như khái niệm linh hồn, chết đi
sống lại cả trăm lần… những yếu tố này thêm thắt vào trong bài tạo có tác dụng nhấn
mạnh dù có thay đổi lớn lao đến đâu đi nữa dù sống dù chết, thậm chí khi chết rồi linh
hồn có bị tiêu tan hay không vẫn một lòng giữ đạo trung quân. Bài thơ đã sử dụng yếu
tố phật giáo để thể hiện tinh thần “trung quân” của Nho giáo.
Đồng thời ông cũng sử dụng biện pháp tịnh tiến trong bài thơ để nói về lòng chung
thành mãi không đổi.

Chết-> sống lạị rồi lại chết đi cả trăm lần-> đến khi xương trắng-> đến nỗi xương trắng
tan thành tro bụi ( không thể hồi sinh được theo như quan niệm của Phật giáo)-> thậm
chí linh hồn có tan biến thì vẫn mãi một lòng hướng về đức vua của mình. Đuôi câu
“()” hỏi ý kiến của người nghe về hành động của mình. Nó tương tự như loại câu
hỏi tu từ của Việt Nam, có tác dụng tăng thâm mĩ cảm cho bài thơ.
TÁC GIẢ
Jeong Mong Ju (, 1337– 1392); trung thần vĩ đại cuối thời Goryo,sau khi thời thế
đổi thay vương triều khác nên nắm chính quyền ông bị giết hại bởi Lee Bang Won.
Bài thơ này thể hiện tinh thần trung quân của ông sẽ luôn còn mãi dù thời thế đổi thay,
dù ông có chết đi, sống lại rồi chết đi cả trăm lần, dù xương cốt có tan thành tro bụi
( không hồi sinh được nữa theo quan điểm của Phật giáo) nhưng tấm lòng này thì vẫn
hướng về đức vua của mình.
TUYẾT TAN NƠI HẺM NÚI
3
(Lee Saek)
    
    
      
DỊCH NGHĨA
Nơi ngõ nhỏ tuyết đã khô, mây lấp đầy (đen ùn ùn) =: thời tiết xấu có
giông bão, vì vậy nếu dịch là mây đen ùn ùn thì có lẽ sẽ lột tả tốt hơn.
Hoa mai vui vẻ nở nơi nao
Một mình đứng trước hoàng hôn không biết đi đâu.
DỊCH THƠ
Tuyết tan nơi hẻm núi
Những đám mây sần sùi
Tìm cánh mai vui tươi
Biết nơi nào hoa nở?
Một mình ta lỡ bước
Đơn độc trước hoàng hôn

Trong thơ văn cũng như văn hóa Hàn Quốc cũng như phương Đông thường
mang nặng yếu tố con người hòa hợp cùng thiên nhiên, là thực thể nhỏ bé trong vũ trụ
bao la rộng lớn. Bài thơ như vẽ nên một bức tranh thư pháp đẹp đẽ vể cảnh sắc thiên
nhiên mùa xuân sau khi trút bỏ những băng tuyết giá lạnh của mùa xuân. Trước cảnh
đẹp thiên nhiên rộng lớn như vậy con người trở nên bơ vơ, bé nhỏ không biết đi dâu về
3
đâu để tìm tấm lòng quân tử đồng điệu với mình. Bài thơ sử dụng hình ảnh hoa mai –
hình ảnh ước lệ quen thuộc trong văn học phương đông để chỉ người quân tử. Hoa mai
tương truyền là loài hoa ’kiên nhẫn trước lạnh giá của đất trời và lặng thầm lưu giữ tinh
hoa đất trời kiên cường nở trong giá buốt khiến người quân tử phải ‘Đạp tuyết ‘ để
‘tầm mai’./.
MỘT SỐ BÀI THƠ
NƯỚC CHẢY THĂNG TRẦM
4
(Won Cheon Seok)
   
   
     
DỊCH NGHĨA
Nước chảy thăng trầm dù là vạn năm
Vương nghiệp năm trăm năm trải qua bao chìm nổi
Trong bóng hoàng hôn, người khách vừa đi vừa cố kìm nước mắt.
DỊCH THƠ
Nước cứ thăng trầm chảy
Dù có đến vạn niên
Vương nghiệp năm trăm năm
Biến thiên bao chìm nổi
Hoàng hôn buông ngập lối
Khách bước, kìa lệ rơi!
4

×