TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ
KHOA MÁC-LÊNIN
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)
HUẾ, 1998
Lời nói đầu
- Căn cứ vào thông báo số 7785/CTCT ngày 12.9.1998 của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc dạy và học các
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh năm học 1998-1999.
- Căn cứ vào nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên và học viên Cao học, nghiên cứu sinh không chuyên
ngành Mác-Lênin, Bộ môn Triết học Trường Đại học Khoa học Huế biên soạn cuốn: “Hướng dẫn ôn tập Triết học
Mác – Lênin”.
Đây là tài liệu giúp cho người học nắm được một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của Triết học
Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng ta vận dụng vào cách mạng Việt Nam.
Tập thể tác giả xin được đón nhận sự hợp tác và những ý kiến trao đổi, xây dựng của bạn sinh viên, học
viên cao học, nghiên cứu sinh và đồng nghiệp.
Bộ môn Triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ
1
Phần A
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ THẾ GIỚI
Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1. Khái niệm triết học:
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh), theo
chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc
nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ thống tư duy) và
yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và hành động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về những
nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những
quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh
thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích
bản chất, nguyên nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường, những phương
tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất hiện khi năng lực tư duy trừu
tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho phép họ tổng kết và khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ
thống quan niệm, quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài người phát triển
đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao
động này trong thực tế chỉ diễn ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, hay là vấn đề
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào quyết định cái nào? Tùy theo
cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia thành hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước, tồn tại độc lập với ý
thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai
đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường thế kỷ V-
XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX và duy vật mác-xít (biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức là cái có trước và quyết
định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản:
duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong con người) và
duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài
con người và độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi ích và cuộc đấu tranh
của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ
nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức
và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực
lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.
- Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều thừa nhận rằng thế giới có thể
nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc
con người. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.
Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri (không thể biết). Những người
này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức dẫn đến phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
- Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới từ một bản nguyên,
hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được
sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản nguyên tinh
thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ
2
là khuynh hướng nhỏ trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy
tâm.
Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
- Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ thống những nguyên tắc dùng
để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau:
phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng.
Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ phận quan trọng nhất trong hệ
thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh
nghiệm”, về những đối tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn coi siêu
hình học đồng nghĩa với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân
chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Chính cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà
khoa học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên hệ, vận động và phát triển
của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật đưa vào triết học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình.
Như vậy, thuật ngữ “phương pháp siêu hình” được dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho chủ nghĩa duy
vật thế kỷ XVII-XVIII. Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc
không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.
Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một nghệ thuật trong tranh luận,
theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư tưởng biện chứng
khách quan (triết học Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến thế kỷ XVIII,
những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành hệ thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của
những nhà triết học duy tâm cổ điển Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp
triết học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện thực xã hội, tổng kết những thành
quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây dựng lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo
ra phương pháp biện chứng mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến
quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.
- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra trong cách giải quyết mọi vấn
đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của các sự vật hiện tượng; cái này
được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng giữa chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu
hình chỉ nhìn thấy tính cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm được sự
thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất, cái riêng mà không nắm được cái toàn thể,
cái phổ biến, cái chung. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các yếu
tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật toàn diện hơn, thấy được cả sự khác
biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện tượng, nắm được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ
biến, cái riêng và cái chung.
Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật hiện tượng chỉ được xét như
cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển của chúng. Cách xem xét này cho phép phương pháp siêu hình
nắm được tính xác định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến những sai lầm nghiêm
trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển của thế giới; là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm
về lượng, sự lặp lại, mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất thật sự của mọi sự vật, hiện tượng; không vạch ra
được nguồn gốc, động lực, quy luật và xu hướng vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng
xem xét thế giới trong trạng thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng được xét như một
quá trình, trong sự tự vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng:
không chỉ có sự tăng giảm về lượng mà còn có sự phát triển về chất; có sự ra đời của cái mới thông qua phủ định cái
cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng. Nhờ
cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng, vạch ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện tượng; nắm bắt được
nguồn gốc và động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển.
Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là sâu sắc, sinh động và chỉ có
phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự phát triển.
Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò của phép siêu hình. Trong thực
tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình.
Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin
* Tiền đề kinh tế-xã hội
3
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống
kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu và giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc
lập.
Mác nhận xét rằng, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành một cơ thể hoàn chỉnh, làm bộc lộ đầy đủ
các mâu thuẫn trong bản chất của nó. Trước hết là mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội với
quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn
xung đột giữa lao động với tư bản, giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng
với các mâu thuẫn của nó, đã tạo ra một cơ sở hiện thực cho những phân tích và khái quát lý luận trong học thuyết
của Mác và Ăngghen.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó kéo theo sự phát triển của phong trào
công nhân. Đến cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công nhân ở các nước Tây Âu đã có bước
phát triển mới về số lượng và chất lượng. Sự tập trung tư bản cùng với sự hình thành những trung tâm công nghiệp
lớn thu hút công nhân thành lực lượng đông đảo, mâu thuẫn giữa lao động và tư bản trở nên gay gắt làm xuất hiện
những cuộc đấu tranh chính trị ngày càng có tổ chức và tự giác. Các cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức),
ở Liông và Pari (Pháp), phong trào Hiến chương (Anh) vào những năm 30-40 chứng minh rằng: giai cấp công nhân
trở thành lực lượng quyết định các quá trình kinh tế-xã hội-chính trị của thời đại và bước lên vũ đài lịch sử như một
lực lượng chính trị độc lập. Phong trào công nhân thời kỳ này làm bộc lộ sai lầm của quan niệm tư sản về sự hân
hoan chung giữa lao động và tư sản, tạo nên những thay đổi căn bản trong quan niệm về lịch sử của Mác và
Ăngghen; mặt khác, nó đề ra nhu cầu giải thích về những thực tế của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản về tổ chức, con đường và phương tiện cách mạng của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Mác ra
đời đã đáp ứng những đòi hỏi này.
Những phân tích và khái quát lý luận về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân vào
nửa đầu thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọng trong học thuyết của Mác và Ăngghen. Vì vậy, sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản và phong trào công nhân thời kỳ đó là những điều kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đời của triết học.
* Tiền đề lý luận
- Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết học cổ điển Đức. Mác và
Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ của mình, hai ông đã chịu ơn nhiều nhà triết học Đức, trong
đó nổi bật là Hêghen và Phoiơbắc.
Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ bản của phương pháp siêu hình,
đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và xem nó là phương pháp luận đúng đắn của mọi nhận thức khoa học.
Nhưng Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng, triết học Hêghen có những hạn chế lớn, đó là sự giải thích duy tâm về
hiện thực; là sự biện hộ cho những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện
thực và thực tiễn. Cho nên khi sáng lập triết học của mình Mác và Ăngghen đã không kế thừa toàn bộ triết học Hê-
ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời cải tạo và xây dựng lại phép biện chứng trên
lập trường duy vật.
Đánh giá về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các tác phẩm của ông mà họ đã
cương quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao của Phoiơbắc là ở sự phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm-
tôn giáo (nhất là phê phán Hê-ghen), là sự khẳng định cương quyết tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật, là việc
giải thích trên lập trường duy vật bản chất con người, bản chất tôn giáo và đề cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng
Phoiơbắc cũng có những hạn chế lớn, đó là phương pháp tư duy siêu hình, (khi phê phán Hêghen, ông đã không
thấy được phép biện chứng là hạt nhân hợp lý nên đã bác bỏ và chuyển sang quan điểm siêu hình); quan điểm trực
quan, trừu tượng, phi lịch sử về bản chất con người, duy tâm trong lĩnh vực xã hội. Vì vậy khi sáng lập ra triết học
của mình, Mác và Ăngghen cũng không kế thừa toàn bộ triết học Phoiơbắc mà chỉ kế thừa hạt nhân cơ bản đúng đắn
đó là nguyên lý duy vật, đồng thời cải tạo và xây dựng lại chủ nghĩa duy vật dựa trên quan điểm biện chứng.
- Sự ra đời triết học Mác không chỉ do ảnh hưởng của triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc. Mác và
Ăngghen khi tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã rút ra những tài liệu thực tiễn phong phú
cho những kết luận duy vật-biện chứng của mình. Ngoài ra, việc hai ông đi sâu nghiên cứu kinh tế-chính trị học cổ
điển và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán, đã góp phần không nhỏ cho sự hình thành và hoàn thiện thế giới
quan triết học của mình.
* Tiền đề khoa học tự nhiên
Sự ra đời triết học Mác còn được chuẩn bị bởi những thành quả của khoa học tự nhiên. Những thành quả
của khoa học tự nhiên từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX làm bộc lộ những hạn chế của phương pháp tư duy
siêu hình, ngày càng chứng minh tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật và biện chứng.
Phát hiện bằng thực nghiệm của Maye (được Lômônôxốp công bố) về sự bảo toàn vật chất và vận động, lý
luận của Cantơ về sự hình thành thái dương hệ đã góp phần khẳng định quan điểm biện chứng về lịch sử vũ trụ và
giới tự nhiên: mặt khác đả phá quan niệm duy tâm, tôn giáo siêu hình về thế giới.
4
Từ những năm 30 đến 50 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những thành tựu to lớn. Thời kỳ này có
ba phát minh vĩ đại đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống quan điểm siêu hình và chuẩn bị cho sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX phát minh ra quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Quy luật này
chứng minh rằng: lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện, từ các quá trình hóa học, nghĩa là các hình thức khác nhau của
vận động vật chất không tách rời nhau, mà liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau nên không hề mất đi. Nó chứng minh
rằng không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng, mà chỉ có sự chuyển hóa năng lượng từ dạng này sang dạng
khác. Như vậy quy luật này là cơ sở khoa học tự nhiên cho quan điểm biện chứng về thế giới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã phát minh ra học thuyết cấu tạo tế bào của cơ thể
sống. Học thuyết này bác bỏ quan niệm siêu hình về sự khác biệt tuyệt đối giữa thực vật và động vật. Ngược lại, nó
khẳng định sự thống nhất về nguồn gốc và hình thái giữa thực vật và động vật, giải thích quá trình phát triển của
chúng, đặt cơ sở cho quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển của toàn hệ sinh học.
Phát minh lớn thứ ba là học thuyết tiến hóa của sinh giới ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XIX. Học
thuyết tiến hóa chứng minh rằng sinh giới không phải là bất biến mà thường xuyên biến đổi, nằm trong quá trình
tiến hóa không ngừng của giới tự nhiên. Nó khẳng định sự tiến hóa của sinh giới diễn ra theo con đường chọn lọc tự
nhiên và chọn lọc nhân tạo. Lênin đánh giá rằng thuyết tiến hóa đánh dấu sự cáo chung của quan niệm siêu hình về
tính bất biến của các loài và quan niệm về nguồn gốc thần thánh của sinh giới đem lại cơ sở thật sự khoa học cho
sinh học. Mác và Ăngghen xác nhận rằng thuyết tiến hóa đem lại cái cơ sở lịch sử tự nhiên cho học thuyết của hai
ông, đã đập tan thần học trong học thuyết về sự phát triển của thực vật và động vật; rằng trước đó chưa hề có một sự
chứng minh nào thành công to lớn như thế về sự phát triển lịch sử trong giới tự nhiên.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX cũng là tiền đề cho các quan điểm
duy vật và biện chứng về thế giới của Mác và Ăngghen.
Câu 4: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học?
Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành tựu của khoa học tự
nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra triết học của
mình, thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Điều đó thể hiện ở những nội dung sau đây:
- Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư tưởng; một lý luận dẫn đường thực
hiện bước giải phóng giai cấp vô sản về mặt tinh thần. Mác cho rằng, nếu trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai
cấp vô sản, thì khối óc sự giải phóng đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới quan của nó. Triết học Mác là vũ
khí lý luận chung cấp cho giai cấp vô sản những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới, cho nên Mác viết: “giống
như triết học tìm thấy ở giai cấp vô sản là một vũ khí vật chất, giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học là một vũ khí tinh
thần”. Như vậy, với sự ra đời ở triết học Mác, phong trào vô sản đã có một bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào tự
phát, chưa có lý luận, bị lệ thuộc vào tư tưởng, nó trở thành một phong trào tự giác, có lý luận và độc lập về tư
tưởng.
- Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù trung tâm của triết học. Điều đó
làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và khắc phục được những thiếu sót căn bản của triết học trước kia.
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích, mà còn và chủ yếu là vạch ra con đường, những phương
tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Đối với triết học Mác thì thực tiễn có vai trò quyết định mọi sự phát
triển xã hội, khoa học và cả triết học. Không một nhà triết học nào trước Mác hiểu được vai trò quyết định của thực
tiễn đối với lý luận và đối với toàn bộ lịch sử nhân loại. Vì hạn chế đó, các nhà duy vật trước Mác đã rơi vào quan
điểm duy tâm siêu hình khi đề cập đến những vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh lợi ích của giai cấp thống
trị bảo thủ, cho nên nó xa rời thực tiễn, tách khỏi hiện thực, làm cho quần chúng không thấy được những cơ sở vật
chất của các quan hệ bóc lột.
Chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng luôn nhấn mạng vai trò to lớn của hoạt động
tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát triển học thuyết cân đối về mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực
tiễn cách mạng. Lý luận cách mạng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn từ tự phát thành thực tiễn cách
mạng, tự giác. Khi lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng sẽ đem lại cho họ những hiểu biết quy luật của đời
sống xã hội, hướng dẫn họ thực hiện một cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn, lúc đó trở thành
sức mạnh vật chất.
Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có sự thống nhất sâu sắc giữa tính
Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học Mác là sự phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động; đồng thời nó là lý luận cho cuộc đấu tranh của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, đưa nhân loại
lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết học Mác không đối lập với tính khoa học của nó.
Khi phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và phục vụ cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản, triết học Mác phản
ánh đúng yêu cầu và những quy luật khách quan của lịch sử.
Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.
Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, khắc phục những thiếu sót căn bản của triết
5
học trước kia. Trước Mác chủ nghĩa duy vật thì siêu hình, còn phép biện chứng thì lại gắn với lập trường duy tâm,
như vậy chúng tách rời, thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học Mác ra đời mới có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng, tạo ra một triết học phát triển cao hơn về chất so với trước đó.
- Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là biểu hiện rõ rệt nhất của
cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chỉ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện thì chủ nghĩa
duy vật nói chung mới trở thành triệt để. Nó không chỉ khắc phục lập trường duy tâm về xã hội trong triết học trước
đó, mà còn là cơ sở lý luận về phương pháp luận khoa học cho toàn bộ xã hội học, cho hoạt động thực tiễn cách
mạng của giai cấp công nhân và đảng của nó.
- Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng và mối quan hệ của nó với
các khoa học khác. Truyền thống trước đó, triết học được coi là khoa học của mọi khoa học, hòa lẫn hoặc tách rời
với các khoa học cụ thể khác. Triết học Mác không hòa lẫn vào các khoa học cụ thể mà cũng không tách rời chúng.
Trong sự hình thành và phát triển của mình, triết học Mác không chỉ dựa trên sự khái quát thực tiễn xã hội, mà còn
dựa trên sự khái quát của những thành tựu khoa học cụ thể (cả tự nhiên và xã hội). Khoa học cụ thể cung cấp những
tài liệu hết sức phong phú cho triết học Mác nghiên cứu các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan. Đồng
thời triết học Mác cung cấp những hiểu biết về các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp cho các
khoa học cụ thể nghiên cứu có hiệu quả các quy luật đặc thù.
Câu5: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa này.
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học
tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về mặt triết học trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu
hình về vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin
toàn tập, T.18, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.151).
* Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”
- “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phải dưới góc độ của các khoa
học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái
niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt nhận thức luận, Lênin
chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù đối lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương
pháp định nghĩa thông qua cái đối lập với nó). (Xem thêm chương khái niệm ở giáo trình Lôgic hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, Lênin đã bỏ qua những
thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến
nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại với tư cách là thực
tại khách quan”, tồn tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với ý thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt
vật chất với cái không phải là vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính chung nhất của mọi khách thể
vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình thức nó là cái trừu tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất
với các dạng cụ thể của nó giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau đây:
- Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và tính hiện thực cụ thể cảm tính
của phạm trù vật chất. Vật chất không phải tồn tại vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện cụ
thể dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà các giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay
gián tiếp.
- Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra
thực tại khách quan. Điều đó có nghĩa là, vật chất là cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung khách quan
của ý thức.
6
c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác.
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan.
Tức là Lênin đã giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy vật và biện
chứng.
- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước
Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu triết học tư sản hiện đại.
- Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để nghiên cứu xã hội.
- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn vận động và phát triển không
ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các nhà khoa học khi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày
càng làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và
lịch sử-xã hội. Do đó, muốn hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý thức, cần phải xem xét trên cả mặt tự nhiên và
xã hội.
I. Nguồn gốc ý thức:
1. Nguồn gốc tự nhiên:
a. Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người.
- Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật
chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác và ngược lại. Nó được thực hiện trong sự tác động qua lại giữa
các hệ thống vật chất.
- Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Phản ánh của giới vô sinh. Phản ánh này đơn giản, thụ động, không có chọn lọc.
+ Trên cơ sở phản ánh của thế giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh mới cao hơn về chất, đó là
phản ánh của giới hữu sinh. Hình thức phản ánh này gắn liền với quá trình chuyển hóa từ giới vô sinh qua giới hữu
sinh. Hình thức này có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao: kích thích, cảm ứng, tâm lý sơ cấp của động vật
và cùng với quá trình vượn biến thành người, phản ánh của động vật cấp cao chuyển hóa thành phản ánh ý thức của
con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hóa càng cao thì sự phản ánh càng cao; ý thức chỉ
xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người, chứ không phải với mọi dạng
vật chất; ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của vật chất, do đó, không được đồng nhất vật chất với ý thức và cũng
không được tách ý thức ra khỏi vật chất.
b. Khách thể vật chất bên ngoài
Bộ não con người với tư cách là hệ thống phản ánh. Vì vậy, muốn có ý thức thì phải có sự tác động của
khách thể vật chất bên ngoài vào bộ não của con người.
Thế nhưng, tại sao con vật cũng có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài lên bộ não của nó mà lại
không có ý thức? Sở dĩ như vậy là vì khác với tâm lý động vật, ý thức con người ngoài nguồn gốc tự nhiên còn có
nguồn gốc xã hội.
2. Nguồn gốc xã hội.
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ não con người dưới ảnh hưởng
của lao động và ngôn ngữ.
a. Lao động:
- Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, là hoạt động đặc thù của con người, làm
cho con người khác với tất cả các động vật khác.
7
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng các công cụ đó để tạo ra
của cải vật chất.
+ Lao động là hành động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của con
người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích cực, chủ động và sáng tạo.
- Trong quá trình lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy
trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm nảy sinh ở họ nhu cầu giao
tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển cùng với lao động.
b. Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện, là công cụ để con người
giao tiếp trong xã hội, phản ánh khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội, do đó, nếu không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát
triển được.
- Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Sau lao động, đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là
hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành
ý thức” (Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội,1974, tr. 257)
II. Bản chất của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não
người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự
phản ánh sáng tạo, tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con
người so với tâm lý động vật và sự “suy nghĩ” của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định. Song, sự sáng tạo của ý
thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ và theo tính chất của quy luật phản ánh.
Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích, có định hướng, tác động vào sự
vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phải bộc lộ đặc tính, kết cấu, quy luật lao động để phản ánh và nhận thức.
Khi con người nhận thức được quy luật, thì con người vận dụng tri thức đó vào việc cải biến thế giới khách quan
nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình.
Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của vật chất.
a. Vận động là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà nó biểu hiện sự tồn tại của mình.
Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có vận động.
Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị tiêu diệt,
mà vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt.
Nếu một hình thức vận động nào đó của một sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động
khác thay thế, nghĩa là các hình thức vận động của vật chất chỉ chuyển hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của vật
chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình
thức cơ bản: vận động cơ học, vận động lý học, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội. Vận động
xã hội là hình thức có trình độ cao nhất.
Mỗi hình thức vận động nói trên, có trình độ cao thấp khác nhau. Do đó, chúng ta sẽ phạm sai lầm nếu quy
hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên hệ, tác động chuyển hóa qua
lại. Thông qua sự liên hệ, chuyển hóa phổ biến của mọi hình thức vận động trong vũ trụ mà vận động vật chất được
bảo toàn.
Những dạng vật chất phức tạp như cơ thể sống, xã hội loài người bao hàm nhiều hình thức vận động trong
sự liên hệ tác động qua lại, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định. Ví dụ,
8
trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động cơ học, lý học, hóa học, sinh học, song hình thức vận động sinh
học là hình thức đặc trưng cơ bản quy định sự khác nhau giữa cơ thể sống với những dạng vật chất khác.
d. Vận động và đứng im.
Trong khi coi vận động là thuộc tính bên trong vốn có của vật chất, chủ nghĩa duy vật không phủ nhận sự
đứng im, mà coi đứng im như một trường hợp riêng của vận động. Không có đứng im tương đối thì không thể hình
thành các sự vật, hiện tượng riêng lẻ, cụ thể.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Đứng im là tương đối bởi vì:
- Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một
lúc.
- Đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải đối với tất cả
mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động: vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương
đối, khi nó còn là nó mà chưa chuyển thành cái khác.
- Vận động tuyệt đối. Do đó, nó làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, làm cho sự đứng im
tương đối luôn luôn bị phá vỡ. Đứng im chỉ là tạm thời vì: vận động cá biệt có xu hướng trở thành cân bằng, vận
động toàn bộ lại có xu hướng phá vỡ sự cân bằng riêng biệt đó.
Tóm lại, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời, vật chất không thể nào tồn tại như
thế nào khác ngoài cách vận động và vật chất đang vận động đó không thể vận động như thế nào khác ngoài vận
động trong không gian và thời gian, vật chất vận động là vô tận nên không gian và thời gian vật chất cũng vô tận.
Câu 8: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó rút
ra ý nghĩa phương pháp luận.
Khi bàn đến vấn đề này, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
1. Vật chất có trước ý thức, sinh ra ý thức và quyết định ý thức:
- Vật chất tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức, còn ý thức là thuộc tính phản ánh của một
dạng vật chất có tổ chức cao (bộ óc người).
- Vật chất là nguồn gốc, động lực và mục đích của ý thức.
- Trong đời sống xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng
vạch rõ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất.
- Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng:
+ Khi ý thức phản ánh đúng quy luật khách quan thì nó đóng vai trò thúc đẩy sự vận động và phát triển của
thế giới hiện thực khách quan. Trong trường hợp này ý thức giúp cho con người xác định đúng đắn mục tiêu,
phương hướng, biện pháp tổ chức hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả.
+ Khi ý thức phản ánh không đúng quy luật khách quan thì lúc này nó sẽ làm kìm hãm sự vận động và phát
triển của những điều kiện vật chất nhất định.
Hiệu quả của sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thuộc vào các điều kiện sau:
+ Những điều kiện vật chất cần thiết cho ý thức đó thực hiện.
+ Trình độ phản ánh của ý thức đó đối với vật chất, nếu ý thức phản ánh càng đầy đủ, càng chính xác bao
nhiêu thì hiệu quả tác động của nó càng cao bấy nhiêu.
+ Mức độ xâm nhập của ý thức đó vào trong quần chúng nhân dân, mức độ xâm nhập của ý thức càng lớn
thì hiệu quả tác động của nó càng cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
9
- Nếu vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức; còn ý thức là sản phẩm, là sự phản ánh
thế giới khách quan thì trong nhận thức và hành động, con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan, chống lại chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. Do đó, cần phải
phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và
vận động chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh ý thức của con người không phải ở chỗ tách
rời điều kiện vật chất mà là biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan.
- Chúng ta phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ tiêu cực, thụ động.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự lãnh đạo đúng
đắn của mình là phải “luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, (Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1986, tr.30)
Câu 9: Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút ra ý nghĩa phương pháp luận
- Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo quan điểm này, sự vật hiện tượng
trong thế giới về cơ bản không có sự liên hệ, ràng buộc, quy định lẫn nhau. Cho nên đối với phép siêu hình, thế giới
chỉ là một tập hợp rời rạc các sự vật cô lập nhau. Cách nhìn ấy không cho phép chúng ta vạch ra cái chung, cái bản
chất và quy luật của các sự vật hiện tượng.
- Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ bản của nó. Khái niệm liên hệ nói lên sự quy định, ảnh hưởng,
ràng buộc, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy vật phát
biểu rằng: mọi sự vật, hiện tượng quá trình muôn vẻ trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau,
không có cái gì tồn tại biệt lập với cái khác. Điều đó là dễ hiểu, vì vật chất tồn tại thông qua vận động, mà vận động
cũng là liên hệ. Ăngghen viết: “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được, là một hệ thống, một tập hợp các
vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể có liên hệ qua lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động
lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật và quá trình của
hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Phép biện chứng duy vật cũng
chỉ ra rằng, liên hệ của thế giới rất đa dạng, bởi thế giới bao gồm vô số sự vật hiện tượng muôn vẻ khác nhau. Tùy
theo tính chất, vai trò, phạm vi của liên hệ mà người ta phân thành nhiều loại: liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài,
liên hệ cơ bản và không cơ bản, liên hệ không gian và thời gian, liên hệ trực tiếp và gián tiếp… Sự phân loại các liên
hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu của mối
liên hệ phổ biến của thế giới xét như một chỉnh thể. Tuy nhiên, sự phân loại các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của
từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng không như nhau.
Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng duy vật và của
các ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ thuộc phạm vi nghiên cứu của
từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất
của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
- Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối với hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, thì muốn nhận
thức và tác động vào chúng, phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện, một chiều. Quan điểm
toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác; phải xem
xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp của chúng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm bắt
được một cách đầy đủ bản chất của sự vật, tránh được những kết luận phiến diện chủ quan, vội vàng.
Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan mà phải thấy được tính
chất, vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Như vậy, quan điểm toàn diện bao
hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi, phải xét sự vật trong từng liên hệ cụ thể của nó, gắn với
những tính chất, vị trí cụ thể của mối liên hệ cụ thể đó; phải biết phân loại các liên hệ của sự vật để nắm lấy cái cơ
bản, cái có tính quy luật của nó; đồng thời phải xét cả những điều kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất hiện từng liên
hệ quy định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những phương thức cụ thể để tác động đến
sự vật.
Câu 10: Phân tích nội dung của nguyên lý về sự phát triển và rút ra ý nghĩa phương pháp luận
- Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với nguyên lý về sự
phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận động, mà không có vận động thì không có sự phát triển. Nhưng “vận động” và
10
“phát triển” là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm “vận động” khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến
xu hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có
nhiều xu hướng.
Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó chỉ là khái quát những vận động đi
lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Tiêu chuẩn để xác định sự phát triển là có xuất hiện “cái mới” trong những
biến đổi của sự vật hiện tượng. Sự phát triển trong thế giới theo các chiều hướng cơ bản sau: phát triển về trình độ
(từ thấp đến cao), phát triển về cấu trúc (từ đơn giản đến phức tạp), phát triển về bản chất (từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn). Sự phân biệt đó về các chiều hướng chỉ là tương đối, một sự phát triển thường bao hàm cả các
chiều hướng này.
- Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện tượng diễn ra không ngừng trong
tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà nguồn gốc của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật và hiện tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một cách đơn giản, theo đường thẳng.
Xét từng trường hợp cá biệt, thì có những vận động đi lên, tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình,
trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên đây, phép biện chứng
duy vật khẳng định rằng, phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động của sự vật và hiện tượng.
- Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát triển. Cho nên thế giới phát triển là
tự thân phát triển, là quá trình bao hàm mâu thuẫn và thường xuyên giải quyết mâu thuẫn, vừa liên tục vừa có gián
đoạn; là quá trình bao hàm sự phủ định cái cũ và ra đời cái mới. Sự phát triển như là vận động đi lên ra đời cái mới,
nhưng cái mới không đoạn tuyệt với cái cũ mà kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Tất cả những điều đó nói
lên tính chất phức tạp của sự phát triển, nhưng bao giờ cũng theo khuynh hướng đi lên.
- Đối lập với quan điểm trên đây của phép biện chứng; phép siêu hình nói chung phủ nhận sự phát triển,
tuyệt đối hóa tính ổn định của các sự vật hiện tượng. Nếu có thừa nhận sự phát triển, thì phép siêu hình cho rằng đó
chỉ là sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại mà không có chuyển hóa về chất, không có sự ra đời cái mới thay thế cho cái
cũ. Lênin nhận xét rằng, quan niệm siêu hình là cứng nhắc, nghèo nàn, khô khan, chỉ có quan niệm biện chứng là
sinh động, mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại, của những “bước nhảy vọt”
và “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của “sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh
ra cái mới”. Cũng vì vậy mà ông nhấn mạnh rằng, phép biện chứng là học thuyết “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và
không phiến diện về sự phát triển”.
- Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, giúp cho chúng ta nhận thức rằng, muốn thực sự nắm được bản
chất của sự vật hiện tượng, nắm được quy luật và xu hướng của chúng phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư
tưởng bảo thủ trì trệ.
Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phải xét nó như một quá trình; đặt nó trong sự vận động, sự
phát triển mới nắm được quy luật và những xu hướng của nó. Quan điểm phát triển còn bao hàm yêu cầu xét sự vật
trong từng giai đoạn cụ thể của nó nhưng không được tách rời với các giai đoạn khác mà phải liên hệ chúng với
nhau mới có thể nắm được logic của toàn bộ tiến trình vận động sự vật. Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh thần
lạc quan tích cực trong thực tiễn, khắc phục mọi sụ trì trệ bảo thủ.
Câu 11: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - ý nghĩa phương
pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là quy luật quan
trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân của phép biện chứng”. Bởi vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực
bên trong của sự vận động và phát triển.
- Khái quát nội dung quy luật:
Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thống nhất của các
mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập đó làm cho sự vật, hiện
tượng vận động, phát triển.
- Phân tích nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- “Mặt đối lập”?
Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối nhau, trái ngược nhau trong một
chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiều yếu tố, nhiều mặt, cấu thành, nhưng có hai mặt đối lập cơ bản
thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật, hiện tượng.
-“Mâu thuẫn”?
11
“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập trong một sự vật, hiện
tượng nhất định.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong tư duy là sự phản ánh mâu
thuẫn của hiện thực khách quan).
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
- Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau.
- Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ ràng buộc với nhau, quy định
lẫn nhau và làm tiền đề tồn tại của nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”, nghĩa là cũng thừa nhận trạng
thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập. Đồng thời cũng thừa nhận sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối
lập.
- Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình đó có thể chia ra nhiều giai đoạn. Mỗi giai
đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. (Xem S.1)
- Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp,
đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh
của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối” (V.I.Lênin toàn
tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.379 - 380). Sự thống nhất của các mặt đối lập có tính chất tạm thời,
thoáng qua, tương đối, cũng như trạng thái đứng im của sự vật, bởi vì mọi sự vật, hiện tượng cụ thể đều có quá trình
phát sinh, phát triển và tiêu vong để nhường chỗ cho các sự vật, hiện tượng khác cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn
về chất ra đời.
Đối lập
Sự khác nhau
căn bản
Sự khác nhau
Chuyến hóa
Các
giai
đoạn
phát
triển
Khuynh
hướng
phát
triển
12
Hệ thống sự vật,
hiện tượng mới
Sự vật, hiện tượng (hệ thống cũ)
S.1 Quá trình phát triển của một mâu thuẫn.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng đều có mâu thuẫn và mâu thuẫn
quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển của sự vật. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói
lên sự vận động, sự biến đổi liên tục của sự vật, hiện tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập là điều kiện quan trọng
nhất, có tính quyết định đối với sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng.
3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết quả của quá trình đấu tranh của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu thuẫn. Sự chuyển hóa
diễn ra dưới nhiều hình thức và tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể.
Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:
+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.
+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự vật mới.
4. Phân loại mâu thuẫn
Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu thuẫn cơ bản:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt, các yếu tố,
các thuộc tính, các quá trình cấu thành nên sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này giữ vai trò quyết định sự vận động,
phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, hoặc giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình giữa sự vật, hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn này không giữ vai trò quyết
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó chỉ có tác dụng ảnh hưởng khi liên hệ được với mâu thuẫn
bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình thành, tồn
tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự
vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành,
tồn tại của vật, hiện tượng và không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển
của sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu và giữ
vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn không chủ
yếu là mâu thuẫn phát sinh và không giữ vai trò quyết định nhưng gây ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát
triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ có trong lĩnh vực đời sống xã
hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn này chỉ được
giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai tầng có lợi ích cơ
bản không đối lập nhau. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng phương pháp hòa bình thông qua giáo dục và đổi mới
xã hội.
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và giải quyết các vấn đề: phương
pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
- Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta, muốn nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng cần phải biết phân tích các mặt đối lập của mâu thuẫn.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phải có biện pháp cụ thể để giải quyết đối với từng loại
mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai đoạn nào của mâu
thuẫn, cũng chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, chứ không phải bằng con đường
điều hòa giữa chúng.
Câu 12: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt: chất lượng (chất) và số lượng (lượng). Từ những thay
đổi dần dần về lượng dẫn sẽ đến những thay đổi về chất và ngược lại; là cách thức của sự vận động và phát triển.
1. Khái niệm chất và lượng
13
a. Khái niệm chất:
- Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.
- Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái niệm thường dùng hàng ngày
hoặc với khái niệm chất liệu.
- Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiều thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiều chất tuy theo những mối quan hệ xác định
- Chất tồn tại khách quan.
- Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
- Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm ngoài sự vật, hiện tượng.
b. Khái niệm lượng
- Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt qui mô, trình độ, tốc độ phát triển của nó, biểu thị
bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố, cấu thành nó.
- Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể, mà lượng còn được nhận thức
bằng khả năng trừu tượng hóa.
- Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những lượng chỉ nói lên nhân tố dường
như bên ngoài sự vật.
- Lượng tồn tại khách quan.
- So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.
* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
2. Tính thống nhất và mối quan hệ phổ biến của lượng và chất.
a. Khái niệm “Độ”
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau, mà tác động
lẫn nhau một cách biện chứng.
- “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và lượng. Nó là giới hạn mà trong đó
sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn “độ” lượng biến đổi nhưng chưa dẫn
đến chuyển hóa về chất.
- Độ cũng biến đổi khi những điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến đổi.
b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về
lượng. Các hình thức cơ bản của sự chuyển hóa:
+ Tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng
+ Sự dung hợp của nhiều lực lượng thành một hợp lực về căn bản khác với tổng số những lực lượng cá biệt.
+ Thay đổi về kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.
- Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi về chất. Sự thay đổi về chất được gọi là
bước nhảy (có 4 loại bước nhảy cơ bản: bước nhảy toàn phần, bước nhảy cục bộ, bước nhảy dần dần, bước nhảy đột
biến), đó là bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng.
- Giới hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy được gọi là điểm nút.
- Sự chuyển hóa đòi hỏi phải có điều kiện.
c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng
Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự thống nhất mới giữa chất và
lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và nhịp điệu phát triển mới của lượng.
Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó là quá trình tác động lẫn nhau
giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại
tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất đang kìm hãm nó, tạo nên chất mới với lượng mới. Như vậy
phát triển là quá trình vô hạn, vừa mang tính liên tục (biểu hiện ở sự biến đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu
hiện ở sự thay đổi về chất).
14
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển là kết quả của quá trình tích lũy về lượng. Trong hoạt động thực tiễn cần chống
lại hai khuynh hướng:
+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ về lượng đã muốn thực hiện bước
nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy, xem nhẹ tích lũy về lượng, dẫn đến các hành động phiêu lưu mạo
hiểm.
+ Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến sự
biến đổi dần dần về lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cải lương và tiến hóa luận.
- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi điều kiện thực hiện bước
nhảy đã chín muồi.
+ Cần phân biệt các bước nhảy trong tự nhiên và trong xã hội.
+ Phải nhận thức đúng đắn các bước nhảy khác nhau về qui mô, nhịp độ.
+ Chống chủ nghĩa giáo điều
Câu 13: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động,
phát triển.
1. Phủ định biện chứng:
- “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Trong đó sự vật, hiện tượng
này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.
- “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Cái mới làm tiền đề,
tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật cho rằng: sự diệt vong của cái cũ và
sự ra đời của cái mới, sự thoái hóa và sự phát triển có liên hệ nội tại với nhau. Không có mặt này cũng không có mặt
kia.
“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn giản là nói không hoặc giả là tuyên bố rằng một
sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó… Cho nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như
thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có khả năng thực hiện được hay trở thành có khả năng thực hiện được”
(Ăngghen “Chống Đuy-rinh”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 230-321).
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
Thứ nhất: Tính khách quan
Thứ hai: Tính kế thừa
Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn vốn có của sự vật và
hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định tuyệt đối, một sự phủ định sạch trơn.
Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng.
2. Nội dung quy luật:
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn vận động, phát triển, quá trình đó cũng là quá trình phủ định
lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu của sự vận động là: cái mới thay thế cho cái cũ, cái mới làm
tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhưng sự phát triển có tính chu kỳ.
a. Tính chu kỳ của sự phát triển:
Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật dường như lặp lại điểm xuất
phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.
┤A → B
(n)
→A’├ →
- Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển. Trình độ mới của (A) phải
qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là giai đoạn cao hơn (A).
- Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.
- (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát
triển mới.
15
- Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần phủ định biện chứng.
b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự vật và hiện tượng. Sự
phát triển đi lên đó không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một hình thức khác ở
một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không theo
đường thẳng (Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ, Maatsxcơva, 1981, tr.65).
- “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến
lên của sự vận động.
- “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự vật. Mỗi vòng mới của
đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà
rất quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, nhiều khâu trung gian.
- Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội, các quá trình diễn ra phức tạp,
nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định sẽ xuất hiện. Cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích
cực của cái cũ. Phải biết phát hiện cái mới, duy trì và phát triển cái mới.
- Phải có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Tránh nhìn đơn
giản trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội. Cần chống lại hai khuynh hướng:
kế thừa không chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.
Câu 14: Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận
1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ giống nhau ở
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất
nhất định, mà không lặp lại ở kết cấu khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và quan hệ biện
chứng với nhau.
- Cái chung thì tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại,
nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Không có cái chung thuần túy, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái
riêng.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, bao hàm cái chung. Điều đó cho thấy là cái
riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác mà bất cứ
cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ đưa tới cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn
tới cái chung mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng loại khác.
- Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung vì vậy cái riêng phong
phú hơn cái chung. Bởi ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn giữ lại những đặc điểm riêng
biệt mà chỉ nó mới có. Trong khi đó, cái chung phải là cái sâu sắc hơn vì nó phản ánh những mối liên hệ ở bên
trong, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại, nó gắn liến với các cái riêng, quy định sự tồn tại và phát triển của sự
vật.
- Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể biến
thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Sỡ dĩ có tình trạng này là do trong hiện thực
cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay trong một lúc mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng đơn nhất cá biệt. Nhưng
theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới trở thành cái chung.
Ngược lại, cái cũ ngày càng mất dần đi từ chỗ là cái chung biến dần thành cái đơn nhất.
- Trong phạm vi khái quát của con người, cái được xem là cái chung trong quan hệ này lại có thể được xem
là cái riêng, cái đơn nhất trong quan hệ khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
16
- Không được tuyệt đối hóa cái chung hay cái riêng mà phải thấy được mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
Nếu tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ dẫn đến giáo điều chủ nghĩa, rập khuôn một cách máy móc. Ngược lại nếu tuyệt
đối hóa cái riêng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể phường hội, địa
phương chủ nghĩa và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
- Trong nhận thức và thực tiễn để phát hiện cái chung cần phải xuất phát từ những cái riêng, từ những sự
vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể, và để giải quyết
những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì không lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, để tránh tình
trạng sa vào mò mẫm tùy tiện.
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung
nếu cái đơn nhất đó có lợi, và cũng phải tạo điều kiện để cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất nếu cái chung đó
là lạc hậu.
Câu 15: phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các
sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện:
+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng chỉ là liên
hệ bên ngoài không bản chất.
+ Điều kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng lại có tác dụng
biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết quả, thành hiện thực. Vì vậy, điều kiện là cái không thể thiếu
được cho sự xuất hiện kết quả.
2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:
- Tính khách quan:
Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang vận động quy đến cùng là nguyên nhân
duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình. Và mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có căn cứ của
nó trong những sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Cho nên không có sự vật hiện tượng nào không có nguyên nhân
mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng không có một hiện tượng nào không sinh ra
kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng đều nảy sinh từ những sự vật
hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.
3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng
xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác động.
Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng cũng là biểu hiện của
mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ
nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả.
- Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả thường không phải do
một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết
quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên
nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân.
+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu các nguyên
nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
+ Phân loại nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
17
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết quả không thể xuất hiện. Nó quyết định
những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những mặt,
những đặc điểm nhất thời, tác động có giới hạn và có mức độ vào việc sản sinh ra kết quả.
* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên trong là nguyên nhân tác dụng ngay
bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện trong tiến trình phát triển của sự vật, phù hợp với đặc điểm về chất của
nó. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi nhất định giữa các sự vật
đó.
- Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân-kết quả:
Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những nguyên nhân sinh ra kết
quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi
bởi vì nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên
nhân chính là sự ảnh hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng.
Nguyên nhân và kết quả thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, nên “cái bây giờ ở đây là kết quả thì ở chỗ khác, lúc
khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại”.
Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả chuyển hóa thành nguyên nhân mới
sinh ra kết quả mới, là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và
đâu là kết quả cuối cùng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối quan hệ nhân quả đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể, riêng biệt vì vậy là cơ sở để đánh
giá kết quả của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con đường phát triển của khoa học, khắc phục tính hạn chế của các lý
luận hiện có và là công cụ lý luận cho hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng thì phải tìm hiểu nguyên nhân
xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân sản sinh ra nó.
- Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết quả trong những điều kiện nhất định thì phải nghiên cứu điều kiện để
thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết quả. Phải có quan điểm toàn diện và cụ thể khi nghiên cứu hiện tượng chứ
không được vội vàng kết luận về nguyên nhân của hiện tượng đó.
Câu 16: Phân tích nội dung cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất, do những nguyên nhân bên trong của sự vật, hiện tượng quyết định
và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, chứ không thể khác.
- Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong quyết định mà nó là ngẫu hợp của hoàn cảnh
bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế
khác.
2. Điểm giống nhau và khác nhau giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
a. Khác nhau:
Tất nhiên là cái do chính bản chất của quá trình quyết định. Ngẫu nhiên là cái không do bản chất của quá
trình quy định một cách trực tiếp, không bắt buộc phải có với quá trình đó.
b. Giống nhau:
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều phản ánh những mối liên hệ đặc biệt về chất của thế giới khách quan mà
những mối liên hệ này không nằm trong phạm trù khác. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều do những nguyên nhân xác
định quy định.
3. Phê phán quan điểm sai lầm về tất nhiên và ngẫu nhiên:
- Tuyệt đối hóa tất nhiên, phủ định ngẫu nhiên: Đây là quan điểm sai lầm vì rơi vào “thuyết định mệnh”,
xem con người chỉ là trò chơi của số phận và đã hạ thấp trình độ của tất nhiên xuống trình độ của ngẫu nhiên.
- Tuyệt đối hóa ngẫu nhiên, phủ nhận tất nhiên: Quan điểm này đã xuyên tạc nhiệm vụ của khoa học,
hướng khoa học đi vào con đường thần bí, khoa học chỉ là kết quả của ngẫu nhiên, phục tùng ngẫu nhiên, là chỗ dựa
cho tôn giáo. Đây cũng là điểm tựa của chủ nghĩa bi quan bất lực trước cuộc sống, xa lánh việc làm cách mạng cải
tạo tự nhiên và xã hội.
4. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
18
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại bên ngoài, độc lập với ý thức
của loài người và có quan hệ biện chứng với nhau.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiện sự thống nhất của hai mặt đối lập.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại cô lập mà tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Không
có ngẫu nhiên thuần túy, hay tất nhiên thuần túy. Bất cứ hiện tượng quá trình nào cũng đều là sự thống nhất giữa tất
nhiên và ngẫu nhiên. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường cho mình đi xuyên qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên
bao giờ cũng là hình thức biểu hiện nội dung của cái tất nhiên, làm cho cái tất nhiên đa dạng nhiều vẻ hơn.
- Sự phân biệt giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối. Trong những điều kiện cụ thể, tất nhiên có thể
trở thành ngẫu nhiên và ngược lại.
5. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện theo quy luật nội tại của nó, còn ngẫu nhiên có thể xuất hiện
hay không xuất hiện thì trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên cơ sở những mối liên hệ tất nhiên, phải căn cứ vào
tất nhiên để đề ra phương hướng hoạt động chứ không phải dựa vào ngẫu nhiên và dừng lại ở ngẫu nhiên.
- Con người có thể tạo ra những điều kiện để biến ngẫu nhiên thành tất nhiên cần thiết cho hoạt động thực
tiễn. Và trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên để không rơi vào tình
trạng chủ quan nóng vội, duy ý chí.
- Nhiệm vụ của khoa học là phải vạch ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên, đồng thời giúp con
người ngăn ngừa sự tác động của ngẫu nhiên không có lợi và sử dụng ngẫu nhiên có lợi.
Câu 17: Phân tích nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
1. Khái niệm nội dung và hình thức.
- Nội dung là phạm trù triết học chỉ toàn bộ những yếu tố, những mặt, những mối liên hệ và những quá
trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, phản ánh về kết cấu, trình
độ, tốc độ của nội dung và là hệ thống các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của nó.
Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài, hình thức được nói đến trong cặp phạm trù này là hình thức
bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung. Nội dung cũng không phải là bản thân sự vật, đó là trạng
thái nội tại của sự vật, giữa các yếu tố, các quá trình ở bên trong sự vật có sự tác động lẫn nhau để tạo thành sự vật.
Bởi vậy, nội dung của sự vật là một quá trình chứ không phải là một cái gì bất biến.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
- Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất. Nội dung và hình thức gắn bó hết sức chặt chẽ
với nhau, không tách rời nhau. Không có một hình thức nào lại không phản ánh nội dung, cũng như không có nội
dung nào lại không biểu hiện qua hình thức. Sở dĩ có tình trạng này là do nội dung bao gồm những mặt, những yếu
tố, những quá trình tạo nên sự vật mà hình thức lại chính là hệ thống các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa
tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Vì lẽ đó nội dung và hình thức không thể tách rời nhau.
- So với hình thức thì nội dung là cái quyết định. Thực chất ở đây là nói đến mối quan hệ giữa cái có tính
ổn định và cái thường xuyên biến đổi.
Sự biến đổi và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi từ nội dung. Khi nội dung đã biến đổi
thì hình thức cũng phải biến đổi theo, vì nội dung là cái cơ sở của sự vật. Nhưng hình thức không phải chỉ có vai trò
thụ động đi theo nội dung mà còn có tác động tích cực đến nội dung, ảnh hưởng của nó thường diễn ra theo hai
hướng. Khi hình thức phù hợp với nội dung thì hình thức trở thành động lực tích cực thúc đẩy nội dung phát triển,
ngược lại nếu nó không phù hợp thì nó sẽ cản trở sự phát triển đó.
- Tính độc lập tương đối của hình thức:
Mặc dù nội dung quy định sự biến đổi của hình thức nhưng trong tính bị quy định đó hình thức cũng có
tính độc lập tương đối của nó. Trong quá trình phát triển, hình thức có thể lạc hậu so với nội dung vì không phải bất
kỳ sự biến đổi nào của nội dung cũng ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của hình thức. Hình thức chỉ có thể bị phá vỡ
căn bản khi nội dung biến đổi tới giới hạn nhất định dẫn tới xung đột gay gắt với hình thức hiện có. Cùng một nội
dung có thể được phản ánh qua một số kiểu hình thức khác nhau, hoặc cùng một hình thức có thể là sự biểu hiện
một số nội dung khác nhau.
- Sự chuyến hóa giữa nội dung và hình thức:
19
Hình thức và nội dung là hai mặt đối lập cũng giống như bất kỳ hai mặt đối lập nào, nội dung và hình thức
có sự thống nhất với nhau và chuyển hóa cho nhau. Cái là nội dung trong quan hệ này có thể trở thành hình thức
trong quan hệ khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức. Nội dung quyết định
hính thức cho nên khi xem xét sự vật phải căn cứ vào nội dung, đồng thời phải thấy sự tác động của hình thức đối
với nội dung.
- Cùng một nội dung trong quá trình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại cùng một
hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau, cho nên phải linh hoạt trong việc sử dụng mọi hình thức có thể
có tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Cần chống lại hai thái cực sai lầm là cố bám giữ vào hình thức cũ hoặc
hoàn toàn phủ nhận vai trò của nó trong hoàn cảnh mới mà chủ quan nóng vội thay đổi một cách tùy tiện.
Câu 18: Phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng:
- Bản chất là phạm trù triết học chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tạo thành một
thể thống nhất hữu cơ bên trong, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài những mặt, những mối liên hệ đó.
- So sánh bản chất với cái chung và quy luật:
+ Bản chất là cái chung tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật chứ không phải bất kỳ là cái
chung nào.
+ Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng loại, cùng trình độ. Tuy vậy bản chất và quy luật không bao
giờ đồng nhất với nhau. Bản chất rộng hơn quy luật, bản chất bao gồm nhiều quy luật, là tổng hợp của nhiều quy
luật. Bản chất là cái toàn bộ, quy luật là cái bộ phận. Một quy luật không nói hết được bản chất của sự vật mà chỉ
phản ánh một mặt nào đó của bản chất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ thông qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản
chất. “Bản chất hiện ra, hiện tượng có tính bản chất”. Điều này cho thấy không có bản chất thuần túy nằm ở bên
ngoài sự vật, hoặc là bản chất không phải là cái gì thần bí nằm ở bên trong sự vật mà bản chất nhất thiết phải bộc lộ
ra thông qua hiện tượng và bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của bản chất, biểu hiện một mức độ, một mặt
nào đó, một vòng khâu nào đó của bản chất. Hiện tượng không tồn tại nếu không có bản chất.
+ Bản chất như thế nào thì hiện tượng tương ứng như thế ấy. Bản chất bị tiêu diệt thì hiện tượng do nó sinh
ra sớm muộn cũng bị mất theo và nếu một bản chất mới xuất hiện thì sẽ xuất hiện những hiện tượng mới.
- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Sự đối lập giữa cái bên trong và bên ngoài:
Bản chất là cái bên trong được biểu hiện thông qua các hiện tượng, hiện tượng là cái thể hiện ra bên ngoài.
Tất cả các hiện tượng đều biểu hiện bản chất nhưng biểu hiện một cách khác nhau, có hiện tượng biểu hiện bản chất
một cách trực tiếp đúng đắn, thậm chí có hiện tượng biểu hiện sai lệch bản chất.
Vì vậy muốn nhận thức đúng đắn, khoa học về sự vật thì không thể dừng lại ở một vài hiện tượng riêng lẻ
mà cần phải phân tích tổng hợp các hiện tượng, đi sâu để tìm ra bản chất thực sự của nó.
+ Sự đối lập giữa cái tương đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi:
Bản chất là cái bên trong, cái tương đối ổn định. Hiện tượng là cái thể hiện ra bên ngoài, cái thường xuyên
biến đổi.
+ Sự đối lập giữa cái sâu sắc hơn và cái phong phú hơn:
Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì bản chất là những mối liên hệ tất nhiên bên trong, ổn định, là cái quyết
định sự tồn tại và phát triển của sự vật, được lập đi lập lại trong nhiều hiện tượng khác. Nó biểu hiện quy luật phát
triển chung của các hiện tượng đó.
Hiện tượng phong phú hơn bản chất vì ngoài bản chất chung mà các hiện tượng đều có nó còn chứa đựng
các nhân tố cá biệt mà chỉ riêng nó có.
20
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Nếu bản chất biểu hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng biểu hiện bản chất dưới hình thức cải biến, có
khi dưới dạng xuyên tạc thì nhận thức không được dừng lại ở hiện tượng của sự vật, mà phải xem xét những mối
liên hệ bên trong của sự vật để làm sáng tỏ bản chất ẩn dấu đằng sau hiện tượng. Trong hoạt động thực tiễn không
dựa vào biểu hiện bên ngoài mà phải dựa vào sự hiểu biết những quy luật của sự vật, bản chất của sự vật. Vì lẽ đó
cần phải hết sức thận trọng khi kết luận về bản chất của sự vật.
Câu 19: Phân tích nội dung cặp phạm trù khả năng và hiện thực, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
1. Khái niệm khả năng và hiện thực.
- Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ tới, sẽ xuất hiện khi có
điều kiện thích hợp.
- Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện có, hiện đang tồn tại thật sự.
Như vậy khả năng là cái “chưa có” nhưng không phải bất kỳ cái chưa có nào mà phải hiểu là cái chưa có ở
thời điểm đang xét, là cái sẽ có trong tương lai, khi có điều kiện thích hợp. Theo nghĩa đó, khả năng là tiền đề của
cái mới.
Tuy khả năng là cái chưa có nhưng điều đó không có nghĩa là nó không tồn tại. Các sự vật mà khả năng đó
biểu hiện chưa tồn tại như một hiện thực nhưng bản thân khả năng thì tồn tại. Vì vậy, khả năng cũng là một trạng
thái đặc biệt của hiện thực, trạng thái mà hiện thực mới tồn tại trước khi trở thành chính bản thân mình.
- Phân loại khả năng:
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế (đều tồn tại thực sự, do hiện thực sinh ra). Có những khả năng được
hình thành một cách tất nhiên do quy luật vận động nội tại của sự vật (khả năng tất nhiên), có những khả năng được
hình thành một cách ngẫu nhiên (khả năng ngẫu nhiên). Khả năng tất nhiên bao gồm khả năng gần (đã có đủ hoặc
gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực), khả năng xa (còn phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển
quá độ mới đủ điều kiện biến thành hiện thực)…
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
- Khả năng và hiện thực ở trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, luôn luôn chuyển
hóa lẫn nhau, vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng sẽ biến thành hiện thực. Đó là một quá trình vô
tận. Do đó, sẽ mắc sai lầm nếu tách cái nọ khỏi cái kia. Kết quả là trong hoạt động thực tiễn sẽ không nhìn thấy khả
năng tiềm tàng trong sự vật, do đó không xác định được tương lai phát triển của nó, hoặc không tạo ra những điều
kiện cần thiết để thúc đẩy sự chuyển biến tích cực và không ngăn chặn kịp thời những biến chuyển tiêu cực.
- Cũng trong những điều kiện nhất định ở cùng một sự vật có thể tồn tại một số khả năng vốn đã có ở sự
vật, trong những điều kiện nhất định, khi có thêm điều kiện mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả
năng mới. Ngay trong bản thân mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi, nó có thể tăng lên giảm đi là tùy
thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.
- Quá trình khả năng biến thành hiện thực diễn ra trong tự nhiên không giống như trong xã hội. Ở trong tự
nhiên là một quá trình khách quan, diễn ra tự phát. Trong xã hội, sự chuyển hóa đó phải thông qua hoạt động có ý
thức của con người.
- Trong những điều kiện nhất định, có khả năng tất yếu trở thành hiện thực, nhưng cũng có khả năng có thể
không trở thành hiện thực.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
- Nếu chỉ thấy hiện thực mà không thấy khả năng thì sẽ không dự đoán được tương lai. Nếu thấy khả năng
mà không thấy hiện thực sẽ dẫn đến bi quan. Nếu đồng nhất khả năng với hiện thực thì sẽ ảo tưởng.
- Trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào hiện thực để đánh giá tình hình và phải phán đoán đúng tính
chất và xu hướng của khả năng để phát huy tối đa tính năng động chủ quan, ứng xử kịp thời tránh tư tưởng chờ đợi
thụ động.
Câu 20: Nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý luận.
- Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phản ánh năng động, sáng
tạo dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với khách thể.
21
+ Chủ thể nhận thức: theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung. Hiểu một cách cụ thể, chủ thể là nhóm
người như giai cấp, dân tộc, tập thể, cá nhân… Tuy nhiên không phải bất kỳ con người nào cũng trở thành chủ thể
nhận thức, con người chỉ trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm nhận thức và biến đổi khách
thể.
+ Khách thể nhận thức: không phải toàn bộ hiện thực khách quan, mà chỉ là bộ phận, là lĩnh vực nào đó của
nó ở trong miền hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của chủ thể.
- Thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử-xã hội của
con người nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
+ Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể với
tính năng động của mình tác động làm biến đổi khách thể.
+ Hoạt động thực tiễn đa dạng, song chúng ta có thể chia làm ba hình thức cơ bản:
* Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn có vai trò quyết định và là
cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
* Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh vì
hòa bình…), đây là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn.
* Thực nghiệm khoa học: đây là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong những
điều kiện nhân tạo để tạo ra cơ sở nhận thức, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức.
Nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn. Chính là từ trong hoạt động thực tiễn làm xuất hiện những nhu cầu buộc
con người phải nhận thức thế giới. Vì vậy mà con người nhận thức thế giới thông qua thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những liên
hệ, trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Như vậy, thực tiễn đã đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức,
giúp cho nhận thức nắm được bản chất, các quy luật của thế giới.
Thực tiễn còn làm hoàn thiện giác quan của con người, tạo ra những phương tiện làm tăng khả năng nhận
biết của các giác quan nhờ đó nó thúc đẩy nhận thức phát triển.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Tri thức do nhận thức đem lại chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi áp dụng có hiệu quả trong hoạt động thực
tiễn. Như vậy, nhận thức không phải là để nhận thức mà có mục đích cuối cùng, đó là giúp cho con người trong hoạt
động biến đổi thế giới.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức.
Nhận thức phải thông qua thực tiễn mới kiểm tra được tính chân lý của nó. Chỉ trong thực tiễn, con người
mới xác định được cái đúng đắn, cái sai lầm và giới hạn của tính đúng đắn của mọi tri thức do nhận thức đem lại.
Câu 21: Phân tích con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người thông
qua hoạt động thực tiễn.
Quá trình đó được Lênin khái quát như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”
(V.I.Lênin Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.179)
- Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, gắn liền với thực tiễn
thông qua các giác quan diễn ra với các hình thức cơ bản sau:
+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật hiện tượng tác động vào
các giác quan, gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh
các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng như màu sắc, mùi vị,
- Tri giác là hình thức kế tiếp sau cảm giác. Tri giác là sự phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng
trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Tri giác cũng là sự
phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người.
+ Biểu tượng là hình thức cao nhất của trực quan sinh động. Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu
biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể, khi không còn sự vật hiện
22
tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Ở đây biểu tượng đã ít nhiều mang tính gián tiếp cho nên nó là khâu trung
gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
- Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, bao gồm các hình thức cơ
bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý.
+ Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng. Nó phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản
và phổ biến của một lớp sự vật, hiện tượng nhất định.
+ Phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một qui tắc xác định mà chúng ta có thể xác định được
trị số logic của nó.
+ Suy lý là một thao tác logic tư duy để đi đến những tri thức mới từ những tri thức đã có.
- Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
+ Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp, phản ánh khách
thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại nhận thức lý tính là giai đoạn cao, phản ánh khách
thể một cách gián tiếp, khái quát đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.
+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là các giai đoạn của một quá trình nhận thức dựa trên cơ sở thực
tiễn. Giữa chúng có sự tác động qua lại: nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính
tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò của nhận thức cảm tính) và chủ nghĩa duy lý (đề cao
vai trò nhận thức lý tính).
- Thực tiễn trong quá trình nhận thức:
+ Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân lý hay sai lầm. Ngoài ra, mục đích của nhận
thức là để định hướng cho hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Quay trở về thực tiễn nhận thức mới hoàn thành được chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động
thực tiễn, nhận thức tiếp theo lại được bắt đầu bằng chu trình khác cao hơn.
Câu 22: Trình bày quan điểm của triết học Mác-Lênin về vấn đề chân lý.
1. Khái niệm chân lý:
- Chân lý là những tri thức về thế giới khách quan được phản ánh vào bộ óc người, có nội dung phù hợp với
hiện thực do nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
- Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan. Chân lý khách quan là những tri thức mà nội dung của nó
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Chân lý là một quá trình, vì tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn và còn vì nhận thức của con người là một
quá trình.
2. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.
- Chân lý tuyệt đối là những tri thức có nội dung đúng và phù hợp hoàn toàn với hiện thực mà nó phản ánh.
Có chân lý tuyệt đối vì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức đúng đắn về thế giới khi có đầy đủ các điều
kiện.
- Chân lý tương đối là tri thức đúng nhưng chưa phù hợp hoàn toàn với hiện thực khách quan do nó phản
ánh. Sự phù hợp giữa nội dung của nó đối với khách thể được phản ánh là sự phù hợp bộ phận, ở một số mặt nhất
định.
+ Tính tương đối của chân lý biểu hiện ở chỗ nó phản ánh sự vật tồn tại trong một phạm vi có giới hạn,
trong những điều kiện xác định về không gian và thời gian, vì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế
giới nhưng không phải nhận thức diễn ra một lần là xong mà là quá trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn
về sự vật và hiện tượng.
3. Quan hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.
- Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối đều là chân lý khách quan.
- Chân lý tuyệt đối là tổng vô hạn các chân lý tương đối.
- Trong mỗi chân lý tương đối mặc dù là tương đối nhưng bao giờ cũng có những yếu tố của chân lý tuyệt
đối.
23
- Sự khác biệt giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không thuộc về bản chất mà ở mức độ phù hợp
giữa chúng với khách thể. Sự khác biệt đó về mức độ phù hợp giữa chúng với khách thể bao giờ cũng tồn tại, nhưng
thường xuyên được xóa bỏ trong quá trình tiến lên vô hạn của nhận thức.
- Khi thừa nhận sự thống nhất giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối, điều đó cũng có nghĩa là sự thừa
nhận tính cụ thể của chân lý.
4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
- Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Nhờ thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm.
- Thực tiễn có vai trò như vậy, vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là “hiện thực trực tiếp”, nhờ đó mà
thực tiễn có thể “vật chất hóa’ được tri thức, biến các tri thức thành các khách thể vật chất có tính xác thực cảm tính.
- Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn
khách quan duy nhất; tương đối vì bản thân thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp
tục bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.
Phần B
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ XÃ HỘI
Câu 23: Khái niệm quy luật xã hội? Phân tích mối quan hệ giữa quy luật xã hội và hoạt động có ý
thức của con người.
- Khái niệm quy luật xã hội:
Quy luật phát triển của xã hội là những mối liên hệ khách quan, bản chất và tất yếu, lặp đi lặp lại giữa các
hiện tượng của đời sống xã hội.
Con người tự làm ra lịch sử của mình, nói cách khác lịch sử loài người là những hoạt động của con người
theo đuổi những mục đích của bản thân mình.
Trong xã hội, con người (dân tộc, giai cấp, đảng phái, ) hành động một cách có ý thức, theo đuổi những
mục đích nhất định, do những tư tưởng dẫn dắt. Nhưng bản thân các hệ tư tưởng đều phản ánh những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội.
Trong xã hội, con người phải quan hệ với nhau và trong vô vàn các mối quan hệ giữa con người với con
người và con người với tự nhiên, thì quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, nền tảng, mà các quan hệ sản xuất lại thuộc
về lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nghĩa là nó tồn tại một cách khách quan tất yếu, độc lập với ý chí của cá
nhân, tập đoàn, giai cấp trong xã hội.
Các hiện tượng đa dạng của xã hội dù có vẻ ngẫu nhiên đến đâu, rốt cuộc cũng tuân theo một khuynh
hướng chung nhất định, tức là vẫn thể hiện tính quy luật.
- Đặc điểm của quy luật xã hội:
+ Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự động không có sự tác động của con người. Quy luật xã hội diễn ra
thông qua hoạt động của con người có ý thức, nhưng không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Quy luật xã hội không biểu hiện ra trực tiếp ở từng hiện tượng đơn lẻ, từng con người mà thường biểu
hiện ra như một xu hướng. Do đó, nếu không gian càng rộng, thời gian càng dài thì quy luật biểu hiện càng rõ.
+ Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở của các quy luật xã hội.
+ Quy luật xã hội phát huy tác dụng trong những điều kiện cụ thể, những điều kiện đó không ngừng thay
đổi, từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Trong một hình thái kinh tế-xã hội thì các
điều kiện ở mỗi nước cũng khác nhau, do đó quy luật phát huy tác dụng khác nhau.
- Mối quan hệ giữa quy luật xã hội và hoạt động của con người có ý thức:
Khẳng định sự tồn tại và tác động của các quy luật xã hội trong quá trình lịch sử thì điều đó không có nghĩa
là phủ nhận vai trò của những hoạt động có ý thức của con người. Trái lại, sự phát triển của lịch sử đã xác nhận vai
trò ngày càng tăng lên của nhân tố chủ quan, những hoạt động có ý thức của con người.
Quy luật xã hội hình thành và chi phối một cách tất yếu các hoạt động của con người, nói cách khác, tất cả
mọi hoạt động của con người đều phải đối mặt với tính tất yếu, quy luật. Do đó, con người muốn đạt đến tự do trong
hoạt động của mình, con người phải xử lý đúng mối quan hệ giữa tự do và tất yếu.
24
“Hoạt động tự do, có ý thức là đặc tính của con người” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1980, T.1, tr.118). Nhưng tự do không phải là độc lập với quy luật, bất chấp quy luật mà là nhận thức đúng quy luật
và vận dụng các quy luật để cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Ăngghen viết: “Tự do không phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự
nhận thức được những quy luật đó và ở cái khả năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc những quy luật đó tác
động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định. Điều đó là đúng với những quy luật của tự nhiên bên
ngoài, cũng như đối với những quy luật chi phối tồn tại vật chất và tinh thần của bản thân con người, hai loại quy
luật mà chúng ta nhiều lắm cũng chỉ có thể tách cái nọ ra khỏi cái kia trong quan niệm chứ không thể tách ra trong
thực tế được. Như vậy tự do của ý chí chẳng qua chỉ là cái năng lực quyết định một cách hiểu biết” (C.Mác,
Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, T.5, tr.163).
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tự do là một sản phẩm của lịch sử. Ở buổi đầu của lịch sử do chưa có
hiểu biết, con người là “nô lệ” của giới tự nhiên, nhưng càng ngày con người càng có nhận thức sâu sắc về các quy
luật của tự nhiên, quy luật của xã hội, vận dụng các quy luật để cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội theo đúng tính tất
yếu của nó. Và do đó, hoạt động của con người càng tự do hơn. Tự do là cái tất yếu được nhận thức.Tức tự do là
nắm vững và hành động phù hợp với tất yếu.
Câu 24: Khái niệm phương thức sản xuất? Tại sao nói phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội?
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với tự nhiên và với nhau trong sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử phát triển của sản
xuất, lịch sử vận động của các phương thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, là lịch sử của quần chúng nhân dân lao
động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Do đó, muốn hiểu lịch sử phát triển của xã hội loài người,
trước hết phải hiểu lịch sử phát triển của sản xuất, hiểu quá trình sản xuất của con người qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau.
Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên, vận động và phát triển theo quy luật đặc thù của nó. Tuy
nhiên, giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật chất. Sự trao đổi đó được thực hiện trong quá
trình lao động sản xuất của con người. Như vậy, nếu tách lịch sử xã hội loài người với lịch sử phát triển của sản xuất
vật chất thì sẽ không thể nào hiểu được loài người phải trải qua những hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao.
Sản xuất vật chất là lực lượng chủ yếu và là động lực cơ bản thúc đẩy lịch sử phát triển, xã hội tiến lên. Đó
là điều kiện quyết định của đời sống con người, là yêu cầu tất yếu khách quan đối với sự sinh tồn của xã hội. Xã hội
không thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, để duy trì đời sống của mình, con
người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất. Vì thế, sản xuất của cải vật chất là một điều kiện cơ bản của mọi xã
hội, là một hành động lịch sử mà loài người phải duy trì từ xưa đến nay.
Xã hội là một hệ thống và trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, tính chất và kết cấu xã hội không phải do
nguyện vọng và ý chí của cá nhân, tập đoàn, cũng không do hình thức nhà nước pháp quyền quy định mà do phương
thức sản xuất quyết định. Phương thức sản xuất thống trị trong mỗi xã hội quyết định tính chất của chế độ xã hội;
các giai cấp, kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính
trị pháp quyền, đạo đức, triết học…
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có phương thức sản xuất đặc thù của nó. Và sự thay thế của các phương thức
sản xuất khác nhau chính là cơ sở của sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội nối tiếp nhau. Điều này chứng tỏ,
phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định trong sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau. Mỗi khi phương thức sản xuất mới ra đời, giai cấp mới lên cầm quyền, kết cấu kinh tế xã hội thay đổi thì
những quan hệ xã hội về mặt chính trị, pháp quyền, tư tưởng, đạo đức, cũng biến đổi theo.
Với ý nghĩa nói trên mà C.Mác đã nhấn mạnh: “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay
đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980,
T.1, tr.380).
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các phương thức sản xuất vận động
phát triển và thay thế nhau từ thấp lên cao.
Câu 25: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của việc vận dụng quy luật này trong thực tiễn ở nước ta hiện
nay.
25