1
ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỐI
VỚI QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
Quân đội nhân dân Việt nam sinh ra và lớn lên trong quá trình đấu
tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng cộng sản Việt nam tổ chức, lãnh đạo,
giáo dục và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt nam. Sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt nam đối với qn đội là vấn đề có tính quy luật, là một trong
những nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, là
nguồn gốc chủ yếu, quyết định sự trưởng thành, chiến thắng của quân đội ta
trong suốt quá trình cách mạng, đồng thời đây là bài học kinh nghiệm quý
báu từ thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu
cầu ngày càng cao; tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến mau lẹ,
phức tạp: “Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân
tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt
động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài
nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức
tạp. Các mâu thuẩn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt” 1. Nhiệm vụ: “Bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh tổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính
trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; giữ vững ổn
định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động bất ngờ” 2. Mặt khác, thời
gian qua do nhận thức, trách nhiệm của một số tổ chức đảng và đảng viên
còn hạn chế, cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với qn đội cịn có
những vấn đề bất cập; mặt khác, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
1
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qun quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H àn qu N ội 2006, tr 73 - 74.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qun quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H àn qu N ội 2006, tr 108 - 109.
2
đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ chống
phá cách mạng nước ta. Mục tiêu hàng đầu của chúng là xoá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt nam đối xã hội Việt Nam nói chung và Quân
đội nhân dân Việt Nam nói riêng, làm cho quân đội phai nhạt lý tưởng, bản
chất giai cấp cơng nhân, mất phương hướng chính trị, khơng xác định được
mục tiêu chiến đấu. Do đó, đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là
tất yếu khách quan. Trong các nghị quyết của các đại hội Đảng, trong cương
lĩnh của Đảng và trong rất nhiều văn kiện khác của Ban Chấp Hành Trung
ương của Bộ chính trị, Ban bí thư quan điểm về sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội tiếp tục được khẳng định và ln
ln phát triển. Từ đó địi hỏi cơ chế Đảng lãnh đạo Quân đội cũng phải
được không ngừng đổi mới, kiện toàn và hoàn thiện.
Chủ nghĩa Mác - lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh khi bàn về vấn đề giai
cấp và đấu tranh giai cấp, về chiến tranh và quân đội khẳng định: lịch sử xã
hội loài người từ khi có sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp là lịch sử
đấu tranh giai cấp. Các giai cấp đấu tranh giành quyền lợi, địa vị thống trị xã
hội, cuộc đấu tranh giai cấp phát triển từ thấp đến cao, đến một trình độ nhất
định thì cách mạng xã hội nổ ra. Nhà nước, quân đội ra đời nhằm bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ quân đội chưa hình
thành rõ nét, nhưng đến chế độ phong kiến và đặc biệt là chế độ tư bản chủ
nghĩa thì quân đội phát triển mạnh. Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, để thực
hiện được bản chất " hiếu chiến, xâm lược, phản động" của mình, chúng đã
tổ chức ra quân đội, xây dựng quân đội làm công cụ bạo lực bảo vệ nền
thống trị của mình và tiến hành chiến tranh chinh phục các nước khác, chiếm
lĩnh thị trường, vơ vét tài nguyên, buộc các nước khác phải phụ thuộc.
Chiến tranh bao giờ cũng là sự kế tục của chính trị, gắn với chính trị,
khơng có cuộc chiến tranh nào lại khơng gắn với chính trị. Xét đến cùng thì
ngun nhân của chiến tranh bắt nguồn từ kinh tế, vì lợi ích kinh tế, nhưng
3
chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, mâu thuẫn kinh tế dẫn đến mâu
thuẫn chính trị. Trong các cuộc chiến tranh giữa hai nước, hai lực lượng, hai
chế độ dưới các hình thức khác nhau bao giờ cũng bắt nguồn từ mâu thuẫn
kinh tế dẫn đến mâu thuẫn chính trị, mâu thuẫn chính trị phát triển cao, các
hình thức giải quyết khơng cịn hiệu lực đó là lúc các nhà nước, các lực
lượng, các chế độ xã hội dùng đến sức mạnh bạo lực, dùng đến quân đội để
giải quyết mâu thuẫn, đè bẹp ý chí của đối phương. Đây là hiện tượng phổ
biến, mang tính quy luật, cho nên những người cách mạng không được phép
mơ hồ, ảo tưởng. Bởi vì, qn đội là cơng cụ bạo lực của nhà nước, ra đời
cùng với nhà nước, sức mạnh của nhà nước trước hết biểu hiện ở sức mạnh
quân đội, do đó quân đội bao giờ cũng là của một giai cấp, một nhà nước
nhất định, mang bản chất của giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, ni dưỡng
và lãnh đạo nó. Qn đội của giai cấp thống trị mang bản chất của giai cấp
thống trị. Khơng có qn đội phi giai cấp, siêu giai cấp, qn đội của nhiều
giai cấp, qn đội đứng ngồi chính trị. Tức là quân đội của giai cấp nào thì
mang bản chất giai cấp ấy, quân đội của giai cấp tư sản mang bản chất của
tư sản, còn quân đội của giai cấp cơng nhân thì mang bản chất của giai cấp
công nhân. Bất cứ một giai cấp nào tổ chức ra nhà nước, quân đội thì bao
giờ cũng quan tâm đến việc xây dựng bản chất giai cấp của quân đội, làm
cho quân đội luôn luôn trung thành với giai cấp. Đối với giai cấp vơ sản
muốn hồn thành vai trị sứ mệnh lịch sử của mình phải tổ chức ra quân đội,
nắm chắc quân đội, lãnh đạo quân đội, sử dụng quân đội làm công cụ bạo
lực để đấu tranh chống lại mọi kẻ thù của giai cấp. Để quân đội mang bản
chất giai cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì bạo lực cách mạng là hiện
tượng phổ biến, là bà đỡ của mọi cuộc cách mạng. Trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”, sau khi chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng: Để thực hiện được sứ mệnh ấy, dưới sự lãnh đạo của
4
Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh chặt chẽ với giai cấp nông
dân, dùng bạo lực cách mạng, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, lập
nên nhà nước chun chính vơ sản, muốn vậy phải tổ chức và lãnh đạo lực
lượng vũ trang, dùng lực lượng đó làm cơng cụ bạo lực để bảo vệ quyền thống
trị của mình đối với xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen công khai tuyên bố rằng:
“giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách lật đổ giai cấp tư sản
bằng bạo lực”1 và “những người cộng sản không tự giấu giếm ý kiến và dự
định của mình, họ cơng khai tun bố rằng mục đích của họ (tức giai cấp vơ
sản) chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực cách mạng, lật đổ tồn bộ trật
tự của xã hội hiện có tức xã hội tư bản”2. Hai ông cho rằng, để củng cố, giữ
vững địa vị thống trị của mình, tiến hành chiến tranh xâm lược, giai cấp tư sản
đã xây dựng một bộ máy khổng lồ bao gồm quân đội, cảnh sát, nhà tù…, muốn
đập tan bộ máy ấy, giai cấp cơng nhân khơng có cách nào khác là phải dùng
đến bạo lực cách mạng để chống bạo lực phản cách mạng. Tuy nhiên, khi nhấn
mạnh vai trò của bạo lực cách mạng, hai Ông cũng đề cập đến khả năng giành
chính quyền bằng phương pháp hồ bình, nhưng đây là một khả năng rất quý
và hiếm, nó chỉ xuất hiện khi có các điều kiện khác kèm theo. Để có bạo lực
cách mạng, giai cấp vô sản tất yếu phải có lực lượng vũ trang, lãnh đạo lực
lượng vũ trang đó cùng với nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai cấp thống
trị và bảo vệ thành quả cách mạng. Trong thư của Ban Chấp hành Trung ương
gửi “Đồng minh những người cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh:
“công nhân cần phải được vũ trang có tổ chức, cần phải trang bị súng trường,
các bin, đại bác và đạn dược” rằng “công nhân cần phải tổ chức lại thành
những đội quân vô sản độc lập”3. Như vậy, quan điểm của các ông là trong
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản tất yếu phải được giải
quyết bằng bạo lực vũ trang.
C.Mác v àn qu Ph. Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb sự thật, Hàn qu nội, 1980, tr. 555
C.Mác v àn qu Ph. Ăngghen, Tuyển tập, tập 4, Nxb sự thật, Hàn qu nội, 1980, tr. 591
3 C.Mác v àn qu Ph. Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb sự thật, H àn qu n ội, 1970, tr. 122
1
2
5
Kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện
lịch sử mới, V.I.Lênin đã khẳng định: “bạo lực như C.Mác nói là bà đỡ cho
mọi xã hội đang thai nghén một xã hội mới, là công cụ mà phong trào xã hội
dùng để mở đường cho mình và phá tan hình thức chính trị cứng đầu” và
“khơng có bạo lực thì giai cấp vơ sản khơng thể chiến thắng được” 1. Sau cách
mạng tháng Mười Nga, V.I.Lênin cho rằng: một cuộc cách mạng chỉ có giá trị
khi nó biết tự bảo vệ. Như vậy, V.I.Lênin khơng những khẳng định tính tất
yếu khách quan Đảng phải tổ chức ra quân đội mà cả khi giai cấp vô sản đã
giành được chính quyền. Có thể nói, V.I.Lênin đã khẳng định và phát triển
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen một cách đầy đủ nguyên tắc Đảng lãnh
đạo quân đội. Tính tất yếu của việc xây dựng một tổ chức quân sự của giai
cấp vô sản, đồng thời xây dựng nên hệ thống các nguyên tắc xây dựng quân
đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Vấn đề căn bản nhất trong những
nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin là Đảng Cộng sản phải
lãnh đạo chặt chẽ quân đội về mọi mặt, là đặt quân đội dưới sự lãnh đạo của
Đảng trong mọi tình huống. Đây là tiêu chí để phân biệt quân đội kiểu cũ với
quân đội kiểu mới, quân đội cách mạng với quân đội phản cách mạng.
V.I.Lênin cho rằng quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng trong mọi
tình huống, sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là tất yếu khách quan, là
quy luật nhằm làm cho Hồng quân tuyệt đối trung thành với Đảng với giai cấp
công nhân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh
vì Tổ quốc.
Trung thành với học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản, vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên tắc
những nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin vào điều kiện cách
mạng Việt Nam; kế thừa và phát triển kinh nghiệm truyền thống đánh giặc
mấy nghìn năm của dân tộc. Đảng ta, khi mới ra đời trong cương lĩnh chính
1
V.I.Lênin, To àn qun t ập, tập 4 Nxb tiến bô,M 1980,tr357
6
trị đã chỉ ra con đường đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Trong chánh
cương sách lược vắn tắt của Đảng(2-1930), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
việc: “ tổ chức ra quân đội công nông” 1 và tiếp sau đó là Luận cương chính
trị của Đảng(10-1930) đã nêu vấn đề “vũ trang cho công nông”, “lập quân
đội công nông”, “tổ chức đội tự vệ công nông”. Tại Đại hội I của Đảng năm
1935, Đảng đã ra Nghị quyết về tổ chức và lãnh đạo tự vệ thường trực, Nghị
quyết ghi rõ: công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống
nhất của Trung ương, quân uỷ Đảng Cộng sản…luôn luôn phải giữ quyền
chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong đội tự vệ. Đảng cho rằng, việc tổ chức
ra quân đội, tiến hành đấu tranh vũ trang là một tất yếu khách quan.
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam đối với Quân đội nhân dân Việt
nam là xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tổ chức và hoạt động của
quân đội . Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, mục tiêu chiến đấu là mục
tiêu lý tưởng của Đảng, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chức năng của quân đội ta ngay từ khi mới ra đời đã được Đảng, Bác chỉ ra:
quân đội không chỉ có chức năng chiến đấu mà cịn cả chức năng cơng tác,
trong đó, chức năng chiến đấu là cơ bản nhất. Yêu cầu mới về chức năng nhiệm
vụ của quân đội là bảo vệ đất nước hồ bình và phát triển, thực hiện thành cơng
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh xâm lược bằng sức mạnh mới của chế
độ xã hội chủ nghĩa, của toàn dân bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng mọi
loại hình chiến tranh xâm lược của mọi thế lực thù địch; đồng thời phải làm tốt
chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, tham gia xây dựng
kinh tế, giúp đỡ nhân dân xố đói giảm nghèo, phịng chống thiên tai, xây dựng
chính trị ở cơ sở nhất là ở biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít
người, đồng bào có đạo góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội. Hơn nữa đặc điểm tổ chức, hoạt động của quân đội mang tính chất một tổ
1
Hồ Chí Minh, to àn qun t ập, tập 2, Nxb Sự thật, Hàn qu nội 1987,tr295
7
chức đặc thù của xã hội, hoạt động trong môi trường căng thẳng, quyết liệt,
gian khổ, diễn biến cuộc chiến mau lẹ, khốc liệt có lúc phải hy sinh cả xương
máu. Đồng thời, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng hiện nay hết
sức gay go phức tạp, cho nên vấn đề cấp thiết đặt ra phải xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng ta xác định thường xuyên
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân
đội nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh.
Thực tiễn lịch sử quân đội các nước xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XX và
gần đây đều cho thấy: chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, quân
đội mới giữ vững được bản chất giai cấp công nhân; mới xác định rõ được
mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân;
từ đó mà luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, với chế
độ xã hội chủ nghĩa, không ngừng tăng cường sức mạnh chiến đấu của mình.
Nhưng một khi Đảng cộng sản có những sai lầm trong xác định đường lối
cách mạng, đường lối xây dựng quân đội, xem nhẹ vai trị của cơng tác đảng,
cơng tác chính trị, thiếu quan tâm củng cố sự lãnh đạo hoặc từ bỏ sự lãnh đạo
của mình đối với quân đội, thì quân đội nhanh chóng biến chất, mất phương
hướng chiến đấu, bị kẻ thù vơ hiệu hố để khơng cịn là lực lượng chính trị
trung thành, cơng cụ bạo lực của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong bảo
vệ thành quả của cách mạng, của chế độ xã hội chủ nghĩa nữa. Bài học của
quân đội Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong thập niên 90
của thế kỷ XX đã chứng minh chân lý: Đảng Cộng sản cầm quyền không bao
giờ được buông lỏng sự lãnh đạo của mình đối với quân đội. Bất cứ lực lượng
chính trị xã hội nào, giai cấp nào, ở một chế độ xã hội nào khi nắm giữ địa vị
thống trị xã hội thì bằng mọi cách nắm chắc quân đội, giữ quyền tổ chức, lãnh
đạo, chỉ huy quân đội; ngược lại, lực lượng chính trị nào, giai cấp thống trị
nào mà không nắm giữ quyền lãnh đạo, chỉ huy qn đội thì qn đội đó sẽ
biến chất, lực lượng đó giai cấp đó sẽ khơng giữ được địa vị thống trị của
8
mình. Đảng đó khó có thể tồn tại và giai cấp đó sẽ bị sụp đổ. Lịch sử qn đội
Xơ Viết chỉ rõ khi nào Đảng Cộng sản quan tâm chăm xây dựng thì quân đội
thật sự là đội quân hùng mạnh hồn thành xuất sắc nhiệm vụ, điều đó được
thể hiện trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Nhưng, do mắc sai lầm nghiêm
trọng những vấn đề có tính chiến lược, cho nên Đảng Cộng sản Liên Xô để
bọn cơ hội xét lại thao túng, bỏ hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, bỏ việc
thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên, hạ thấp vai trị lãnh đạo trong quân
đội Xô viết dẫn đến Đảng không lãnh đạo được quân đội, đến năm 1991 khi
chính biến xảy ra, một đội quân hùng mạnh như vậy, vũ khí hiện đại như thế
nhưng mất phương hướng chiến đấu dẫn đến quân đội mất sức chiến đấu,
không xác định được mục tiêu bảo vệ, lẫn lộn chủ và kẻ thù.
Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tổ chức và lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt nam là tất yếu
khách quan là một quy luật trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng
kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhìn lại quá trình xây dựng và
trưởng thành ta thấy Đảng ta rất quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng vũ
trang, xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, từ một đội quân ban đầu chỉ
có 34 chiến sĩ vũ khí thơ sơ đến nay đã trở thành đội quân hùng hậu có cơ cấu
tổ chức biên chế hợp lý và hiện đại. Đặc biệt, từ ngày Quân đội được thành
lập cho đến nay Đảng ta luôn luôn khẳng địmh quyền lãnh đạo chặt chẽ quân
đội trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong những điều kiện lịch sử nhất định, về
sách lược, có thể có sự liên hiệp nhất định trong mặt trận, trong chính quyền,
nhưng quân đội là một lực lượng vũ trang của Đảng, công cụ chủ yếu của nhà
nước chun chính vơ sản thì nhất thiết Đảng phải nắm lấy, phải lãnh đạo,
không thể chia quyền lãnh đạo đó cho bất cứ một giai cấp, một tổ chức, một
đảng phái nào khác. Có như vậy, thì sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
mới vững chắc và mới thích hợp với tính chất, đặc điểm của quân đội. Chính
nắm chắc quân đội, lãnh đạo chặt chẽ quân đội mà Đảng đã phát huy được
9
sức mạnh tổng hợp của quân đội, làm cho quân đội luôn mang bản chất giai
cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân,
không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và
Mỹ, hiện nay quân đội ta đang cùng tồn Đảng, tồn dân tiếp tục cơng cuộc
đổi mới,thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay,“ ở khu vực châu á - Thái Bình Dương nói chung và Đơng
Nam á nói riêng, xu thế hồ bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng,
nhưng luôn luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như: tranh chấp về
ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa
các nước; những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước...” 1.Cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra hết sức phức tạp. Nước ta
mở cửa hội nhập giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Song,
chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức mới, đó là, mặt
trái của cơ chế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào nhận
thức, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ. Bên cạnh đó là sau khi chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch đang ráo riết chống phá chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Chúng địi xố bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Địi “phi chính trị hố”
qn đội. Hạ thấp vai trị lãnh đạo của Đảng, địi xố bỏ các tổ chức đảng
trong qn đội, địi xố bỏ sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội, chúng coi Việt Nam là một trọng điểm. Một trong
những âm mưu cơ bản của “diễn biến hồ bình” là “phi chính trị hố” qn
đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội phai
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qun quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H àn qu N ội 2006, tr 74.
10
nhạt bản chất giai cấp công nhân, mất phương hướng chính trị, khơng cịn
là cơng cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng, nhà nước và của chế độ.
Chúng cho rằng nếu không làm cho quân đội suy yếu, dao động về tư
tưởng, mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ…thì khơng thể giành thắng lợi ở
Việt Nam bằng “diễn biến hồ bình”. Với những luận điệu, qn đội là của
dân tộc làm nhiệm vụ chống ngoại xâm chứ không phải để bảo vệ chế độ,
quân đội chỉ mang bản chất nhân dân chứ không mang bản chất giai cấp
công nhân, …thực chất là muốn tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của
Đảng, vơ hiệu hố qn đội, nhằm thực hiện âm mưu đen tối của các thế
lực thù địch. Một vấn đề nữa là, thời gian tới trên thế giới ít có chiến tranh
thế giới nổ ra song chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc,
tôn giáo, lật đổ xảy ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Chính
từ sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ những năm tới đặt ra yêu cầu mới
ngày càng cao đối với việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Nhằm thực hiện tốt phương
hướng xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức
chiến đấu là đòi hỏi tất yếu khách quan. Đây là vấn đề sống còn của quân
đội ta, nó liên quan đến sự mất cịn của độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Do đó, phải: “xây dựng quân đội thật sự là lực lượng chính
trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, nhà
nước và nhân dân được nhân dân tin cậy, yêu mến” 1.Chúng ta phải chủ động
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, đồng
thời sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ khí cơng
nghệ cao. Từ đó đặt ra vấn đề, muốn xây dựng quân đội thì phải tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, Đảng phải khơng ngừng đổi mới,
kiện tồn và hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là vấn đề
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qun quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H àn qu N ội 2006, tr 110
11
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để quân đội trung thành với Đảng, nhà nước
và nhân dân.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt
Nam là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các nguyên tắc xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong các giai đoạn khác
nhau, tên gọi của nguyên tắc có khác nhau, nhưng tư tưởng cơ bản,
xuyên suốt của nguyên tắc là: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy
nhất lãnh đạo quân đội nhân dân Việt Nam trên mọi phương diện.
Nguyên tắc này chi phối tồn bộ q trình xây dựng và hoạt động của
quân đội, đồng thời chi phối các nguyên tắc khác, nó quyết định phương
hướng chính trị, bản chất giai cấp, nội dung hoạt động, mục tiêu chiến
đấu, đối tượng tác chiến của quân đội. Nguyên tắc này nhằm xây dựng,
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất chính trị
xã hội của quân đội, bảo đảm cho Đảng nắm chắc quân đội, lãnh đạo
chặt chẽ quân đội trong mọi tình huống; bảo đảm cho quân đội mang bản
chất cách mạng của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Tổ quốc, với nhân dân, thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân,
có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội còn khẳng định quyền lãnh đạo
Quân đội nhân dân Việt Nam là thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quyền lãnh đạo đó Đảng khơng chia sẻ cho bất cứ một đảng phái, một tổ
chức, một cá nhân nào. Đây là vấn đề có tính quy luật, là trách nhiệm
chính trị của Đảng trước giai cấp, trước dân tộc. Sự lãnh đạo đó là: Đảng
Cộng sản Việt Nam trực tiếp lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam
không qua một khâu trung gian nào, một tổ chức trung gian nào. Vì,
qn đội là cơng cụ bạo lực, một tổ chức vũ trang chiến đấu, tính chất
hoạt động khẩn trương, càng trong chiến tranh hiện đại có sử dụng cơng
nghệ cao thì yêu cầu cũng càng phải cao, do sự thành bại trong chiến đấu
12
phụ thuộc rất lớn vào yếu tố thời gian, vì thời gian là lực lượng, thời
gian đem lại sức mạnh, do đó, chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng mới đáp ứng được yêu cầu trên. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, tư tưởng và tổ chức, các mặt cơng tác qn sự, chính trị, hậu cần, kỹ
thuật, trong mọi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng, lao
động sản xuất, làm nghĩa vụ quốc tế; lãnh đạo mọi tổ chức, mọi lực
lượng, trong mọi điều kiện hồn cảnh. Bất kỳ ở đâu, lúc nào có tổ chức,
hoạt động của qn đội thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo
của Đảng trong quân đội tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung
ương mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sự lãnh
đạo đó được thể hiện bằng cơ chế, tổ chức, bộ máy lãnh đạo đồng bộ,
chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội được thể
hiện ở một số nội dung sau:
+ Đảng xác định đường lối, nhiệm vụ chính trị, quân sự, xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và chiến tranh
nhân dân; xác định nhiệm vụ, mục tiêu chiến đấu, đối tượng tác chiến,
đường lối, phương hướng xây dựng và hoạt động của quân đội.
+ Lãnh đạo, nghiên cứu xây dựng và phát triển nền khoa học quân sự
và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định
: “ Đổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đơi với
cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến
mới; phát triển khoa học quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh
nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của lực lượng chuyên trách, bán
chuyên trách phối hợp với các tổ chức của nhân dân trong bảo vệ an ninh
quốc giai, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.” 1
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qun quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H àn qu N ội 2006, tr 111.
13
+ Lãnh đạo nhà nước, hệ thống chính trị và nhân dân chăm lo xây dựng
quân đội, bảo đảm vũ khí trang bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, hậu cần, tổ chức
ni dưỡng bộ đội và thực hiện chính sách hậu phương quân đội.
+ Lãnh đạo tiến hành công tác cán bộ trong quân đội.
+ Lãnh đạo tiến hành cơng tác Đảng, cơng tác chính trị trong qn đội
nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện nguyên tắc sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
đối với quân đội, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng mà
Đảng định ra cơ chế và không ngừng đổi mới, kiện toàn, hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo sao cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là phương thức lãnh đạo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đối với quân đội trong những giai đoạn cách mạng
được thể hiện bằng hệ thống các nguyên tắc lãnh đạo và Phù hợp với hệ thống
nguyên tắc đó là hệ thống tổ chức hồn chỉnh, hợp lý được tổ chức từ cơ sở đến
toàn quân, nhằm bảo đảm cho Đảng lãnh đạo kịp thời, chặt chẽ quân đội, phát
huy cao độ trách nhiệm của người chỉ huy, nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ
chức đảng, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho
quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Từ khi quân đội được thành lập đến nay, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với qn đội hình thành, phát triển và hồn thiện không ngừng để phù hợp với
sự phát của quân đội ta trong các thời kỳ lịch sử. Trong những năm đầu của
chính quyền cách mạng (1945-1946) các Tỉnh đều có tổ chức bộ đội. Bộ đội
đó do cấp uỷ địa phương trực tiếp lãnh đạo. Đến năm 1947 có hệ thống cấp uỷ
Đảng từ trên xuống dưới. Nhiệm vụ của cấp uỷ là:" Điều khiển và chỉ huy quân
sự, cơng tác chính trị và đảng uỷ trong bộ đội". Tháng 10 năm 1948 đảng quyết
định" lập chế độ chính trị uỷ viên đại diện Đảng phụ trách trong quân đội" với
chức năng "mọi công việc hành động và lãnh đạo của Đảng trong quân đội do
uỷ viên chính trị chịu trách nhiệm..." Tháng7 năm 1952 Đảng ra nghị quyết
14
thành lập chế độ cấp uỷ đảng trong quân đội với chức năng " thực hiện sự lãnh
đạo tập thể thống nhất của đảng về mọi mặt công tác".
Bước sang giai đoạn mới của cách mạng, yêu cầu nhiệm vụ qn đội
ngày càng cao, địi hỏi trình độ chính quy và hiên đại. Trong tác chiến hiện
đại, quân đội phải hành động một cách kiên quyết, khẩn trương, hiệp đồng
chặt chẻ, người chỉ huy các cấp phải xử lý các tình huống một cách chủ động,
quyết đốn, chính xác và kịp thời để giành thắng lợi. Yêu cầu khách quan đó
địi hỏi phải đổi mới và hồn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội. Chấp hành Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V và Điều lệ
đảng, căn cứ vào tình hình các mặt có liên quan, ngày15 Tháng 12 năm 1982,
Bộ Chính trị ra nghị quyết số 07/NQ-TW " về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt nam, sự nghiệp quốc
phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội"
nhằm bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng trong mọi tình huống, phát
huy cao độ trách nhiệm của người chỉ huy, không ngừng nâng cao chất lượng
lãnh đạo của Đảng và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Những vấn đề mới
trong cơ chế này là: Trên cơ sở Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo trực tiếp,
tập trung thống nhất về mọi mặt Quân đội nhân dân Việt nam , thực hiện chế
độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội. Để tăng cường cho chế
độ một người chỉ huy, thành lập Hội đồng quân sự ở Bộ Quốc phịng, các
tổng cục, các qn khu, qn đồn, qn chủng và binh chủng, với tính chất
là một tổ chức lãnh đạo quân sự tập thể; bỏ hệ thống cấp uỷ Đảng từ Quân uỷ
trung ương đến cấp cơ sở. Cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội nhân dân
Việt nam là cơ quan lãnh đạo về Đảng. Các tổ chức cơ sở của Đảng trong
quân đội được thành lập theo đúng Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp
Hành Trung ương. Sau thời gian triển khai thực hiện Nghị quyết 07/NQ-TW
của Bộ Chính trị, qua sơ kết rút kinh nghiệm cho thấy cịn có những nội dung
chưa phù hợp, như việc bỏ hệ thống Đảng dọc trong toàn quân, lấy cơ quan
15
chính trị là cơ quan lãnh đạo về Đảng...Từ thực tiễn đó, ngày 4 tháng 7 năm
1985, Bộ Chính trị Ban Chấp Hành Trung ương đảng ra nghị quyết số 27/NQTW "về việc tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội
nhân dân Việt nam và sự nghiệp quốc phòng" nhằm bảo đảm sự lãnh đạo
vững chắc của Đảng trong mọi tình huống, giữ vững nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, phát huy cao độ trách nhiệm của người chỉ huy và hiệu lực công tác
đảng, cơng tác chính trị, khơng ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân
đội. Về mặt tổ chức, Đảng thiết lập hệ thống tổ chức đảng trong quân đội từ
cơ sở đến toàn quân và lập lại chế độ đảng uỷ trong Quân đội nhân dân Việt
nam. Thực hiện nghị quyết số 27/NQ-TW (khoá V) về việc" tiếp tục kiện toàn
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt nam và sự nghiệp
quốc phòng", các hệ thống tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, cơ quan chính trị
và cán bộ chính trị các cấp trong trong quân đội đã được cũng cố, kiện toàn,
hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo Điều lệ Đảng và các quy định của
Bộ Chính trị, Ban bí thư các khố VI, VII, VIII và IX, góp phần xây dựng
quân đội khơng ngừng lớn mạnh, hồn thành mọi nhiệm vụ được giao. Tuy
nhiên, quá trình thực hiện cũng cho thấy một số vấn đề về chất lượng và hiệu
quả công tác đảng, cơng tác chính trị cịn hạn chế, chưa đáp ứng được sự phát
triển của tình hình. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng xây dựng
quân đội, đặc biệt là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác
chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị- lực lượng chiến đấu
trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và của nhân dân,
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Nhằm đáp ứng
u cầu đó, ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị ra quyết định số 51/NQ TW về việc" tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ
16
một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong
Quân đội nhân dân Việt Nam".
Thực hiện Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị về việc" tiếp tục
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy
gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân
Việt Nam". Đây là chủ trương lớn có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Nghị quyết khẳng định những vấn đề cơ bản nhất về bản chất
cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta; nguyên tắc Đảng lãnh đạo
"Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt" đối với quân đội và nội dung tiếp tục hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với
thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt nam
nhằm tăng cường sức mạnh lãnh đạo của các tổ chức đảng, hiệu lực cơng tác
đảng, cơng tác chính trị và hiệu lực của chế độ một người chỉ huy, đảm bảo
cho qn đội ln là lực lượng chính trị- lực lượng chiến đấu trung thành,
tin cậy bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc và
nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình
huống.
Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị được ban hành trên cơ sở
tổng kết thực tiễn sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW của Bộ
Chính trị (khố V), được Đại hội V, VI, VII Đảng bộ quân đội thống nhất đề
nghị Bộ Chính trị quyết định thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên và
được chuẩn bị nghiêm túc, chặt chẽ cả về tư tưởng, tổ chức, nên đã tạo được
sự thống nhất cao về nhận thức của cấp uỷ, cán bộ chủ trì trong tồn qn.
Mặt khác, từ Đại hội VIII của Đảng đến nay, trong các quy định của Bộ
Chính trị, Ban bí thư về tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân
Việt nam đều xác định phó chỉ huy về chính trị là người chủ trì về cơng tác
đảng, cơng tác chính trị và hầu hết được tổ chức đảng các cấp tín nhiệm bầu
17
làm bí thư, cùng với việc thực hiện xếp hai cán bộ chính trị cấp đại đội, tiểu
đồn đủ qn, nên nhìn chung đội ngũ cán bộ chính trị trong tồn qn có sự
trưởng thành, tích luỹ được kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác
đảng, cơng tác chính trị. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực
hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên.
Những nguyên tắc trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
bao gồm:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ
Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Đây là nguyên tắc chủ yếu nhất, chỉ đạo chi phối đến việc thực các
nguyên tắc khác. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội là "lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt".
Nguyên tắc này xác định vị trí, chức năng quyền hạn của Ban chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là phải lãnh đạo chặt chẽ quân
đội trong mọi tình huống, nắm chắc mọi tình hình, mọi mặt, phải quyết
định mọi vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách, biện pháp lớn đối
với sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội.
Trên cơ sở đường lối nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng,
Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xác định rõ mục tiêu chiến
đấu, đường lối tư tưởng quân sự, đường lối nguyên tắc tổ chức xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, nguyên tắc tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội, chế độ hoạt động công tác đảng, cơng tác chính trị, các tổ chức quần chúng
trong qn đội. Không một chủ trương biên pháp lớn nào chưa thơng qua Ban
chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư mà lại được thực hiện trong
quân đội.
Quán triệt nguyên tắc này thể hiện trên hai mặt. Một là, Đảng uỷ Quân sự
Trung ương phải cụ thể hoá sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương mà
18
thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với quân đội thành những Nghị
quyết, chủ trương, biện pháp, chỉ thị phù hợp với đặc điểm tình hình nhiệm vụ của
quân đội và của các đơn vị trong từng giai đoạn, để các đơn vị quán triệt và chấp
hành. Hai là, các tổ chức đảng cấp dưới, người chỉ huy các cấp, cán bộ, đảng viên
trong quân đội chấp hành sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, trước hết và trực tiếp là thực hiện một cách có hiệu quả các Nghị
quyết, chủ trương, biện pháp lãnh đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
2. Hệ thống tổ chức đảng trong quân đội được tổ chức từ Đảng uỷ
Quân sự Trung ương đến cơ sở, hoạt động theo cương lĩnh, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và pháp luật của nhà nước. Đây là
nguyên tắc chỉ đạo tổ chức hoạt động của các tổ chức Đảng. Đảng uỷ
Quân sự Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định để lãnh đạo mọi mặt trong
quân đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương mà thường
xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Các cấp uỷ đảng trực thuộc Đảng uỷ
Quân sự Trung ương đến cơ sở, cấp uỷ ở cấp nào do đại hội đảng bộ cấp
đó bầu ; trường hợp đặc biệt do cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định.
Đây là nguyên tắc chỉ đạo về tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội theo cơ chế lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Điều lệ Đảng, trong
Nghị quyết, trong quy định của Đảng. Quy định hệ thống tổ chức đảng các cấp
trong quân đội được thành lập tương ứng với tổ chức quân đội, theo đúng Điều
lệ Đảng, Quy định của Bộ Chính trị quy định về tổ chức Đảng trong qn đội.
Theo ngun tắc này thì tồn qn có Đảng uỷ Quân sự Trung ương (gọi
tắt là Quân uỷ Trung ương) do Bộ Chính trị chỉ định, gồm một số Uỷ viên Ban
Chấp Hành Trung ương công tác trong quân đội và một số Uỷ viên Ban Chấp
Hành Trung ương cơng tác ngồi qn đội, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp
Hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Ban thường vụ
Đảng uỷ Quân sự Trung ương có từ 5 - 7 đồng chí. Căn cứ vào Điều lệ Đảng và
sự phân cơng cơng tác của Bộ Chính trị, Đảng uỷ Qn sự Trung ương lập danh
19
sách nhân sự, phối hợp với Ban tổ chức Trung ương đề nghị Bộ Chính trị chỉ
định Đảng uỷ Quân sự Trung ương nhiệm kỳ mới. Nhiệm kỳ của Đảng uỷ Quân
sự Trung ương được tính từ khi Bộ Chính trị chỉ định và kết thúc khi Bộ Chính
trị có quyết định chỉ định Đảng uỷ Quân sự Trung ương nhiệm kỳ mới.
Các cấp uỷ đảng từ cấp trực thuộc Đảng uỷ Quân sự Trung ương
đến cơ sở cấp uỷ ở cấp nào do đại hội đảng bộ( chi bộ) cấp đó bầu; hội
nghị đảng uỷ bầu ban thường vụ, bầu bí thư, phó bí thư trong số uỷ viên
thường vụ và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y; trường hợp đặc biệt
do cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định.
3. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng trong quân đội hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ
trách theo chức trách, nhiệm vụ.
Đây là nguyên tắc quan trọng, chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức sinh hoạt
nội bộ và phong cách làm việc của các tổ chức Đảng trong quân đội. Chấp
hành nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công
cá nhân phụ trách theo chức trách, nhiệm vụ, một mặt bảo đảm phát huy được
tính tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo của các tổ chức đảng và đảng viên
trong trong việc thực hiện đường lối của Đảng, mặt khác bảo đảm sự thống
nhất ý chí và hành động trong Đảng. Đồng thời, nguyên tắc này vừa phát huy
sức mạnh lãnh đạo của tập thể cấp uỷ các cấp, vừa phát huy cao độ vai trò
trách nhiệm của cá nhân phụ trách, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa
tập thể lãnh đạo với tổ chức thực hiện của từng cá nhân theo phân công.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi thiểu số phục tùng đa số, cá nhân
phục tùng tập thể, cấp dưới phục tùng cấp trên...trên cơ sở các Nghị
quyết, chủ trương, mệnh lệnh chỉ thị, kế hoạch điều hành của đơn vị và
chịu trách nhiệm trước cấp uỷ cấp mình và cấp trên.
4. Tổng cục chính trị đảm nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp,
20
thường xuyên là của Đảng uỷ Quân sự Trung ương. ở mỗi cấp có chính uỷ
(hoặc chính trị viên) là người chủ trì về chính trị và cơ quan chính trị đảm
nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị của đơn vị, hoạt động dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ, cơ quan chính trị, chính uỷ (chính trị
viên) cấp trên và sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ cùng cấp.
Đây là nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức hoạt động cơ quan chính trị,
đội ngũ cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên các cấp trong quân đội
nhằm lãnh đạo, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân.
Thực hiện nguyên tắc này, ở các cấp từ cơ sở đến tồn qn có cơ quan
chính trị đảm nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong Qn đội nhân dân
Việt Nam. Cụ thể là: Tồn qn có Tổng cục chính trị đảm nhiệm cơng tác đảng,
cơng tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và
trực tiếp thường xuyên của Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Cấp Quân khu và đơn
vị tương đương có cục chính trị đảm nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở
cấp Quân khu, Quân chủng, Bộ đội biên phịng, Qn đồn, Binh chủng, Bộ
Tổng Tham mưu cơ quan Bộ Quốc phòng, các Tổng cục, Học viên Quốc phòng
hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng uỷ cùng cấp và sự chỉ đạo hướng
dẫn của Tổng cục chính trị. Cấp Sư đồn và các đơn vị tương đương có phịng
chính trị đảm nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở cấp sư đồn và các đơn
vị tương đương, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đảng uỷ cùng cấp và
sự chỉ đạo hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên. Cấp trung đồn và đơn vị
tương đương có Ban chính trị đảm nhiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở cấp
trung đoàn và các đơn vị tương đương, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
đảng uỷ cùng cấp và sự chỉ đạo hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên.
Căn cứ vào Nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp Hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư; sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên; Nghị quyết
của đảng uỷ cấp mình và sự chỉ đạo hướng dẫn của chính uỷ, mệnh lệnh của