Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

tiểu luận cao học : Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.87 KB, 41 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bộ máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa là một hệ thống tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước bao gồm nhiều cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, phương thức hoạt động và phạm vi tác động khác nhau. Hệ thống tổ
chức đó hoạt động như một chỉnh thể thống nhất nhằm tổ chức và quản lý có
hiệu quả mọi mặt đời sống xã hội, theo đường lối của Đảng tiền phong của giai
cấp công nhân, bảo đảm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính
phủ có một vị trí quan trọng. Đây là cơ quan hành chính, có chức năng quản lý
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm thi hành hiến pháp và pháp
luật, thi hành các biện pháp cần thiết bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân… Giúp Chính phủ thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình có các Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của các cơ quan nhà nước, vừa qua, Chính phủ đã ban hành nhiều
văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và tổ chức các cơ quan chuyên
môn ở địa phương.
Việc tìm hiểu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ không
chỉ giúp tổ chức và công dân thấy được vị trí của cơ quan đó trong cơ cấu tổng
thể bộ máy nhà nước mà còn có những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc và giao
dịch với các cơ quan nhà nước. Đồng thời cũng góp phần giúp công dân thực
hiện quyền giám sát hoạt động của các cơ thuộc Chính phủ.
Do vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Chính phủ cũng
như cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong bộ máy nhà nước ta hiện
nay là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách, cơ bản lâu dài. Xuất phát từ ý
nghĩa lý luận và thực tiễn thời sự của vấn đề, người nghiên cứu đã chọn vấn đề
“Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của tiểu luận môn “Quyền lực chính trị và cầm quyền”.
1




2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay việc nghiên cứu về Chính phủ cũng như cơ cấu tổ chức,
hoạt động của Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,
nhưng không vì thế mà vấn đề này trở thành đề tài cũ, không cần phải quan
tâm. Các công trình nghiên cứu về Chính phủ đi trước một là nghiên cứu rộng
về vấn đề này do vậy không thể đi sâu, hai là nghiên cứu về một khía cạnh của
Chính phủ do vậy có điều kiện nghiên cứu sâu sắc hơn nhưng lại hẹp. Vì vậy
nghiên cứu về việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam là
một đề tài rất phong phú và rất thiết thực, nhất là trong thời đại ngày nay. Xung
quanh vấn đề này có các công trình nghiên cứu của các cá nhân, tập thể tiêu
biểu sau:
Năm 1995, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho ấn hành công trình
nghiên cứu của khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính tri Quốc gia Hồ
Chí Minh về “Nhà nước và pháp luật Xã hội Chủ nghĩa”. Công trình này trình
bày hệ thống các vấn đề lý luận về Nhà nước và Pháp luật Xã hội Chủ nghĩa,
trong đó có bàn về tổ chức và hoạt động của Chính phủ với tư cách là cơ quan
chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất.
Năm 2001, Nhà xuất bản khoa học xã hội đã cho ấn hành công trình
nghiên cứu của TS Lê Minh Thông, viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật
thuộc trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia về “Một số vấn đề về
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bô máy nhà nước nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Công trình này đã đề cập và phản ánh về thực trạng tổ
chức và hoạt động của Chính phủ, đưa ra một số phương hướng hoàn thiện cơ
cấu tổ chức của Chính phủ và một số đề xuất cơ bản.
Năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã ban hành công trình
nghiên cứu của Văn phòng Chính phủ thuộc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về cuốn “Sổ tay công tác Chính phủ”. Cuốn sách đã trình
bày một cách cơ bản, khái quát những vấn đề chung về nguyên tắc tổ chức và

phương thức hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng, Phó
Thủ tướng, các bộ, ban, ngành.

2


Năm 2005, Nhà xuất bản lao động đã ban hành công trình nghiên cứu do
Luật gia Thi Anh sưu tầm, tuyển chọn về “Những quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân địa
phương”. Cuốn sách đã trình bày những quy định chung và những quy định cụ
thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn một số cơ
quan thuộc bộ.
Ngoài các công trình nghiên cứu kể trên còn có hàng trăm công trình
nghiên cứu khác xung quanh đề tài về Chính phủ Việt Nam và các bài viết trên
các tạp chí như tạp chí cộng sản, tạp chí Chính phủ..vv.
Tóm lại nghiên cứu về Chính phủ cũng như công tác Chính phủ là một
vấn đề lớn đòi hỏi nhiều hơn sự nghiên cứu. Sau mỗi công trình nghiên cứu đều
để lại những tư liệu quý giá và các ý kiến, kiến nghị bổ ích góp phần vào sự
thành công của Chính phủ trong hoạt động của mình. Tuy nhiên tình hình hiện
nay đang thay đổi rất nhanh chóng đòi hỏi các công trình nghiên cứu nhiều hơn
và sâu sắc hơn vấn đề mới đang đặt ra, đó cũng chính là mục đích nghiên cứu
của chuyên luận này.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu một cách khái quát về vị trí, chức năng của Chính
phủ vói tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, đề tài đề xuất một vài
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động
của Chính phủ Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài

- Trình bày một cách khái quát vị trí chức năng của Chính phủ trong bộ
máy Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Đánh giá về tổ chức, hoạt động cũng như những thành tưu và hạn chế của
Chính phủ Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để đổi mới cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Chính phủ nhằm đáp ứng yêu cầu hiện nay.
3


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
4.1 Cơ sở lý luận
Để thực hiện được đề tài này người nghiên cứu đã dựa trên cơ sở lý luận
nền tảng là hệ thống những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Bên
cạnh đó người nghiên cứu cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đi trước có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu của tiểu luận này.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tổ chức nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử cùng với các phương pháp cụ thể khác như phân tích, so sánh, hệ thống
cấu trúc, logic, đánh giá, tổng hợp… trong quá trình giải quyết vấn đề nêu ra.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu về vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Việt Nam trên cơ sở thực trạng tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong bộ
máy Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương, 6 tiết.

4



CHƯƠNG I
VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA CHÍNH PHỦ TRONG BỘ MÁY NHÀ
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1.1. Vị trí của chính phủ
Từ thực tiễn của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội nước ta, trong mỗi
giai đoạn lịch sử vị trí của chính phủ được xác định với những đặc điểm khác
nhau.
Hiến pháp năm 1946 quy định chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất
của quốc gia và chủ tịch nước là người đứng đầu chính phủ.
Hiến pháp năm 1959 quy định chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc
hội và là cơ quan hành chính cao nhất, người đứng đầu là thủ tướng chính phủ.
Vai trò của chủ tịch nước theo hiến pháp năm 1959 tách khỏi chính phủ, trong
trường hợp cần thiết mới tham dự và chủ toạ các phiên họp của chính phủ.
Hiến pháp năm 1980 đã quan niệm chính phủ hoàn toàn khác với hai bản
hiến pháp trước, đặt chính phủ là cơ quan chấp hành và hành chính của quốc
hội, mặc dù hoạt động của quốc hội và chính phủ trong những năm đó cho thấy
thiết chế này không áp dụng được. Trên thực tế chính phủ vẫn là cơ quan hành
chính cao nhất của đất nước.
Hiến pháp năm 1992 đã có quan niệm mới, tiến bộ về vai trò và vị trí của
chính phủ, đặt chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc hội và là cơ quan hành
chính cao nhất của quốc gia. Hiến pháp quy định: Chính phủ là cơ quan chấp
hành của quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc thay tên gọi từ Hội đồng Bộ trưởng, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
thành chính phủ, Thủ tướng Chính Phủ không phải là sự đổi tên đơn thuần, mà
nó có ý nghĩa khẳng định một vị trí mới của Chính Phủ. Quy định thành lập Hội
đồng Bộ trưởng, Hiến pháp năm 1980 xác định đây là cơ quan gồm các bộ

trưởng, là Hội đồng những người đứng đầu các bộ, xác định tính tập thể của
Hội đồng và trách nhiệm của mỗi thành viên trong hội đồng. Sự thay đổi tên gọi
5


trong hiến pháp năm 1992 nhằm làm rõ vai trò của chính phủ, đứng đầu là Thủ
tướng Chính Phủ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Chính
Phủ có hai vị trí:
Vị trí thứ nhất: Chính Phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội (vị trí phụ
thuộc Quốc hội). Vai trò của chính phủ xuất phát từ nguyên tắc thực hiện quyền
lực nhà nước, mà quyền lực nhà nước tập trung ở Quốc hội. Vì vậy, Chính Phủ
trước hết là cơ quan chấp hành của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Chính Phủ năm 1992 đã thể hiện rõ
vị trí thứ nhất của chính phủ.
Vị trí thứ hai: Từ chỗ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Quốc
hội theo hiến pháp năm 1980 (vị trí phụ thuôc Quốc hội), Chính Phủ chuyển
thành cơ quan hành chính nhà nước cao nhất (hiến pháp 1992) của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này chỉ ra rằng Chính Phủ có một vị trí
mới.
Trình tự thành lập chính phủ đã đổi khác. Nếu Hội đồng Bộ trưởng theo
Hiến pháp năm 1980 là cơ quan được Quốc hội bầu ra từ chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng đến tất cả các thành viên khác, thì Chính Phủ theo Hiến pháp 1992 được
lập ra theo trình tự mới: Quốc hội bầu, miễn nhiệm, cách chức Thủ tướng Chính
Phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính
Phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên
khác của Chính Phủ. Trong thời gian Quốc hội không họp, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội phê chuẩn đề nghị trên đây của Thủ tướng Chính Phủ nhưng phải báo
cáo với Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội gần nhất.
Hiện nay, Chính Phủ và Thủ tướng Chính Phủ chỉ chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, còn đối với Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội và chủ tịch nước thì chỉ báo cáo công tác mà thôi. Đây là một quy
định mới của Hiến pháp năm 1992, một lần nữa thể hiện Hiến pháp đã đề cao vị
trí của Chính Phủ trong bộ máy nhà nước.
Vị trí của Chính Phủ trong quá trình xây dựng pháp luật: Hiến pháp năm
1992 khẳng định Quốc hội có chức năng lập hiến và lập pháp, đồng thời quy
định Chính Phủ có nhiệm vụ trình các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác
6


trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội (khoản 3, điều 112). Chế địmh
này đã xác định đúng vị trí của Quốc hội và của Chính Phủ trong quá trình xây
dựng pháp luật.
Trong quá trình xử lý các tranh chấp thuộc lĩnh vưc hành chính và kinh
tế, Chính Phủ cần xác định thẩm quyền của mình trong quá trình xử lý các tranh
chấp đó.
Vị trí của Chính phủ được xác định dựa trên mối quan hệ pháp lý giữa
Chính phủ với các cơ quan Nhà nước khác, chủ yếu là các mối quan hệ cơ bản
như sau:
Chính phủ với Quốc hội: Về vị trí của Chính phủ, Hiến pháp năm 1992
xác định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với tư
cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ tổ chức thi hành trong
phạm vi cả nước các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội. Với tư cách là cơ
quan hành chính cao nhất của Nhà nước, Chính phủ quản lý thống nhất mọi lĩnh
vực đời sống xã hội như: kinh té, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng,
ngoại giao, tư pháp, an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Hai chức năng này có
mối quan hệ hữu cơ với nhau: quản lý thống nhất mọi lĩnh vực đời sống xã hội
trên cơ sở chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, đó là chúc năng của cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất và là chủ thể cơ bản thực hiện quyền hành pháp. Do vậy, Chính phủ có

những quyền độc lập với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có thẩm quyền rất quan
trọng là chủ động tiến hành có kế hoạch việc lập quy (ra các văn bản dưới luật)
để thực hiện luật do Quốc hội đã thông qua và ban hành. Chính phủ quản lý,
điều hành công việc hàng ngày của Nhà nước, tổ chức và điều hành nền hành
chính quốc gia. Vì vậy Chính phủ là cơ quan thẩm quyền chung.
Chính phủ với Chủ tịch nước: địa vị pháp lý của Chủ tịch nước được quy
định bởi chức năng: vừa thực hiện hoạt động mang tính lập pháp, một phần
hành pháp, một phần tư pháp.

7


Chính phủ với Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm soát nhân dân tối
cao: Các cơ quan tư pháp như là người trọng tài của xã hội, độc lập khi xét xử,
do đó Chính phủ không thể can thiệp vào địa vị xét xử, mà chỉ thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước đối với các cơ quan tư pháp.
Chính phủ với hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân địa phương: Hiến pháp
1992 quy định nền hành chính quốc gia là một hệ thống tập trung, thống nhất,
xuyên suốt từ Trung ương xuống địa phương, và đặt Chính phủ đứng đầu các cơ
quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, tập trung không có nghĩa là Chính phủ
nắm tất cả mọi quyền hành pháp, mà cần phân cấp thẩm quyền quản lý hợp lý
cho các địa phương.
Xét mối tương quan giữa Chính phủ với các cơ quan khác của Nhà nước,
để phù hợp với yêu cầu vừa đề cao Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước
thống nhất và cao nhất), vừa đề cao Chính phủ (cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất, và là chủ thể cơ bản thực hiện quyền hành pháp), vị trí của Chính phủ
cần được hiểu theo nghĩa Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Chính Phủ
Xuất phát từ vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, và là chủ thể
cơ bản thực hiện quyền hành pháp, Chính Phủ có chức năng và nhiệm vụ:
“thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ
máy nhà nước từ Trung ương đến các cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp
hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân” 1. Chức năng và nhiệm vụ trên đây được thể hiện
bằng các quyền và nghĩa vụ chung và các quyền hạn cụ thể của Chính Phủ.
Các quyền và nghĩa vụ chung của Chính Phủ trải rộng trên tất cả các
ngành và lĩnh vực quản lý, tương ứng với các chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong
(Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khoá VII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995)
1

8


từng ngành và lĩnh vực quản lý nhà nước. Đó là các quyền và nghĩa vụ chung
quản lý các lĩnh vực: pháp luật và hành chính tư pháp; kinh tế; khoa học và
công nghệ; văn hoá, giáo dục, thông tin, thể thao và du lịch; xã hội và y tế;
chính sách dân tộc và tôn giáo; quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội;
đối ngoại; tổ chức hành chính nhà nước; lãnh đạo công tác của các uỷ ban nhân
dân địa phương và hướng dẫn, kiểm tra, tạo điều kiện để các hội đồng nhân dân
thực hiện nhiệm vụ.
Để thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung này, Chính Phủ có các quyền
hạn cụ thể như: quyền trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác ra trước
Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; quyết định việc điều chỉnh địa giới
các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương.

Quan trọng nhất là quyền ra nghị quyết và nghị định căn cứ vào Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, lệnh và quyết định của Chủ tịch nước. Văn bảm quy phạm pháp luật
của Chính Phủ có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc và là cơ sở pháp lý quan
trọng cho hoạt động của cả hệ thống bộ máy quản lý, là phương tiện chủ yếu
bảo đảm việc thi hành các chức năng, nhiệm vụ quản lý trên phạm vi cả nước.
Chức năng quản lý của Chính Phủ là toàn diện và thống nhất trên tất cả
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; tổ chức và điều hành toàn bộ hệ
thống hành chính nhà nước, lãnh đạo công tác của tất cả các cơ quan trong hệ
thống hành chính nhà nước (các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan trực
thuộc Chính Phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp); xây dựng và kiện toàn hệ thống
thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; hướng dẫn,
kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo
luật định: đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức nhà nước.
Cần phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm Nhà nước quản lý với khái
niệm Chính Phủ quản lý. Sự khác nhau này thể hiện ở chỗ: Nhà nước quản lý
với nghĩa rộng, bao gồm hoạt động của toàn thể hoạt động của bộ máy nhà
nước với ba quyền và tương ứng với chúng là các hệ thống cơ quan lập pháp,
hành chính và tư pháp; Chính Phủ quản lý với nghĩa hẹp, tức là quản lý trên cơ
9


sở Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, nghị quyết của Chủ tịch nước.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chính Phủ ra
các nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính Phủ ra các quyết định, chỉ thị có
hiệu lực trên toàn quốc trên cơ sở văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và
kiểm tra việc thi hành các văn bản đó
Chức năng kinh tế của Chính Phủ: Từ khi xuất hiện nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động của Chính Phủ (nói chung
của các cơ quan hành pháp) đã có những chuyển biến mạnh mẽ, nhưng đồng
thời đứng trước những thử thách rất lớn. Trước đây Chính Phủ sử dụng một hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh để điều khiển nền kinh tế thì nay chỉ còn sử dụng công
cụ này ở một số lĩnh vực cần thiết. Hoạt động hành pháp trong nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là sử dụng các công cụ quản lý
tầm vĩ mô của Chính Phủ như tài chính, thuế, ngân hàng, tín dụng, các quốc
sách để điều khiển nền kinh tế lại tăng lên gấp bội, được xem là những công cụ
sắc bén thể hiện vai trò kinh tế của Chính Phủ.
Thử thách lớn nhất hiện nay về chức năng kinh tế của Chính Phủ là sự
phân tán quá lớn trong việc giao các thẩm quyền hành chính - kinh tế cho địa
phương và sự lớn mạnh nhanh chóng của kinh tế tư nhân, tình trạng mất vai trò
của nền kinh tế quốc doanh. Đó là điều kiện thuận lợi để thành phần kinh tế khu
vực tư nhân móc nối với các viên chức hành chính có thẩm quyền ở địa
phương, làm cho Chính Phủ trung ương khó kiểm soát tình hình. Đó là những
khó khăn mà Chính Phủ phải đương đầu trong giai đoạn hiện nay.
Chức năng xã hội của Chính Phủ và Nhà nước: Với chức năng xã hội,
phục vụ lợi ích công cộng, tất cả mọi công dân hưởng bình đẳng các lợi ích,
phúc lợi chung của xã hội do Chính Phủ thực hiện. Nhà nước ta ngày càng thực
hiện đầy đủ định hướng xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động quản lý của mình.
Với chức năng kinh tế, xã hội, vai trò của Chính Phủ thực hiện thông qua
các công cụ quản lý vĩ mô nhằm vào: Định hướng chiến lược, kế hoạch (dài
10


hạn) để hướng dẫn, khuyến khích sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
đã vạch sẵn; tạo hành lang pháp luật cho các hoạt động kinh tế của mọi thành
phần được tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật; hình thành cơ sở vật

chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầngthuận lợi cho các hoạt động kinh tế; điều tiết
kinh tế bằng các công cụ tài chính, bằng các chính sách chuyển dịch cơ cấu
kinh tế có mức tăng trưởng cao; tạo các cơ sở công cộng cho toàn xã hội, thực
hiện các chính sách xã hội; bảo vệ quyền lợi quốc gia và chủ quyền lãnh thổ.
Có thể nói, chức năng của Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 về cơ bản
là đầy đủ và hợp lý. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, trước tiên cần tập trung ngiên cứu điều chỉnh chức năng
của Chính phủ cho phù hợp với cơ chế quản lý mới theo hướng Chính phủ quản
lý vĩ mô các lĩnh vực hoạt động của toàn xã hội bằng hệ thống pháp luật, các
chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ và thông qua việc hoạch định chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ được nêu tại Hiến pháp năm 1992
và Luật tổ chức Chính phủ năm 1992 về cơ bản là đầy đủ và hợp lý. Tuy vậy
cần có một số điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, và là chủ thể cơ bản thực hiện quyền hành pháp phải thể hiện trách nhiệm
của mình bằng việc thống nhất quản lý toàn bộ các nhiệm vụ của Nhà nước (về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng); tổ chức việc
thực hiện các chính sách, pháp luật, quản lý tổ chức, nhân sự; nói cách khác, là
quyền thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia dưới sự giám sát của Quốc
hội. Quyền quản lý của Chính phủ (quyền lập quy và quyền tổ chức, chỉ đạo,
điều hành) dưới góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có thể bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
Trình dự án luật ra trước Quốc hội, sau đó ban hành những văn bản quy
phạm pháp luật (dưới luật) để cụ thể hoá và thi hành luật.
Điều hành toàn bộ công cuộc xây dựng đất nước trên mọi lĩnh vực theo
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước.
11



Tổ chức và chỉ đạo hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ
sở; quản lý đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Quản lý nền kinh tế quốc dân.
Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các hội đồng nhân dân địa phương.
Thứ hai, Chính phủ quản lý nhà nước về nhiều mặt, một trong những nội
dung quan trọng nhất là quản lý nhà nước về kinh tế, được thực hiện thông qua
các công cụ quản lý vĩ mô như sau:
Định hướng chiến lược, kế hoạch (dài hạn) để hướng dẫn, khuyến khích
sự phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng ấy.
Tạo hành lang pháp luật cho các hoạt động kinh tế của mọi thành phần
được tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật và kết cấu hạ tầng thuận lợi cho các hoạt
động kinh tế.
Điều tiết kinh tế bằng các công cụ tài chính, tín dụng, tiền tệ…, bằng các
chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mức tăng trưởng cao, bằng cách ấn
định mức độ cần thiết của hoạt động doanh nghiệp nhà nước, tạo nên một môi
trườg, thị trường ổn định.
Bảo vệ quyền lợi quốc gia, quyền tự do dân chủ hợp pháp, nghĩa vụ của
công dân và các chủ thể kinh tế trong nước cũng như trong quan hệ quốc tế;
ngăn ngừa, bài trừ những tệ nạn về kinh tế, xã hội; bảo đảm sự bình đẳngcủa
mọi thành phần kinh tế trước pháp luật và sự công bằng xã hội.
Tạo một hệ thống hành chính năng động trên cơ sở một cơ chế quản lý
phù hợp với hoạt động kinh tế thị trường.
Trong giai đoạn hiện nay, để hoạt động có hiệu quả và đúng hướng, cần
có một cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả hơn, đẩy mạnh
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Để làm đúng, đủ và có hiệu quả vai trò
quản lý nhà nước đối với các doanh nghịêp cần làm rõ chức năng quản lý nhà
nước của Chính phủ và cácbộ trong nề kinh tế thị trường trên cơ sở phân biệt
với chức năng quản lý kinh doanh của các đơn vị kinh tế, từ đó rà soát, loại bỏ

những quy định, những phương thức tổ chức cũ, bảo đảm cho Chính phủ thực
sự đi sâu vào quản lý vĩ mô, quản lý bằng pháp luật, bằng những văn bản dưới
12


luật, không can thiệp trực tiếp vào việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức
kinh tế, của các đơn vị sản xuất kinh doanh và quyền tự chịu trách nhiệm của
các cơ sở văn hóa, xã hội.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ
13


VIỆT NAM HIỆN NAY
Tổ chức và hoạt động của Chính phủ dựa trên cơ sở những nguyên tắc chung về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được quy định trong hiến pháp và
được cụ thể hoá trong Luật tổ chức Chính phủ.
2.1. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các Bộ, các cơ quan ngang Bộ. Quốc
hội quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các cơ quan ngang Bộ theo đề nghị
của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc
hội.
Thành viên của Chính phủ gồm: Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ
tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ
tịch nước. Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ. Thủ tướng chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước; Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự
phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt, một Phó Thủ tướng được

Thủ tướng uỷ nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác Chính phủ.
Hiến pháp năm 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ với tư cách
là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, và là chủ thể cơ bản
thực hiện quyền hành pháp, như là trung tâm điều hành công việc cả nước, bảo
đảm tổ chức tốt việc thi hành pháp luật. Để tăng cường vai trò của Thủ tướng
Chính phủ, một mặt, trao đầy đủ về cơ bản quyền hạn cho Thủ tướng; mặt khác,
Hiến pháp quy định Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm việc nhưng theo sự
phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng
được Thủ tướng Chính phủ uỷ nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính
phủ.
Thực tế mấy năm gần đây và theo xu hướng thực hiện Hiến pháp mới thì
số Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ sẽ giảm xuống tới mức
tối thiểu cần thiết. Bên cạnh đó lại có chế độ kiêm nhiệm của bộ trưởng hợp lý.
Trong những nhiệm kỳ trước, hầu hết các Bộ trưởng là đại biểu Quốc hội. Hiến
14


pháp năm 1992 quy định, ngoài Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác của
Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Chế định này hợp lý ở
chỗ: Một là, nhằm tách dần chức năng lập pháp và giám sát khỏi chức năng
hành pháp, tạo cơ sở cho sự phân công rành mạch hơn giữa cơ quan lập pháp và
hành pháp. Hai là, với một Quốc hội hoạt động thường xuyên và đại biểu Quốc
hội cũng hoạt động thường xuyên thì bộ trưởng không đủ thời gian cần thiết để
làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
Việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Chính phủ luôn là một
trong những vấn đề thời sự của hệ thống chính trị. Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển bộ máy tổ chức của Chính phủ qua
các thời kỳ phát triển đất nước. Đặc biệt sau hơn 10 năm đổi mới (1986 - 1999),
tổ chức lại các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ, chúng ta đã
có một cơ cấu bộ máy Chính phủ tương đối hợp lý.

Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ đã chuyển sang và tập trung vào
thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo cơ chế mới, hướng mạnh vào công
tác lập pháp, lập quy, xây dựng chính sách, chiến lượ, quy hoạch, kế hoạch phát
triển, đồng thời tăng cường công tác chỉ đạo đièu hành, thanh tra, kiểm tra việc
tổ chức thực hiện. Kết quả thực tế cho thấy, Chính phủ cũng đã từng bước điều
chỉnh cơ cấu tổ chức nhằm thu gọn dần đầu mối quản lý của Chính phủ và tổ
chức bộ máy bên trong các bộ, ngành để phù hợp với chức năng mới, trong đó:
Đã hợp nhất các bộ quản lý đơn ngành, đơn lĩnh vực thành bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực theo chức năng quản lý nhà nước toàn ngành đối với mọi thành
phần kinh tế và trong phạm vi cả nước; tổ chức lại ngành trong một số bộ theo
hướng hợp lý và có hiệu quả hơn. Đưa một số cơ quan thuộc Chính phủ vào các
bộ tương ứng để giảm bớt đầu mối quản lý Chính phủ.
Theo đánh giá của Chính phủ qua các báo cáo tổng kết công tác mấy năm
gần đây thì nhìn chung các bộ được tổ chức theo mô hình quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực đã hoạt động có hiệu quả, khắc phục được sự chồng chéo, phân tán
trước đây trong việc xây dựng quy hoặch, cơ chế chính sách và phối hợp hướng
dẫn tổ chức thực hiện. Mô hình quản lý này là sự khẳng định những bước đi
đúng đắn ban đầu của công cuộc cải cách hành chính của Nhà nước ta.
15


Trong những năm qua, để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của
Chính phủ, Nhà nước đã tập trung nghiên cứu đổi mới bộ máy tổ chức và hoạt
động của Chính phủ để thực hiện chức nănng quản lý nhà nước theo cơ chế
mới. Chính phủ đã có sự đổi mới cơ bản về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức gắn với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, thể hiện rõ hơn chức năng
năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các bộ, phân biệt rõ hơn giữa quản lý
hành chính với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở
đó, bộ máy tổ chức của Chính phủ đã từng bước được tinh gọn hơn.
* Những hạn chế trong cơ cấu tổ chức Chính phủ

Kết quả thực tế hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ cho thấy
rằng tổ chức bộ máy của Chính phủ vẫn còn nhiều tồn tại, làm hạn chế hiệu
quả hoạt động của Chính phủ, những hạn chế đó là:
Thứ nhất, còn có sự trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa
các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ. Nhiều bộ chưa thực hiện
đúng chức năng quản lý nhà nước trong phạm vi toàn xã hội. Rất nhiều cơ quan
thuộc Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ chồng lấn với nhiệm vụ
của các bộ tương ứng.
Có lĩnh vực nhiều bộ cùng làm, có những việc lẽ ra thuộc bộ này làm thì lại do
bộ khác làm, nhưng lại có những việc bị bỏ sót, không rõ cơ quan nào phải thực
hiện. Nhiều nội dung công việc, chức trách quản lý không được xác định rõ
ràng giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các cơ quan cùng cấp.
Thứ hai, tuy đã giảm số bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính
phủ nhưng cơ cấu tổ chức của Chính phủ vẫn còn cồng kềnh, nặng nề, còn quá
nhiều đầu mối và chưa hợp lý.
Điều dễ nhận thấy ở đây là số lượng các cơ quan thuộc Chính phủ và các
tổ chức liên ngành quá nhiều so với các bộ và cơ quan ngang bộ. Vì vậy có
những lĩnh vực quản lý giao cho thủ trưởng cơ quan không phải là thành viên
Chính phủ đảm nhiệm, dẫn tới tình trạng các thành viên Chính phủ (bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ) không thể trực tiếp quản lý, điều hành được. Điều
đó mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm
16


quản lý nhà nước vào các bộ, cơ quan ngang bộ là cơ cấu tổ chức của Chính
phủ.
Một số tổ chức liên ngành có tổ chức bộ máy riêng ở Trung ương và địa
phương, không phù hợp với hình thức phối hợp liên ngành. Bên cạnh đó, rất
khó phân biệt giữa các cơ quan thuộc Chính phủ với các bộ và cơ quan ngang
bộ, làm cho hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ có phần thiếu tập

trung.
Thứ ba, tổ chức bộ máy bên trong các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan
thuộc Chính phủ vừa có quá nhiều đầu mối, vừa thiếu sự thống nhất và chưa
được sắp xếp lại hợp lý.Trong tổ chức bộ máy của bộ chưa phân biệt rõ về tổ
chức và cơ chế hoạt động giữa quản lý nhà nước và dịch vụ công; các đơn vị sự
nghiệp lâu nay chủ yếu vẫn hoạt động theo cơ chế hành chính.
Những tồn tại này do rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
xuất phát từ chính bản chất của cải cách hành chính là rất phức tạp, khó khăn,
đòi hỏi phải có quá trình và bước đi thích hợp. Song, cải cách hành chính chưa
được thực hiện một cách nhất quán, dứt khoát và thiếu đồng bộ giữa các ngành,
các cấp và các lĩnh vực; mặt khác, trong quá trình sắp xếp lại một số bộ, ngành
vẫn còn tình trạng do không chuẩn bị kỹ càng, lại thêm tâm lý nóng vội nên đã
dẫn đến những sai sót.
* Những vấn đề mang tính nguyên tắc trong cơ cấu tổ chức Chính phủ
Việc đổi mới cơ cấu tổ chức của Chính phủ là một trong những nội dung
quan trọng hàng đầu của công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
Khi xác định cơ cấu tổ chức của Chính phủ phải xuất phát từ những vấn đề có
tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, tổ chức Chính phủ phải phù hợp với vị trí và chức năng của
Chính phủ, của các bộ. Tổ chức của Chính phủ cần tiếp tục được đổi mới để có
số lượng và cơ cấu hợp lý, thu gọn hơn nữa đầu mối quản lý của Chính phủ
nhằm khắc phục sự chồng chéo và điều hành phân tán, bao quát được nhiệm vụ
quản lý toàn xã hội của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập khu vực

17


và thế giới. Đây là một quan điểm đã được khẳng định trong các nghị quyết của
Đảng và phương hướng chỉ đạo của Chính phủ.
Thứ hai, cần có quan niệm đúng đắn về thu gọn đầu mối tổ chức của

Chính phủ. Thu gọn đầu mối quản lý của Chính phủ có nghĩa là thu gọn các bộ,
cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ. Đó là các cơ quan nằm trong bộ
máy hành chính nhà nước.
Thứ ba, cần phân biệt rõ hai khái niệm về “ngành” và “bộ”. Về nguyên
lý, Chính phủ là kết cấu thượng tầng, phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế là hạ tầng.
Do đó, khi xem xét cơ cấu tổ chức Chính phủ phải xét đến cơ cấu kinh tế. Vì
vậy, trong việc tổ chức các bộ, có hai khái niệm cần nhận thức rõ là “ngành” và
“bộ”. Đã có nhiều ý kiến tro đổi xung quanh vấn đề này, đến nay về cơ bản đã
rõ. Có quan điểm cho rằng “ngành” là một phạm trù kinh tế - văn hoá - xã hội
khách quan, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở phân công lao
động xã hội ngày càng rộng và sâu. Còn “bộ” là phạm trù tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước (mang tính chủ quản), là một thành phần trong cơ cấu tổ chức
của Chính phủ, một cơ quan quản lý nhà nước thẩm quyền riêng, thực hiện
quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực, trong phạm vi cả nước, bao gồm tất
cả các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Bộ có thể quản một hoặc một số ngành,
lĩnh vực. Hai khái niệm này không đồng nhất. Tuỳ theo sự phát triển của ngành
mà quy mô của bộ có thể mở rộng hoặc thu hẹp, miễn sao phù hợp với quy luật
hoạt động chung, không chồng chéo, gò ép. Nhằm mục đích thực hiện việc tách
biệt giữa quản lý nhà nước (hay gọi là quản lý hành chính - kinh tế) với quản lý
kinh doanh, trên thực tế có xu hướng ngành ngày càng tách ra, nhưng bộ thì
ngược lại, ngày càng tổng hợp hơn. Đó cũng là yêu cầu thực tế đòi hỏi việc
giảm dần đầu mối quản lý của Chính phủ.
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ cần tiếp tục được đổi mới, kiện toàn: tiếp
tục rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức các bộ, cơ quan
ngang bộ để tổ chức lại cho hợp lý theo hướng bộ quản lý nhà nước đa ngành,
đa lĩnh vực, bao quát các thành phần kinh tế trong phạm vi toần quốc, nhằm
phát huy vai trò quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ.

18



Thực hiện tinh giảm các cơ quan thuộc Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ do chính phủ thành lập theo hướng đưa một số cơ quan này vào các bộ
quản lý nhà nước tương ứng, hoặc giải thể nếu thấy không còn cần thiết và
chuyển các nhiệm vụ do nó đảm nhiệm về các bộ quản lý nhà nước thích hợp;
chỉ duy trì một số cơ quan làm chức năng quản lý chuyên ngành hoặc sự nghiệp
đối với một số lĩnh vực chưa thể giao cho bộ đảm nhiệm được. Trước mắt cần
giảm ngay các đầu mối không hợp lý; sắp xếp, tinh giảm các đơn vị trực thuộc
bộ, cắt bỏ những khâu trùng lắp về chức năng.
Trên cơ sở điều chỉnh lại chức năng, thẩm quyền của Chính phủ và các
bộ, cần xác định cơ cấu tổ chức Chính phủ cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ
mới, nhằm bao quát được nhiệm vụ quản lý toàn xã hội trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo đảm an ninh, quốc phòng; kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Rà soát và điều chỉnh lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Việc rà soát và điều chỉnh thực hiện
theo những yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ:
Thứ nhất, trước hết phải định rõ được chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (cả quản lý nhà
nước và chỉ đạo hoạt động sự nghiệp) trong phạm vi cả nước.
Thứ hai, bổ sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ cho
phù hợp với yêu cầu quản lý mới.
Thứ ba, xác định rõ mối quan hệ giữa bộ, ngành với nhau và giữa các bộ,
ngành với chính quyền địa phương trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
chung của bộ máy hành chính nhà nước.
Thứ tư, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm tập thể của tổ chức và thẩm
quyền, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu tổ chức.
Trong quá trình rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ,
cơ quan ngang bộ, Chính phủ cũng cần quan tâm đến trường hợp một số bộ,
ngành do yêu cầu của chiến lược phát triển ngành cần phải điều chỉnh lại chức

năng, nhiệm vụ của bộ.

19


Sắp xếp lại và kiện toàn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ: Thời gian qua, các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ đã
được đổi mới một bước, tuy nhiên, việc sắp xếp lại và kiện toàn các cơ quan
này hiện vẫn đang là một nội dung quan trọng trong chương trình cải cách bộ
máy hành chính cấp trung ương. Đối với các bộ và cơ quan ngang bộ, vấn đề
cấp bách nhất hiện nay là phải tiến hành rà soát, điều chỉnh lại chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn để sắp xếp lại các cơ quan này theo hướng bộ quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực, là một hướng tổ chức đã được khẳng định.
Để phục vụ hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, ngoài các bộ, cơ
quan ngang bộ nằm trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, vẫn còn có các cơ
quan thuộc Chính phủ. Đó là một hệ thống tổ chức Chính phủ hợpp lý trong
điều kiện hiện nay, đảm bảo cho các hoạt động của Chính phủ đạt hiệu quả cao.
Tuy nhiên, trước yêu cầu giảm đầu mối của quản lý Chính phủ, cần khẩn trương
nghiên cứu sắp xếp lại theo hướng giảm bớt các cơ quan này. Việc sắp xếp lại
các cơ quan thuộc Chính phủ cần được xem xét và quyết định gắn liền với việc
rà soát và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan
ngang bộ.
Đổi mới, tăng cường năng lực của Văn phòng Chính phủ.
Một cơ quan rất quan trọng, mang tính đặc thù cao trong tổ chức bộ máy
của Chính phủ cần được quan tâm, đó là Văn phòng Chính phủ. Thực tế đã
chứng minh rằng, mặc dù đã qua nhiều lần cải tiến trong nhiều nhiệm kỳ Chính
phủ và đã được kiện toàn một bước, có nhiều đóng góp cho quá trình phát triển
của đất nước, song chất lược và hiệu qủ hoạt động của Văn phòng Chính phủ
vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phục vj sự chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

Do vậy, đổi mới, tăng cường năng lực của Văn phòng Chính phủ vẫn đang là
một yêu cầu cấp bách hiện nay. Việc đổi mới, tăng cường năng lực của Văn
phòng Chính phủ cần phải được tiến hành trên cả ba mặt: đổi mới chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và lề lối làm việc; tăng cường năng lực đội ngũ cán
bộ, công chức; từng bước hiện đại hoá công sở và đưa và sử dụng các trang
thiết bị làm việc hiện đại. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, vừa qua Thủ
20


tướng Chính phủ đã đưa Văn phòng Chính phủ vào danh sách một trong mười
cơ quan trung ương đầu tiên tổ chức thực hiện thí điẻm cải cách hành chính.
Để hoạt động chỉ đạo, điều hành có hiệu lực và hiệu quả thực sự, Chính
phủ cần có một Văn phòng Chính phủ mạnh theo hướng để cơ quan này trở
thàn một cơ quan tham mưu thực sự và cơ quan làm việc năng động, chủ động,
có hiệu quả của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ:
Sắp xếp lại các tổ chức tư vấn liên ngành
Phối hợp liên ngành là một hoạt động rất cơ bản, một tất yếu của quá
trình chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Để đảm bảo hoạt động chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được tập trung, thống nhất và có
hiệu quả, việc ngiên cứu sắp xếp lại các tổ chức tư vấn liên ngành cũng đang là
một yêu cầu cấp bách hiện nay, và cần được thực hiện đồng thời với việc
nghiên cứu đổi mới, sắp xếp lại các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc
Chính phủ.
Thành lập một số cơ quan trực thuộc Thủ tướng Chính phủ
Để hoạt động chỉ đạo, điều hành có hiệu lực và hiệu quả thực sự, cùng
với việc tổ chức một Văn phòng Chính phủ mạnh, Thủ tướng Chính phủ cần
nắm một số cơ quan độc lập:
Cơ quan thông tin chiến lược. Để có thể đưa ra được những quyết định
chỉ đại, điều hành của Chính phủ một cách kịp thời, Thủ tướng Chính phủ cần
có đầy đu và kịp thời các thông tin, đặc biệt là những thong tin quan trọng nhất

đối với một quôc gia. Do vậy cần có một cơ quan thông tin chiến lược đặt bên
cạnh Thủ tướng. Cơ quan này không chỉ nắm bắt các thông tin về kinh tế, xã
hội mà còn nắm các thông tin quan trọng khác để cung cấp cho Thủ tướng
Chính phủ, nhu các thông tin về đối ngoại, các vụ việc lớn đang xảy ra, các dự
báo quan trọng ở trong và ngoài nước…
Cơ quan phụ trách công chức cao cấp. Thủ tướng Chính phủ cần trực tiếp
nắm đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết là các cán bộ, công chức cao cấp để
có thể bố trí và sử dụng linh hoạt, đáp ứng yêu cầu hoạt động chỉ đạo, điều hành
của Chính phủ.

21


Cơ quan phân bổ ngân sách. Trong lĩnh vực tài chính, kế hoạc chi ngân
sách của Chính phủ cần được Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo. Vì vậy
nên thành lập cơ quan phân bổ ngân sách trực thuộc Thủ tướng để thực hiện
nhiệm vụ nói trên.
Vì vậy, trong quá trình xem xét, sắp xếp lại các bộ, cơ quan ngang bộ và
cơ quan thuộc Chính phủ, các nhà nghiên cứu, thiết kế tổ chức, và các nhà
hoạch định chính sáchcần quan tâm đến vấn đề này.
2. 2 Hoạt động của Chính phủ
2.2.1 Đánh giá về thực trạng và những thành tựu đạt được trong hoạt
động của Chính phủ.
Bước vào thời kỳ đổi mới, một trong những yêu cầu quan trọng là đổi
mới hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, đặc biệt là hoạt động của
Chính phủ. Theo luật tổ chức Chính phủ năm 1992, Chính phủ làm việc theo
chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với việc đề cao quyền hạn và trách
nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính phủ.
Chính phủ có ba hình thức hoạt động cơ bản, đó là: hội nghị tập thể Chính phủ
do Thủ tướng Chính phủ chủ toạ; hoạt động chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng

Chính phủ và các Phó Thủ tướng; hoạt động của các thành viên Chính phủ.
Các phiên họp Chính phủ là hình thức hoạt động có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt của Chính phủ. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo luận tập thể và quyết
định theo đa số”. Vì vậy, tại các phiên họp Chính phủ, tập thể Chính phủ thảo
luận những vấn đề quan trọng mang tính quốc gia, động chạm đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Những vấn đề này được quy định tại Luật tổ chức Chính
phủ năm 1992 và được bổ sung tại Quy chế làm việc của Chính phủ năm 1998,
trước hết là: chương trình công tác hàng năm của Chính phủ; các dự án luật,
pháp lệnh trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; dự án phát triển kinh
tế, xã hội và các công trình quan trọng quốc gía; dự toán và tổng quyết ngân
sách nhà nước; các vấn đè quan trọng về chủ trương, chính sách và cơ chế phát
triển kinh tế, xã hội, về quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại; các vấn đè về
22


thành lập, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính địa
phương; các báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước.
Hiến pháp năm 1992 quy định: Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu
các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn
các vấn đề có liên quan.
Như vậy, tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992
không hoàn toàn giống chế độ Thủ tướng ở nhều nước khác mà chúng ta đã
tùng biết đến, mà nó được kết hợp chặt chẽ với chế độ lãnh đạo tập thể. Không
những thế khi thông qua các quyết định tại các phiên họp Chính phủ thì tập thể
Chính phủ lại có vai trò quan trọng hơn.
Tuy nhiên, về các phiên họp Chính phủ, Điều 35, Luật tổ chức Chính phủ
năm 1992 quy định trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo

phía có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Tương tự, Điều 110, Hiến pháp năm
1992 cũng quy định: “Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”.
Với các chế định này, Hiến pháp và Luật đã đề cao vị trí và vai trò của Thủ
tướng Chính phủ.
Theo Hiến pháp năm 1992, Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo Chính phủ với
hai tư cách: vừa với tư cách là người đại diện cho Chính phủ, vừa với tư cách cá
nhân với thẩm quyền riêng. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ
được quy định tai chương III, Luật tổ chức Chính phủ năm 1992 về cơ bản là
hợp lý. Quy định này nhằm phân biệt những vấn đề thuộc thẩm quyền của tập
thể Chính phủ quyết định, những vấn đề thuộc thẩm quyền riêng của Thủ
tướng. Đặc biệt, để tăng cường vai của Thủ tướng, Hiến pháp năm 1992 quy
định Thủ tướng Chính phủ: “Lãnh đạo công tác của Chiính phủ, các thành viên
Chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ”.
Thực chất là Thủ tướng Chính phủ “chỉ đạo, điều hành” chứ không phải “điều
hoà”, “phối hợp” như quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Chính
phủ năm 1981 nữa. Tuy nhiên, Luật tổ chức Chính phủ năm 1992 chưa thể hiện
23


rõ hơn hai tư cách nói trên của Thủ tướng Chính phủ qua các quy định về thẩm
quyền và quy chế làm việc của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Là người đứng đầu chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm cá
nhân về mọi mặt hoạt động của Chính phủ. Các Phó Thủ tướng là người giúp
việc Thủ tướng, được uỷ quyền của Thủ tướng khi Thủ tướng vắng mặt. Phó
Thủ tướng không phải là một cấp quản lý trong Chính phủ. Vì vậy, cá nhân Phó
Thủ tướng chỉ được quyết định khi được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền trong
những trường hợp nhất định.
Thực tế đã chứng minh rằng, chế độ Thủ tướng, với sự tăng cường chế độ
thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ trong tổ

chức và hoạt động của Chính phủ, đã khắc phục được những nhược điểm cơ
bản của hình thức tổ chức làm việc Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng theo hiến
pháp năm 1980 là hoạt động không hiệu quả, và nhiều khi biến tập thể thành
hình thức.
Một hình thức hoạt động quan trọng khác của Chính phủ là thông qua các
thành viên Chính phủ. Trong Chính phủ, bộ trưởng hoạt động với hai tư cách:
tư cách thứ nhất là thành viên Chính phủ, tham gia giải quyết những vấn đề
quan trọng của Chính phủ thông qua các phiên họp Chính phủ; tư cách thứ hai
là người đứng đầu một bộ, lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành các hoạt động của bộ.
Nhiệm vụ và quyền hạn của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ được quy
định tại Luật tổ chức Chính phủ năm 1992 (Điều 23) về cơ bản là đầy đủ. Do
đó, bộ trưởng là người có thẩm quyền cao nhất và có trách nhiệm về ngành, lĩnh
vực mình phụ trách dưới sự tập trung thống nhất của Thủ tướng Chính phủ,
chịu trách nhiêm trước Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội.
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới, Chính phủ đã làm được nhiều
việc để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Nhiều hoạt động đã đạt được
những kết quả tốt, có ý nghĩa quan trọng trên bước đường đổi mới, và đã được
phân tích sâu sắc qua các báo cáo định kỳ và hàng năm kiểm điểm về hoạt động
chỉ đạo, điều hành và tình hình thực hiện quy chế làm việc của Chính phủ do
Văn phòng Chính phủ thực hiện.

24


Trước hết, Chính phủ đã chỉ đạo tập trung năng lực và điều kiện hoạt
động của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương và địa
phương vào chức năng quản lý hành chính nhà nước; phân biệt rõ các hoạt động
thuộc chức năng quản lý nhà nước với các hoạt động quản lý kinh doanh; xoá
bỏ dần cơ chế chủ quản đối với các doanh nghiệp. Chương trình công tác của
Chính phủ tập trung vào các vấn đề thuộc chức năng quản lý nhà nước ở tầm vĩ

mô, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, quy hoạch, kế hoạch, chiến lược
phát triển, nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành ccủa bộ máy hành chính, khắc
phục và tháo gỡ khó khăn trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Sau bốn năm thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ năm 1992, trước
yêu cầu đổi mới Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 218-TTg ngày 7-4-1997
quy định một số biện pháp cải tiến lề lối làm việc của Chính phủ và chế độ
thông tin báo cáo (theo tinh thần nghị quyết số 05-CP ngày 11-1-1997 của
Chính phủ); tiếp đó, Chính phủ đã ban hành quy chế làm việc mới của Chính
phủ (theo Nghị định số 11/1998/NĐ-CP ngày 24-01-1998) được sửa đổi, bổ
sung so với Quy chế năm 1992. Bản Quy chế làm việc mới của Chính phủ về cơ
bản đã phân định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ; giải
quyết cụ thể các vấn đề phối hợp liên ngành, tăng cường kỷ luật hành chính,
khắc phục tình trạng đưa trình lên Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ những
công việc thuộc thẩm quyền của bộ trưởng; bảo đảm thông tin thông suốt phục
vụ yêu cầu chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Đồng thời Chính phủ chỉ đạo Văn phòng Chính phủ nghiên cứu đổi mới
Quy chế làm việc của Văn phòng Chính phủ bảo đảm cụ thể hơn, khả thi hơn;
nghiên cứu từng bước việc hoàn thiện việc xây dựng chương trình công tác, cải
biến chế độ hội họp và giảm bớt giấy tờ hành chính; định kỳ (hàng tháng, quý,
sáu tháng, cả năm) tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành và tình hình thực hiện
Quy chế làm việc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng và
các thành viên khác của Chính phủ.

25


×