Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tiểu luận cao học tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.34 KB, 13 trang )

1
TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNG GHEN VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VỚI GIAI CẤP VÔ SẢN
TRONG TÁC PHẨM "TUN NGƠN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN"
Tác phẩm "Tun ngơn của Đảng cộng sản" do C.Mác, Ph.Ăngghen soạn thảo vào cuối
năm 1847 và được công bố vào tháng 2 năm 1848. Đây là một sự kiện chính trị đã làm
rung chuyển cả Châu Âu và toàn thế giới. Với giá trị và ý nghĩa lớn lao đố đã khẳng
định Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là cương lĩnh chính trị và kim chỉ nam cho hành
động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp cơng
nhân (GCCN) và nhân dân lao động tồn thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản
(CNTB), giải phóng lồi người thốt khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới
- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
Vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ nhất
cơ bản đã hồn thành ở Châu Âu, nó đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa (TBCN) phát triển. Nhất là ở những nước lớn như Anh, Pháp phương thức
sản xuất TBCN đã chiếm giữ vị trí thống trị, ở nhiều nước Tây Âu sự phát triển
của CNTB đang diễn ra mạnh mẽ, như ở Đức mà nhất là ở tỉnh Ranh - quê hương
của C. Mác.
Tuy nhiên, sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN đã đã bộc lộ rõ tính hạn
chế của nó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích, đánh giá chính xác, tồn diện về
chủ nghĩa tư bản CNTB ở Châu âu, đồng thời chỉ ra quá trình phát sinh, phát triển
mâu thuẩn vốn có trong lịng xã hội tư bản. Lúc này trên vũ đài chính trị giữa giai
cấp vô sản (GCVS) và giai cấp tư sản (GCTS) mâu thuẩn với nhau về lợi ích kinh
tế - chính trị. Chính vì vậy, đã dẫn đến sự đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp
diễn ra gay gắt. GCVS lúc này đóng vai trị là lực lượng quan trọng trong đời sống
xã hội, phong trào vô sản phát triển mạnh mẽ, điều này được thể hiện qua các
phong trào đấu tranh của GCVS chống lại GCTS mà tiêu biểu là những cuộc đấu
tranh của công nhân ở thành phố Ly-ơng (Pháp) năm 1837 với khẩu hiệu:"Cộng
hồ hay là chết"; phong trào hiến chương ở Anh năm 1838 với khẩu hiệu: "Cải tiến



2
chế độ bầu cử"; cuộc nổi dậy của công nhân thợ dệt ở vùng Xilêdi (Đức) năm 1844
với khẩu hiệu "Xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ cơng bằng"... nhìn chung các
phong trào đấu tranh đều mang tính quần chúng rộng rãi và có tính mục đích muốn
xoá bỏ chế độ tư hữu, như vậy ý thức chính trị của GCCN đã được xác định.
Nhưng các phong trào đều thất bại, vì chưa có một Đảng Cộng sản thực sự là lãnh
tụ chính trị để lãnh đạo phong trào đấu tranh.
Vào giai đoạn này, trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển sang nước Đức. Lúc
này ở Đức đang tiến hành cuộc cách mạng tư sản, GCVS Đức chưa giác ngộ được
địa vị của mình, chưa thấy được con đường đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội. Thực tiễn lúc này địi hỏi phải tổ chức GCVS thành một lực lượng
đối lập khi tham gia trong phong trào dân chủ tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
nhận thấy muốn thực hiện được điều đó, trước hết phải thành lập ra chính đảng của
GCVS, phải tuyên truyền rộng rãi lý tưởng cộng sản chủ nghĩa (CSCN), củng cố
mối liên hệ với những công nhân tiên tiến và trí thức cách mạng.
Mặc dù giai đoạn này ở Châu âu đã xuất hiện nhiều tổ chức của GCCN, nhưng
chưa có tổ chức nào thể hiện rõ tính chất của một tổ chức chính trị. Một trong
những tổ chức được C.Mác quan tâm đến nhiều hơn cả là "Liên đồn những
người chính nghĩa" (thành lập năm 1836). Đây là tổ chức mang tính quốc tế gồm
những người tiên tiến của GCCN ở nhiều nước khác nhau trên thế giới bị nhà
nước tư sản trục xuất ra nước ngoài, sống lưu vong ở Pháp; tổ chức này do GiôDép-Môn lãnh đạo.
Lúc đầu về lý luận, "Liên đồn những người chính nghĩa" chưa thốt khỏi chủ
nghĩa xã hội khơng tưởng với những trào lưu đang hình thành rất đa dạng, phức
tạp như các trào lưu tư tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh-XiMông, của Xác-Lơ-Furiê, của Rô-Be-ôoen. Mặc dù trong tư tưởng này có mặt
tiến bộ là đưa ra lý luận xây dựng chế độ xã hội công bằng, tự do, bình đẳng, bác
ái và đưa ra mơ hình về chủ nghĩa xã hội tốt đẹp. Đây là một trong những cơ sở
để hình thành Học thuyết Mác. Nhưng về mặt hạn chế của các tư tưởng này là
không lý giải được bản chất phản động của chế độ xã hội đương thời (chế độ xã
hội TBCN); không luận giải được sự vận động phát triển của xã hội. Nhất là từ



3
CNTB lên CNXH các ông đã không nhận thấy sứ mệnh lịch sử thế giới của
GCCN; về phương pháp thì phiêu lưu, mạo hiểm tách khỏi phong trào công nhân.
Theo quan điểm của các ông để xây dựng chế độ xã hội cơng bằng, bình đẳng
khơng phải là cách mạng xã hội, mà là con đường tuyên truyền giáo dục, bằng
hành động gương mẫu... những hạn chế đó đã khơng đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn cuộc đấu tranh của GCCN, mà ngược lại nó cịn có tác động kìm hãm phong
trào đấu tranh của cơng nhân, xố nhồ mâu thuẩn cơ bản trong xã hội tư bản
(giữa GCVS và GCTS), chính những tư tưởng đó đã khơng giác ngộ được
GCCN.
Năm 1843 Giô-Dép-Môn đã mời C.Mác và Ph.Ăngghen tham gia vào "Liên đồn những
người chính nghĩa", hai ơng khơng tham gia đã từ chối nhưng không từ bỏ tổ chức này.
Dù khơng tham gia trong " Liên đồn những người chính nghĩa", nhưng hai ơng vẫn
thường xun tìm cách để truyền bá tư tưởng của mình vào tổ chức này để từng bước
giác nộ tư tưởng chính trị của ban lãnh đạo Liên đoàn.
Năm 1847 C.Mác và Ph.Ăngghen đã gia nhập vào tổ chức "Liên đồn những
người chính nghĩa" vì hai ông đã nhận rõ tổ chức này họ sẵn sàng cải tổ và hai
ông đã hy vọng việc cải tổ " Liên đồn những người chính nghĩa" thành một Đảng
vô sản triệt để theo những nguyên lý của học thuyết cách mạng mới. Cuối năm 1847
đại hội "Liên đoàn những người chính nghĩa" nhằm cải tổ "liên đồn", Ph.Ăngghen
đã đến dự đại hội. Tại đại hội này đã đổi tên "Liên đoàn" thành "Liên đoàn những
người cộng sản" - thực chất đây là đại hội thành lập một tổ chức mới, thông qua điều
lệ mới do Ph.Ăngghen soạn thảo. Với những luận điểm quan trọng có tính chất cương
lĩnh trong điều lệ mà điều đầu tiên đã nêu lên mục đích của "Liên đồn những người
cộng sản", theo tinh thần của CNCS khoa học là: Đánh đổ GCTS, giành chính quyền
về tay GCVS, thủ tiêu xã hội tư sản, xây dựng xã hội mới xã hội khơng có giai cấp và
khơng có chế độ tư hữu. Khẩu hiệu có tính chất tiểu tư sản " Tất cả mọi người đều là
anh em" được thay bằng khẩu hiệu có tính chiến đấu và cách mạng: " Vô sản tất cả

các nước đoàn kết lại". Đây là sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh nhằm thành
lập một chính Đảng vô sản.


4
Đối với tổ chức của "Liên đoàn những người cộng sản" lúc này đòi hỏi phải được củng
cố bằng việc thông qua cương lĩnh mới, do vậy phải triệu tập Đại hội lần thứ hai. C.Mác
và Ph.Ăngghen được cử làm đại biểu đi dự đại hội, cả hai ông đã nhận rõ ý nghĩa của đại
hội này, tại đại hội sẽ xoá bỏ những trở ngại để khẳng định những nguyên lý của CNCS
khoa học và lập trường của tổ chức vơ sản Quốc tế. Q trình chuẩn bị đại hội Ban Chấp
Hành Trung ương đã dự thảo cương lĩnh gửi cho các chi bộ để thảo luận, nhưng sau đó bị
coi là chưa đạt.
Được sự uỷ nhiệm của Liên đoàn ở Pa-ri, Ph.Ăngghen đã viết bản dự thảo khác
lấy tên là "những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản" Ph.Ăngghen đã phác thảo
những luận điểm có tính cương lĩnh và sách lược quan trọng nhất của Đảng Vô
sản. Tuy vậy, Ph.Ăngghen coi đó chỉ là cương lĩnh sơ thảo vì nội dung cương
lĩnh địi hỏi phải xác minh đầy đủ, trình bày mạch lạc. C.Mác và Ph.Ăngghen
cho rằng khi soạn thảo văn kiện cương lĩnh đòi hỏi phải làm cho những nguyên
lý của Đảng Cộng sản mang hình thức một bản tun ngơn có tính chiến đấu
của Đảng Vơ sản. Cuối năm 1847 Đại hội lần thứ hai của "Liên đoàn những
người cộng sản" được tiến hành. Đại hội này đã diễn ra những cuộc tranh luận
gay gắt trong khi thảo luận về những nguyên lý của CNCS khoa học do C.Mác
và Ph.Ăngghen đưa ra đã giành thắng lợi. Hai ông được Đại hội uỷ nhiệm soạn
thảo cương lĩnh dưới hình thức một bản tun ngơn.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã hồn thành việc soạn thảo Tun ngơn của Đảng Cộng
sản - cương lĩnh đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Là tác
phẩm lý luận, tổng kết quá trình hình thành chủ nghĩa Mác về thế giới quan cách
mạng và khoa học của GCVS.
Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn đã được Ph.Ăngghen khái quát trong
lời tựa cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883 : "Trong mỗi thời đại lịch sử, sản

xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả
hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ
khi chế độ cơng hữu ruộng đất nguyên thuỷ tan rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự
phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà


5
giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vơ sản) khơng cịn có thể tự giải phóng
khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu khơng
đồng thời và vĩnh viễn giải phóng tồn thể xã hội khỏi bóc lột, ách áp bức và khỏi
những cuộc đấu tranh giai cấp" (1).
___________________
(1) C.Mác, Ph.Ăngghen, tuyển tập. Nxb Hà Nội 1980, tr 509 - 510.
Tư tưởng cơ bản đó chỉ đạo xun suốt tồn bộ tác phẩm được C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày rõ ràng, mạch lạc, với những luận điểm đặc sắc trong bốn
chương của tác phẩm, với nội dung phong phú bao quát nhiều vấn đề rộng lớn.
Nghiên cứu tồn bộ tác phẩm cho ta thấy tính hợp lơ-gích, sự nhất qn giữa các
vấn đề mà được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày cùng với những thực tiễn sinh
động ... Điều đó đã tỏ rõ nội dung tư tưởng của tác phẩm đã đề cập một cách bao
quát toàn diện, sâu sắc về sự phát triển của xã hội, vai trò của lý luận cách mạng
trong cuộc đấu tranh giai cấp của tiến trình lịch sử nhân loại.
Trong khuôn khổ bài luận này, xin đề cập tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen
trình bày về mối quan hệ giữa đảng cộng sản với giai cấp vô sản trong tác phẩm
Tun ngơn của Đảng Cộng sản.
Khi phân tích xã hội tư bản và quá trình hình thành, phát triển của giai cấp tư sản và
vô sản C.Mác và Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ sự ra đời, phát triển của GCVS luôn gắn
liền với sự ra đời, phát triển CNTB và sự phát triển của nền sản xuất đại công
nghiệp. sự phát triển đó khơng những đã làm tăng thêm số người vơ sản, mà cịn tập
hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn. "Nhưng sự phát triển của công

nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành
những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản tăng thêm và họ
thấy rõ lực lượng của mình hơn" (1). Điều đó có nghĩa rằng chủ nghĩa tư bản càng
phát triển, càng làm cho giai cấp vô sản phát triển nhanh cả về số lượng và chất
lượng, nói cách khác giai cấp cấp vơ sản chính là sản phẩm của nền sản xuất đại
công nghiệp. Mặt khác, CNTB càng phát triển càng làm cho mâu thuẫn giữa hai
giai cấp chủ yếu trong xã hội tư bản (GCTS và GCVS) vốn đã gay gắt lại càng gay
gắt hơn và như vậy tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, C.Mác và Ph. Ăngghen chỉ


6
rõ: " Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Cuộc đấu tranh
của họ chống giai cấp tư sản ngay từ lúc họ mới ra đời"

(1)

. Và các cuộc đấu tranh

đó bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã hội. Từ sự phân tích cơ cấu
giai cấp, đặc điểm của các giai cấp, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ:" Trong tất cả
các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản là giai
cấp thực sự cách ___________________
((1) C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội 1995, tập 4, tr 607.
mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của
đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp" (1). và chỉ rõ GCVS hiện đại có sứ mệnh lịch sử là người đào huyệt chơn
CNTB và xây dựng thành công xã hội - xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Hai
ơng cịn chỉ rõ để bảo đảm cho GCVS sản thực hiện được sứ mệnh lịch sử của
mình tất yếu GCVS phải tổ chức ra chính đảng để tập hợp lực lượng lãnh đạo, dẫn
dắt phong trào công nhân, đưa phong trào công nhân từ đấu tranh tự phát lên đấu

tranh tự giác, biến GCCN từ giai cấp tự mình thành giai cấp vì mình. C.Mác,
Ph.Ăng ghen cũng chỉ ra rằng vơ sản phải tất yếu đi đến cộng sản đó là biện chứng
của sự phát triển, sự ra đời của đảng là kết quả của một quá trình phát triển tất yếu
của GCVS. Như vậy Đảng cộng sản ra đời vừa là đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn
phong trào đấu tranh của GCVS vừa là tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của
phong trào đấu tranh của GCVS đã đạt đến trình độ tự giác. Điều đó có nghĩa rằng
đảng chưa ra đời, thì phong trào vơ sản cịn dừng ở trình độ tự phát và ngược lại
khi phong trào vơ sản cịn ở trình độ tự phát thì đảng cũng chưa ra đời. Chỉ khi nào
đảng ra đời tức là phong trào vơ sản đã phát triển đến trình độ tự giác. Đến đây
chúng ta có thể khảng định rằng Đảng cộng sản là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu
tranh chính trị của GCVS chống lại GCTS. Giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản,
giữa những người cộng sản và những người vơ sản có mối quan hệ biện chứng
thống nhất nhưng không đồng nhất, tức là giữa họ vừa có điểm giống nhau, vừa có
điểm khác nhau. C.Mác, Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ những người cộng sản và những
người vô sản giống nhau và khác nhau ở chỗ: " Người cộng sản không phải là một
đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên khơng có một


7
lợi ích nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vô sản... Những người cộng sản
chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh
của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo
vệ những lợi ích khơng phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể GCVS; hai là,
trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn
luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào"

(1)

. Như vậy theo quan điểm của


C.Mác và ___________________
(1) C.Mác, Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội 1995, tập 4, tr 614.
Ph.Ăng ghen Đảng cộng sản và GCVS luôn luôn quan hệ chặt chẽ với nhau. Đảng
là lực lượng ưu tú nhất của giai cấp, lãnh tụ chính trị của giai cấp, Đảng là biểu
hiện tập trung của sức mạnh, ý chí, nguyện vọng và lợi ích của giai cấp. Đảng với
tư cách là lãnh tụ chính trị, Đảng sẽ tuyên truyền giáo dục, giác ngộ GCVS, tập
hợp đoàn kết giai cấp đấu tranh thực hiện mục tiêu chung, làm cho cuộc đấu tranh
giai cấp từ tự phát trở thành tự giác, từ cuộc đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính
trị và cuối cùng là cuộc cách mạng vô sản đập tan mọi xiềng xích áp bức bóc lột
của GCTS. Như vậy, Đảng là hiện thân của giai cấp đã tự giác, Đảng là một bộ
phận không thể tách rời giai cấp. Mục tiêu lý tưởng, lập trường của Đảng là mục
tiêu lý tưởng lập trường của giai cấp công nhân. Sự thống nhất giữa Đảng với giai
cấp thể hiện ở chỗ Đảng luôn đứng vững trên lập trường giai cấp để giải quyết mọi
vấn đề của cách mạng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng theo nguyên tắc
tổ chức hoạt động của giai cấp. Đảng gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp, sự tồn
tại, phát triển của Đảng vì sứ mệnh của giai cấp vô sản. Đảng kết thúc vai trò khi
sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản hồn thành. Trong tác phẩm C.Mác,
Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ: " Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là
mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản
thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản giành lấy
chính quyền" (2) . Nhiệm vụ của Đảng Cộng sản trong từng giai đoạn; giai đoạn thứ
nhất: Tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp
tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền; giai đoạn thứ hai: Dùng sự thống trị
chính trị của mình để từng bước đoạt lấy tồn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để


8
tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay Nhà nước. Với tư cách giai cấp
thống trị, giai cấp vô sản dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ, đồng thời tiêu
diệt những điều kiện của sự đối kháng giai cấp. Nó tiêu

diệt các giai cấp nói chung và cũng tiêu diệt cả sự thống trị của chính giai cấp mình.
Đảng khơng cịn tồn tại cùng với sự mất đi của giai cấp cũng là tất yếu khách quan.
C.Mác, Ph.Ăng ghen không những chỉ ra những điểm thống nhất mà còn chỉ ra sự
khác biệt giữa Đảng cộng sản và GCVS: Về sự ra đời và vị trí vai trị của
___________________
(1) Sđd, tr 615.
Đảng Cộng sản và GCVS, GCVS ra đời trước, nó gắn liền với nền sản xuất đại
công nghiệp, là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Đảng cộng sản ra đời sau so
với GCVS gắn liền với phong trào công nhân và là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu
tranh chính trị của GCVS chống lại GCTS, Đảng chỉ ra đời khi phong trào đấu
tranh của GCVS đã phát triển đến một trình độ nhất định.
Đảng cộng sản khơng phải là tồn bộ GCVS, không đồng nhất với giai cấp, Đảng
chỉ là một bộ phận của giai cấp, gắn liến với giai cấp, Đảng là lãnh tụ chính trị, đội
tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng không đứng trên hoặc đứng
ngoài giai cấp. Đảng gồm những người ưu tú nhất của giai cấp, giác ngộ nhất trong
giai cấp. Vì vậy Đảng là đội tiền phong của giai cấp cả về lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: những người cộng sản hơn bộ phận còn lại của GCVS ở chỗ họ
hiểu rõ điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vơ sản. Bởi vì Đảng
Cộng sản được tiếp thu một hệ thống lý luận cách mạng và khoa học của giai cấp
cơng nhân, đó là hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng lý
luận. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải sâu sắc về những quy luật tất yếu khách
quan của tiến trình lịch sử nhân loại. Mặt khác Đảng Cộng sản là người hơn ai hết
đi tiên phong trong nắm bắt và vận dụng sáng tạo các quy luật trong sự phát triển,
hoàn thiện lý luận trong tiến trình cách mạng.
Về mặt thực tiễn: Đảng Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất của GCVS, là bộ
phận luôn thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên. Đảng cộng sản bao gồm những
người ưu tú nhất của giai cấp, Đảng là đội tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu có


9

tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp cơng nhân. Tính tiền phong của
Đảng khơng chỉ thể hiện trên lĩnh vực lý luận mà còn được thể hiện trong hoạt
động thực tiễn, luôn luôn thể hiện ở lời nói đi đơi với việc làm. Đó là Đảng định ra
cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng, tổ chức tuyên truyền,
hướng dẫn và kiểm tra quá trình thực hiện nhiệm vụ, Đảng kiên trì vượt qua mọi
khó khăn thử thách trong từng giai đoạn. Cả trong đấu tranh cách mạng giành
chính quyền cũng như đối mặt với những thách thức của thực tiễn đời sống xã hội.
Các thành viên của Đảng gương mẫu hơn, giác ngộ hơn, tích cực hơn quần chúng
trong lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng. Chính vì Đảng bao gồm những
phần tử ưu tú nhất của giai cấp, nên Đảng trở thành lãnh tụ chính trị của giai cấp
vơ sản, Đảng có sứ mệnh trọng đại là lãnh đạo giai cấp và dân tộc, dẫn dắt phong
trào vô sản đi đến thắng lợi, đây là hai mặt của một vấn đề giữa chúng có mối quan
hệ biện chứng với nhau, đòi hỏi lẫn nhau, nếu Đảng là đội tiền phong của giai cấp
thì Đảng giữ vai trị lãnh đạo phong trào, ngược lại nếu Đảng muốn giữ được vai
trị lãnh đạo thì Đảng phải thực sự là đội tiền phong, trước hết là tiền phong về trí
tuệ, đây là vấn về có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong phân định ranh giới giữa
Đảng và bộ phận còn lại của giai cấp cũng như giữa đảng viên và những người vô
sản khác.
Trong khi luận giải mối quan hệ giữa những người cộng sản và những người vô
sản, C.Mác, Ph.Ăng ghen cũng đã chỉ rõ mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc, nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vơ sản, tính chất quốc tế của phong
trào vô sản, phạm vi của vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản. Theo C.Mác,
Ph.Ăng ghen, GCVS mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, tự xây dựng
thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc. Việc xố bỏ nạn người bóc lột
người, xoá bỏ sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ quốc gia, dân tộc thì
đồng thời cũng xố bỏ được nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác và sự thù địch
giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo. Điều đó có nghĩa rằng GCVS ở mỗi
nước, trước hết phải thực hiện thắng lợi mục tiêu của mình, việc thực hiện thắng
lợi mục tiêu của GCVS ở mỗi nước cũng chính là góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu của toàn bộ GCVS trên toàn thế giới. C.Mác, Ph.Ăng ghen đã chỉ ra tính



10
chất của cuộc cách mạng vơ sản, đó là một cuộc cách mạng toàn diện nhất, sâu sắc
nhất và triệt để nhất, từ đó các ơng đã nêu ra mười biện pháp cụ thể nhằm cải tạo
xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản. Tuy nhiên C.Mác, Ph.Ăng
ghen cũng chỉ rõ ở mỗi nước khác nhau thì việc vận dụng những biện pháp ấy cũng
khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Từ tính chất gay go,
quyết liệt, phức tạp của cuộc cách mạng vô sản, để tránh cho các Đảng cộng sản
không mắc phải sai lầm trong quá trình đấu tranh. C.Mác, Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ
các Đảng cộng sản và giai cấp vô sản phải luôn kiên định với đường lối chiến lược
và sách lược, đó là phải chiến đấu cho mục đích trước mắt của giai cấp vô sản,
đồng thời họ cũng phải đại biểu, bảo vệ cho tương lai của giai cấp vô sản, tức là
phải kiên trì phấn đấu tiếp cho mục đích cuối cùng. Trong khi liên hiệp với các
Đảng phái khác để chống GCTS, Đảng cộng sản phải giữ vững nguyên tắc, giữ
vững lập trường của GCCN, không xa rời đường lối chiến lược, liên hiệp nhưng
vẫn phải đấu tranh với các đảng phái khác để bảo vệ những nguyên tắc của mình.
Để vạch trần bản chất của GCTS và xã hội tư bản, C.Mác , Ph.Ăngghen đã đấu
tranh, phê phán sự vu khống của GCTS đối với GCVS như vấn đề vế sử hữu, vấn
đề về tự do cá nhân, vấn đề về chế độ gia đình, vấn đề tơn giáo, vấn đề dân tộc, tổ
quốc, vấn đề quốc tế... Thực chất đây chỉ là sự lừa bịp nhằm che đậy bản chất của
chúng. Thông qua việc đấu tranh phê phán đó, hai ơng đã bảo vệ, làm rõ quan điểm
của mình về GCVS, về Đảng cộng sản và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nghiên cứu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa Đảng và
giai cấp trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, là vấn đề có ý nghĩa sâu
sắc đối với tất Đảng cộng sản nói chung và mỗi người cộng sản trên thế giới. Tiếp
thu những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp
trong tác phẩm là cơ sở lý luận vững chắc trong xem xét, nhìn nhận, vận dụng một
cách đúng đắn hơn, sâu sắc hơn đối với công tác xây dựng và hoạt động của Đảng
nhằm củng cố mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp trong giai đoạn hiện nay. Từ khi

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời cho đến nay, đã trải qua hơn 150 năm, dù
hồn cảnh lịch sử đã có nhiều thay đổi. Song những tư tưởng về mối quan hệ giữa
Đảng và giai cấp được C.Mác, Ph.Ăngghen trình bày trong "Tuyên ngôn" không


11
hề thay đổi, vẫn còn nguyên giá trị, vẫn đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam cho
hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế .
Đảng Cộng Sản Việt nam mãi mãi trung thành với tư tưởng về mối quan hệ giữa
Đảng và giai cấp của C.Mác, Ph.Ăngghen trình bày trong tác phẩm "Tun ngơn
của Đảng Cộng sản". Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta ln trung thành với chủ
nghĩa Mác-Lênin nói chung, với những ngun lý của "Tun ngơn của Đảng
cộng sản" nói riêng. Những thắng lợi lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chứng tỏ rằng Đảng ta khơng chỉ trung thành mà
cịn vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" vào điều kiện cụ thể của nước ta. Hiện nay đất
nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước,
đưa nước ta thốt khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, vì mục tiêu dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong điều kiện tình hình quốc tế
đang có những biến động hết sức nhanh chóng, phức tạp. Chúng ta cần phải đẩy
mạnh hơn nữa cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực trong đó việc
xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một nội dung có ý nghĩa hết
sức quan trọng, là vấn đề then chốt của những vấn đề then chốt. Để xây dựng Đảng
ta ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Trước hết cần
phải giữ vững và tăng cường bản chất GCCN của Đảng đây là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta. Vì vậy Đảng phải không ngừng tăng cường
bản chất GCCN của Đảng, quan tâm chăm lo xây dựng, phát triển GCCN đoàn kết
xung quanh Đảng, làm nguồn sức mạnh dồi dào để bổ xung cho Đảng. Bởi vì đó
chính là cơ sở, là điều kiện để đảm bảo cho Đảng thực sự là một Đảng Mác xít, là
đội tiền phong của GCCN. Thực tiễn đã cho thấy Đảng Cộng sản ra đời, là Đảng

của GCVS, để củng cố địa vị lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp địi hỏi phải ln
ln thắt chặt mối quan hệ giai cấp. Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta xác định đổi
mới và hồn thiện các chính sách cụ thể : " Đối với giai cấp công nhân, coi trọng
phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "trí thức hố công nhân", nâng cao năng lực
ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu


12
quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân
trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo,
quản lý và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú; tăng thành phần công nhân
trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành"(1). Với nội dung cơ bản đó, Đảng
cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ sự kiên định giữ vững niềm tin, trung thành
tuyệt đối và vận dụng sáng tạo những tư tưởng cách mạng và khoa học của
"Tuyên ngôn" về vấn đề giữ vững và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với giai
cấp. Nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Xây dựng Đảng ta vững
mạnh về mọi mặt, với vai trò là đội tiền phong, lãnh tụ chí trị, bộ tham mưu chiến
đấu của giai cấp cơng nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp
công nhân dân lao động và của cả dân tộc; nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu cuối
cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Học tập, nghiên cứu tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với GCVS của
C.Mác, Ph.Ăngghen trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". Trong điều
kiện hiện nay, để giữ vững bản chất giai cấp công nhân, Đảng phải tuyệt đối trung
thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút kinh
nghiệm bổ sung và phát triển lý luận. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của
Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong
Đảng, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ chức kỷ
luật của giai cấp công nhân. Xây dựng đội ngũ đảng viên có đủ phẩm chất và năng
lực. Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân. Đảng phải trung thành với chủ nghĩa quốc tế của GCVS, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng phải không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, nhất là năng lực trí tuệ để có đủ khả
năng xác định đường lối đúng đắn, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của GCCN


13
và nhân dân lao động. Đảng phải kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn mọi biểu hiện
tiêu cực làm trong sạch Đảng. Xây dựng Đảng toàn diện trên tất cả các mặt như
vậy mới bảo đảm cho Đảng lãnh đạo thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay.



×