Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

tiểu luận cao học Tư tưởng của mác – ănghen về đảng cộng sản trong tác phẩm tuyên ngôn đảng cộng sản và ý nghĩa của nó đối với công tác xây dựng và phát triển ĐCSVN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.54 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây hơn 160 năm, C.Mác đã thay mặt những những người cộng
sản “công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ
của mình” bằng bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bất hủ. Từ một cương
lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
ngay sau khi ra đời đã trở thành Cương lĩnh chung của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, thành ngọ cờ dẫn dắt con đường cách mạng thế giới.
Trong hơn 160 năm qua, cuộc sống, và tình thế giới loài người đã có
nhiều thay đổi nhưng những trị to lớn, bền vững, những nguyên lý cơ bản của
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn tràn đầy sức sống, vẫn mãi là ngọn cờ tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Cũng như Ăngghen đã nói nó vẫn là “ tác phẩm phổ biến hơn cả, có
tính chất quốc tế hơn cả, trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là
cương lĩnh chung của hang triệu công nhât tất cả các nước từ Xibia đến
Caliphoócnia”. Đặc biệt là tư tưởng của Tuyên Ngôn về Đảng Cộng Sản và
vai trò của Đảng cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân thì vẫn soi sáng cho sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng cộng sản
các nước trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự nghiệp cách mạng của của dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng cộng
sản ra đời đã bước sang một trang mới, Đảng là ánh sáng soi dọi con đường
cách mạng Việt Nam đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi
của sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền, thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh
bảo vệ Tổ Quốc qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, hơn thế là thắng lợi của công cuộc đổi mới. Có được những
thắng lợi đó là do Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn hợp lý
những nguyên lý của Tuyên Ngôn vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta, đặc
biệt là tư tưởng của Mác Ăngghen về xây dựng đảng và vai trò của Đảng
Cộng Sản.
1



Ngày nay đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế với nhiều vận hội và cũng không ít những thách thức mới thì
những tư tưởng đó càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với sự nghiệp lãnh đạo
của Đảng. Vì những lý do trên em xin chọn đề tài: “Tư tưởng của Mác –
Ăngghen về Đảng cộng sản trong tác phẩm Tuyên ngôn Đảng cộng sản và
ý nghĩa của nó đối với công tác xây dựng và phát triển ĐCSVN hiện nay”
làm đề tài kết thúc môn tác phẩm kinh điển I nhằm bước đầu khảng định lại
giá trị tư tưởng và thực tiễn của Tuyên Ngôn đồng thời chứng minh sự vận
dụng tài tình của Đảng ta về những tư tưởng trong Tuyên Ngôn đặc biệt là tư
tưởng về xây dựng Đảng cộng sản và vai trò của Đangt cộng sản.
2. Tình hình nghiên cứu.
Về tình hình nghiên cứu, đến nay chưa có một bài nào viết thành một
bài hoàn chỉnh mà chỉ có những cuốn sách do các nhà nghiên cứu viết về
những nội dung cụ thể liên quan đến đề tài. Nhưng đã có rất nhiều bài viết nói
về ý nghĩa thời đại của Tuyên Ngôn, bài viết về giá trị của Tuyên Ngôn với
cách mạng Việt Nam. Song những bài viết mang tính chất nghiên cứu và bình
luận, đánh giá. Đó là:
- 160 năm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848 - 2008) – Học viện
chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh – Viện khoa học xã hội Việt
Nam. NXB Lý Luận Chính Trị.
- Nguyễn Phú Trọng: “ Tuyên ngôn Đảng cộng sản” và công cuộc đổi
mới ở và công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Doãn Hùng: Sáng mãi tinh thần Tuyên ngôn đảng cộng sản
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là tư tưởng về các vấn đề xây dựng
đảng cộng sản, vai trò đảng cộng sản trong Tuyên Ngôn của đảng cộng sản.
Đồng thời là quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong việc vận dụng tư
tưởng đó.


2


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Đề tài có mục đích làm rõ sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam về
tư tưởng vai trò Đảng Cộng Sản trong tác phẩm Tuyên Ngôn của Đảng Cộng
Sản đối với công tác xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó
thấy được ý nghĩa thời đại của Tuyên Ngôn.
Từ mục đích trên Đề tài có nhiệm vụ là phân tích lý luận về vai trò của
Đảng cộng sản trong Tuyên Ngôn, phân tích sự vận dụng đúng đắn của Đảng
về tư tưởng đó trong công tác xây dựng và phát triển Đảng Cộng Việt Nam.
Qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài có phạm vi nghiên cứu là tư tưởng về xây dựng đảng cộng sản
trong tác phẩm “Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản” và quá trình vận dụng tư
tưởng đó của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam từ 1930 đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là tư tưởng về các vấn đề xây dựng
đảng cộng sản, vai trò đảng cộng sản trong Tuyên Ngôn của đảng cộng sản.
Đồng thời là quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong việc vận dụng tư
tưởng đó.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài được chia làm 2 chương và 7 tiết.
Chương I: Tư tưởng Mác – Ăngghen về Đảng cộng sản trong tác phẩm
Tuyên ngôn Đảng cộng sản.
Chương II: Ý nghĩa tư tưởng về đảng cộng sản Mác – Ăngghen với
công tác xây dựng và phát triển Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, do trình độ còn hạn chế nên đề tài của em
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được sự đóng góp

của các cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
TRONG TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG SẢN
1.1. Khái quát chung về tác giả - tác phẩm.
1.1.1. Khái quát về tác giả.
1.1.1.1. C.Mác.
C.Mác sinh ngày 5-5-1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình luật sư
Heinrich Mác. Năm mười hai tuổi vào học trường trung học ở Tơriơ, ở đây
Mác đã bộc lộ những phẩm chất thiên tài của mình nhất là trong lĩnh vực đòi
hỏi tính độc lập sáng tạo. Năm 1835 Mác tốt nghiệp trường trung học sau đó
vào học tại đại học tổng hợp Bon, một thời gian sau Mác lại chuyển vào
trường Đại học Tổng hợp Berlin, ngoài luật học, sử học, ngoại ngữ C.Mác bắt
đầu nghiên cứu triết học. Ngày 15-4-1841 khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được
bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của
Đêmôcrít, và triết học tự nhiên của Êpique tại trường Iêna.Tháng Năm 1843,
C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và ông đã chính thức
lam lễ thành hôn với jenny.
Năm 1844 Mác viết tác phẩm phê phán triết học pháp quyền Heeghen.
Từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1844 Mác viết Bản thảo kinh tế triết học. Năm
1845 Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm Gia đình thần thánh để phê phan
chủ nghĩa duy tâm của phái Heeghen trẻ, đồng thời nêu ra vai trò quyết định
của tầng lớp nhân dân trong lịch sử. Năm 1848 được sự ủy nhiệm của Đại hội
II Liên đoàn những người cộng sản C. Mác và Ph.Ăng- ghen viết Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa C.
Mác và đảng vô sản.

Ngày 28-9-1864, C.Mác đã sang lập ra Quốc tế cộng sản I tại Luân
Đôn và là người trực tiếp tổ chức và lãnh đạo. Năm 1867 bộ tư bản tập1 ra
đời đó là tác phẩm chủ yếu của Mác, còn tập II và tập III do Ph.Awngghen
4


viết. Năm 1876 sau khi Quốc tế cộng sản đệ nhất giải tán, C. Mác nêu lên ý
kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu
trong phong trào công nhân.
Như vậy chúng ta có có thể thấy C.Mác đã dành chọn cả cuộc đời của
mình cho việc nghiên cứu khoa học, tìm ra các quy luật và con đường đi lên
chủ nghĩa cộng sản giải phóng loài người khỏi sự áp bức bất công, cho sự tiến
bộ của loài người.
1.1.1.2.Ph. Ăngghe
Ph. Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh,
Vương quốc Phổ trong một gia đình đại tư bản ngành rệt. Từ nhỏ Ăngghen đã
bộc lộ tính cách độc lập. Năm 14 tuổi ông học tai trường tại thành phố
Barmen và ở đây ông đã sớm bộc lộ tài năng về ngoại ngữ. Năm 1834
Ăngghen đã chuyển sang trường trung học Elberfelder. Năm 183 ông đã rời
trường học theo yêu cầu của cha và bắt tay vào công việc buôn bán. Năm
1839 Ăngghen bắt tay và nghiên cứu tác phẩm của Hêghen. Tháng 9-1841
Ăngghen ra ngập quân ngũ và ra quân một năm sau đó. Sau đó ông sang Anh
bắt đầu học buôn bán và trong thời gian này ông đã gặp C.Mác và ông đã viết
nhiều bài Đăng trên các báo.
Tháng 2-21845 ông đã viết chung cùng C.Mác cuốn sách Gia đình thần
thánh phê phám mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu
luận điểm về vai trò quyết định của nhân dân trong lịch sử, tiếp đó hai ông
cùng hợp sức viết chung tác phẩm nổi tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845-1846)
phê phán mạnh mẽ chử nghãi duy tâm và của Heeghen và phái Heeghen trẻ.
Năm 1848, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác

và Ph. Ăng- ghen cùng viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Tháng 3-1848, cùng với Mác, ông đã thảo ra Những yêu sách của Đảng
cộng sản Đức được Ban chấp hành trung ương thông qua như văn kiện có tính
chất cương lĩnh cho hanh động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4- 1848 ông
cùng với C.Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức. Tháng 10/1848
5


ông đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng ông không được
phép cư trú chính trị. Ph. Ăng- ghen lại đến Paris sau đó sang Thuỵ Sĩ tham
gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung
ương của tổ chức này. Nam 1849 ông trở về Đức và tiếp tục hoạt động và ông
đã tham gia rất tích cực và sôi nổi, lên kế hoạch và trực tiếp tham gia các trận
đánh lớn.
Tháng 11/1849, Ph. Ăngghen đến Luân đôn và được bổ sung vào BCH
Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản
Năm 1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ
công xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có
giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp phần to lớn cho
việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa C. Mác. Sau khi C. Mác qua đời (1883),
Ph. Ăngghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở
châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn
thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối
đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên,
Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).
1.1.2. Hoàn cảnh ra đời và kết cấu tác phẩm.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ra đời trong thời điểm
phong trào cách mạng thế giới đang phát triển mạnh mẽ, cần phải có một
cương lĩnh chính trị của riêng mình.
Trong những năm 1847- 1848, Mác -Ăngghen vừa xây dựng lý luận

cách mạng vừa tích cực tham gia phong trào công nhân, đặc biệt quan tâm việc
xây dựng tổ chức của phong trào công nhân quốc tế. Tháng 6/1847 Ăngghen
đổi tên tổ chức “Đồng minh những người chính nghĩa” thành “Đồng minh
những người cộng sản”, đây đã trở thành tổ chức đầu tiên của những người
cộng sản, đánh dấu bước mở đầu cho phong trào cộng sản thế giới. Đại hội lần
thứ hai của “Đồng minh những người cộng sản” họp tại Luân Đôn cuối năm
6


1847 đã ủy nhiệm cho Mác và Ăngghen khởi thảo cương lĩnh chính thức để
Đảng công bố công khai. Ngày 24/2/1848, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
đã được công bố rộng rãi. Trong thời gian từ 1848- 1951 bản “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản” được dịch sang nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Italia, Tây Ban
Nha...và được phổ biến ở nhiều nước châu Âu và Mỹ. Sự ra đời của tác phẩm
vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác gồm ba
bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Văn kiện rực rỡ đánh dấu thời đại này vừa là cương lĩnh của phong trào cộng
sản thế giới, vừa là bách khoa toàn thư bỏ túi của chủ nghĩa Mác.
1.2. Nội dung tư tưởng của Mác – Ăngghen về đảng cộng sản trong
tác phẩm tuyên ngông đảng cộng sản.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng định
rằng, giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải
phóng toàn xã hội.
Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không
tổ chức thành chính đảng của giai cấp, Đảng được hình thành và phát triển
xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Quan điểm cơ bản về chủ
nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và
Ăngghen trình bày rõ trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.
Nội dung Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph.Ăngghen

trình bày gồm lời mở đầu và bốn chương. Ngoài ra, mỗi lần xuất bản, hai ông
còn viết lời tựa để thuyết minh và làm rõ hơn nội dung tư tưởng của Tuyên
ngôn (bổ sung nội dung Tuyên ngôn).
Lời mở đầu: hai ông nói rõ mục đích biên soạn tuyên ngôn là “công
khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích ý đồ của
mình...để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”.
Chương I. “Tư sản và vô sản”. Chương này các ông nêu lên một cách
khái quát quy luật phát triển của xã hội loài người, nêu lên vị trí lịch sử của
7


giai cấp tư sản, sư đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Từ đó các
ông nêu lên sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng cộng
sản.
Về sự phát triển của xã hội loài người, các ông đã nêu rõ quan điểm
rằng:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên
thủy tan rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai
cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp bóc lột. Đến xã hội tư bản hiện đại cũng
phân chia thành hai giai cấp lớn thù địch với nhau, đó là giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản của sự vận động của lịch sử xã hội hiện đại
là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó
đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa
cộng sản.
Về vị trí lịch sử của giai cấp tư sản hai ông đã nêu rõ sự ra đời của giai
cấp tư sản và nên rõ địa vị của tư sản trong xã hội tư bản. Từ đó nói lên sự đối
lập về lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
những công trường thủ công được thay thế bằng những xí nghiệp hiện đại,
những chủ công trường thủ công đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là

những nhà tư sản hiện đại. Khi mới ra đời giai cấp tư sản là một lực lượng
cách mạng có một vai trò hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát
triển của lực lượng sản xuất đang lên, giai cấp tư sản đã làm cuộc cách mạng
lật đổ giai cấp phong kiến quý tộc, giành địa vị thống trị. Sau khi nắm được
chính quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá hủy những quan hệ sản xuất
phong kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập hệ thống trị của quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Chưa đầy một
thế kỷ, giai cấp tư sản thống trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.

8


Để đáp ứng yêu cầu của sản xuất và trao đổi, giai cấp tư sản đã thẳng
tay xóa bỏ tình trạng cát cứ, phong kiến. Trên cơ sở đó, đưa đến sự tập trung
về kinh tế chính trị, hình thành một quốc gia dân tộc thống nhất, phục vụ cho
lợi ích của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản thiết lập thị trường thế
giới. Đồng thời, chúng buộc các dân tộc chậm phát triển phải du nhập cái gọi
là văn minh tư sản, làm nảy nở nền văn hóa thế giới.
Giai cấp tư sản đã thiết lập nền dân chủ tư sản. Tuy là nền dân chủ cắt
xén, nhưng so với chế độ quân chủ chuyên chế thì đó là một tiến bộ trong lịch
sử.
Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học - kỹ
thuật. Đồng thời sẽ xóa bỏ tất cả những gì không phù hợp với lợi ích của bản
thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong
lịch sử. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên chỉ ra cho chúng ta thấy rõ
loài người có khả năng làm được những gì.
Vốn có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò cách
mạng của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn
giản hóa giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. Nó phân chia xã hội ra làm

hai phe thù địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản đấu tranh nảy sinh ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời.
Giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí để giết mình, nó còn tạo ra
những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô
sản.
Từ địa vị trái ngược giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, đứng trên
cơ sở lập trường của giai cấp công nhân hai ông đã nêu lên sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân và sự ra đời của Đảng cộng sản.
Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa
tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là điều mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Sứ mệnh
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp vô
9


sản trong lịch sử quy định. Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công
nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều
dần dần bị phân hóa, suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên
cùng với sự phát triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản được tuyển lựa trong
tất cả các giai cấp trong dân cư. Sự tiến bộ của đại công nghiệp còn đẩy từng
bộ phận trong giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai cấp vô sản, bộ phận ấy
cũng đem lại cho giai cấp vô sản những yếu tố tiến bộ. Hơn nữa, khi đấu tranh
chống chế độ phong kiến, giai cấp tư sản buộc phải kêu gọi sự giúp đỡ của
giai cấp vô sản, và do đó, đã lôi cuốn giai cấp vô sản vào cuộc vận động chính
trị, nghĩa là đã cung cấp cho giai cấp vô sản những yếu tố tri thức chính trị
phổ thông, những vũ khí mà sau này giai cấp vô sản sẽ sử dụng để chống lại
giai cấp tư sản.
Giai cấp vô sản không có tài sản, phải bán sức lao động cho tư sản, họ
phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường.
Những người vô sản chẳng có cái gì là của mình để bảo vệ, họ phải phá hủy

hết thảy những cái gì từ trước tới nay vẫn bảo đảm và bảo vệ cho chế độ tư
hữu.
Giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, còn các giai cấp trung
gian mang tính bảo thủ, hơn thế họ còn là phản động, tìm cách làm cho bánh
xe lịch sử quay ngược trở lại. Đoàn kết thống nhất là một thuộc tính cơ bản
của giai cấp vô sản để đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Giai cấp vô sản luôn bị áp bức cùng cực bởi giai cấp tư sản. Giai cấp tư
sản đã không đảm bảo cho giai cấp vô sản những điều kiện sinh hoạt tối thiểu
cho họ có thể sống được trong vòng nô lệ. Như vậy, có nghĩa là, sự tồn tại của
giai cấp tư sản không còn tương dung với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Do đó, “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất
yếu như nhau”. Song, để bảo đảm bảo cho sự thắng lợi đó, giai cấp vô sản
phải có những điều kiện đảm bảo cho công cuộc tự giải phóng mình. Trong
Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ph.Ăngghen đã chỉ ra điều
10


đó: “Chính do bản thân các sự biến và do những thành bại trong cuộc đấu
tranh chống tư bản - do những thất bại nhiều hơn là do những thành công - mà
công nhân không thể không cảm thấy rằng tất cả các môn thuốc vạn ứng của
họ đều vô dụng, họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy tường tận những
điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp công nhân”. Điều kiện đó
là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu để
đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử.
Những cuộc đấu tranh đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết
thành tổ chức. Sự tổ chức như vậy thành chính Đảng. Sự tồn tại, phát triển
của Đảng vì sứ mệnh của giai cấp vô sản. Đảng kết thúc vai trò khi sứ mệnh
lịch sử thế giới của giai cấp vô sản hoàn thành. Trong cuộc đấu tranh, Đảng
Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của mình giai cấp vô sản mà cả
các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ

công, nông dân. Song, khi sắp rơi vào hàng ngũ vô sản họ đã tự nguyện từ bỏ
quan điểm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ
lợi ích tương lai của họ. Hơn nữa, khi cuộc đấu tranh giai cấp tiến gần tới giờ
quyết định, giai cấp thống trị bị phân hóa, một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai
cấp này đi theo giai cấp vô sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản
vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ cuộc vận động. Thực tiễn đó
đã khẳng định rằng, các tầng lớp trung gian và cả giai cấp thống trị (tầng lớp)
trên của xã hội cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của mình để tham gia
hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Chương II: “Những người vô sản và những người cộng sản”. Chương
này Các. Mác và Ăng ghen đã trình bày tính tiên phong của Đảng Cộng Sản,
mối quan hệ giữa Đảng Cộng Sản và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa xã hội khoa học, một số nguyên lý chiến lược, sách lược cách
mạng.
Mác và Ăngghen chỉ rõ rằng, giữa những người cộng sản và giai cấp vô
sản không có sự cách biệt; bởi vì, những người cộng sản là bộ phận tiên tiến
11


giác ngộ và kiên quyết nhất của giai cấp vô sản. Đảng cộng sản thực hiện
những nhiệm vụ lịch sử của giai cấp vô sản. Mục đích của giai cấp vô sản và
Đảng Cộng sản là thống nhất. Về nhận thức, nếu tách Đảng cộng sản ra khỏi
giai cấp vô sản, hoặc ngược lại, lẫn lộn Đảng cộng sản với giai cấp vô sản là
sai lầm, vì nó phủ nhận sự tồn tại của chính Đảng vô sản. Sự khác nhau giữa
Đảng cộng sản và giai cấp vô sản là ở chỗ: “Về thực tiễn, những người cộng
sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là
bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; về mặt lí luận, họ hơn bộ phận còn
lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết
quả chung của phong trào cộng sản.”
Như vậy, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Những

người cộng sản khác những người vô sản bình thường ở chỗ họ có tư tưởng
cách mạng tiên tiến và bao giờ cũng đứng ở hàng đầu của phong trào vô sản.
Để hoàn thành sứ mệnh của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản giai
cấp vô sản phải xây dựng mình “thành giai cấp thống trị, là phải dành lấy dân
chủ”, là không thể chỉ “nắm lấy bộ máy nhà nước sẵn có và dùng nó cho lợi
ích của mình”, mà phải đập tan bộ máy nhà nước tư sản. Đây là lý luận cơ bản
của học thuyết chuyên chính vô sản và cách mạng vô sản. Bạo lực cách mạng
là hình thức tất yếu của cách mạng vô sản để tiêu diệt chế độ cũ. Trong Tuyên
ngôn có viết: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng
bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả
những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô
sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thất nhanh số lượng
những lực lượng sản xuất lên”.
Để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản,
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định và bảo vệ một loạt những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lý luận của những người cộng
sản là sự phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản. Tuyên ngôn
đã khẳng định: “lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên
12


những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh
hay phát hiện ra”. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những điều
kiện thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một phong trào lịch
sử đang diễn ra.
Kết thúc chương II, Tuyên ngôn nêu lên một số biện pháp cụ thể nhằm
thủ tiêu chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ sở hữu
công cộng của toàn xã hội. Tuy nhiên. Mác cũng nêu lên: “trong những nước
khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”:
“1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và bỏ địa tô vào quỹ chi tiêu của nhà

nước.
2. Đánh thuế theo mức độ lũy tiền cao nhất.
3. Xóa bỏ quyền thừa kế’
4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ
phiếnloạn
5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nước bằng một ngân hàng quốc gia
mà vốn liếng sẽ thuộc về nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn
toàn.
6. Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước.
7. Tăng thêm số công xưởng quốc doanh và công cụ sản xuất; vỡ đất
hoang và cải tạo đất trồng trọt, theo một kế hoạch chung.
8. Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người; tổ chức các
đạo quân công nghiệp, đặc biệt là cho nông nghiệp.
9. Kết hợp lao động nông nghiệp với lao động công nghiệp; thi hành
những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.
10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả trẻ em. Xóa bỏ việc
dùng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với
sản xuất vật chất...

13


Chương III: “Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”.
Trong chương này Mác, Ăngghen phê phán những khuynh hướng “xã
hội chủ nghĩa” không mang tính chất giai cấp vô sản. Chủ nghĩa xã hội phong
kiến, chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, chủ nghĩa xã hội tư sản và chủ nghĩa xã hội
“chân chính”, kể cả chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tuy nhiên Mác, Ăngghen
đã phân tích và đánh giá rất công bằng và đúng đắn, chủ nghĩa xã hội không
tưởng của Xanh Ximông, Phuirê, Ooen. Theo các ông, dù có những khuyết
điểm lớn, nhưng chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phê phán mạnh mẽ chế độ

tư bản, góp phần thức tỉnh quần chúng lao động, đứng dậy đấu tranh, phác
thảo một xã hội tương lai, mà một số luận điểm về xã hội này được Mác,
Ăngghen chứng minh là đúng. Vì vậy, Chủ nghĩa xã hội không tưởng được
coi là một nguồn hình thành chủ nghĩa Mác.
Chương IV: “Thái độ của những người Cộng sản đối với các Đảng đối
lập.
Chương này khẳng định lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về
những vấn đề chiến lược và sách lược mềm dẻo của Đảng. Nguyên tắc có ý
nghĩa chiến lược của người cộng sản là: Chiến đấu cho mục đích trước mắt
của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo
vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào.
Xuất phát từ thực tế lịch sử của nước Đức và một số nước ở Châu Âu
lúc đó, những mục đích và lợi ích trước mắt của giai cấp vô sản bấy giờ là đấu
tranh đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế thực hiện quyền tự do dân chủ;
còn tương lai của phong trào là đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột của giai
cấp tư sản. Ở tất cả các nước, những người cộng sản ủng hộ mọi phong trào
cách mạng, và trong những phong trào ấy, họ vẫn đưa vấn đề sở hữu lên hàng
đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào.
Trong khi liên hợp với các đảng phái để chống lại thế lực phản động
đang thống trị, Đảng Cộng sản xác định rằng: giành độc lập, liên minh nhưng
phải có đấu tranh, có thỏa hiệp. Tất nhiên bao giờ Đảng cũng phải giữ vững
14


nguyên tắc và giữ vững lập trường của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản
tuyên bố quan điểm cách mạng không ngừng, mục đích của họ chỉ có thể đạt
được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Trong cuộc
cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích
trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng, họ giành cả thế giới cho mình.
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, là khẩu hiệu chiến đấu công khai

tuyên bố quá trình quốc tế của phong trào vô sản.
1.2.1. Khái niệm về đảng cộng sản
Trong tác phẩm Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản chưa nói đến thuật
ngữ “ Đảng cộng sản” mà các ông nói đến “những người cộng sản”. Trong tác
phẩm các ông đã nói rằng: “ Những người cộng sản không phải là một Đảng
riêng biệt, đối lập với các Đảng Công nhân khác”[66;1]
Tác phẩm cũng đã chỉ rõ: “ Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là
bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; Về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn
lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết
quả chung của phong trào vô sản”.[66-67;1]
“ Họ tuyệt nhiên không một có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn
thể giai cấp vô sản”[66;1]
Qua những tư tưởng trên, C. Mác và Ăng ghen đã khẳng định tính giai
cấp của Đảng Cộng sản, quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân. C. Mác
và Ăng ghen đã khẳng định, đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đó là bộ phận tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân.
Đảng là bộ phận không tách rời và quan hệ mật thiết với giai cấp công nhân,
tổ chức lãnh đạo giai cấp công nhân đấu tranh và luôn đại biểu trung thành
cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản, tức là đại biểu cho lợi ích của giai
cấp công nhân và các giai cấp tầng lớp lao động khác. Giai cấp công nhân
chính là cơ sở giai cấp của Đảng

15


Chúng ta thấy rằng Mác và Ăng ghen tuy chưa đưa ra thuật ngữ Đảng
Cộng sản nhưng các ông đã rút ra những điểm của những người vô sản. Theo
các ông những người cộng sản sẽ tập hợp lại thành một Đảng cộng sản, những
người này chính là những người tiên phong nhât trong phong trào công nhân,

họ là bộ phận tiên phong cả về tư tưởng và hành động trong phong trào của
giai cấp vô
1.2.2. Về vai trò, vị trí của đảng cộng sản
Trong Tuyên ngôn Mác và Ăgghen đã chỉ rõ mục đích trước mắt của
tất cả các chính đảng là: “ Tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”, xóa
bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, giái phóng toàn xã hội mọi khỏi áp bức,
bóc lột thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Dựa vào kinh nghiệm lịch sử xây dựng
chính đảng của giai cấp vô sản, C.Mác và Ăng ghen còn chỉ ra rằng: “ Sự tổ
chức như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính
đảng, luôn luôn bị cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó
luôn luôn được tái lập và luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn và hùng mạnh
hơn”[67;1]. Điều này chứng tỏ phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa dù có
thăng trầm nhưng cuối cùng giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của chính
đảng cách mạng , nhât định sẽ thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình.
Nghiên cứu chính đảng vô sản trong Tuyên ngôn, chủ nghĩa Mác còn
chỉ rõ chính đảng vô sản có những đặc điểm: Đảng mang tính giai cấp, đại
diện cho lợi ích giai cấp, đảng phải có mục đích nhiệm vụ rõ ràng, Đảng phải
có lý luận soi đường, “…những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành một luận điểm duy nhất này là: Xóa bỏ chế độ tư hữu”[68;1].
Nhưng xóa bỏ chế độ tư hữu như thê nào? Điều này chỉ ra Đảng phải có sách
lược linh hoạt. Trong Tuyên Ngôn Các. Mác và ăng ghen còn dành riêng một
chương để trình bày sách lược của chính đảng vô sản. Trước hết là nguyên tắc
sách lược chung cho chính Đảng: “ Những người cộng sản chiến đấu cho
những mục đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng
16


đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai
của phong trào”, tức là của dân tộc.Trong Tuyên ngôn cũng chỉ rõ rằng Đảng

theo chủ nghĩa quốc tế vô sản và phấn đấu cho mục tiêu cuối cùng là thực
hiện chủ nghĩa cộng sản…
Tuyên ngôn cũng đã đề cập các nguyên tắc cần nắm vững khi đề ra
sách lược của Đảng trong cuộc đấu tranh cách mạng: phải xuất phát từ điều
kiện hoàn cảnh cụ thể về tình hình kinh tế- xã hội, kết cấu và mâu thuẫn giai
cấp, phân tích một cách sâu sắc để đề ra sách lược của Đảng, phải tuân thủ
các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, phải trên cơ sở mục tiêu và việc
thực hiện mục đích cuối cùng, thực hiện thắng lợi lý tưởng cộng sản để xác
định mục đích trước mắt, kết hợp chặt chẽ vấn đề quốc tế với vấn đề dân tộc,
ủng hộ các phong trào có tính chất cách mạng của các đảng phái khác, liên
hợp với họ để chống lại các thế lực phản động nhưng phải phê phán những tư
tưởng và biểu hiện của sự ảo tưởng của các đảng phái đó đồng thời không
phút nào quên giáo dục cho công nhân ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng
kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Tóm lại bằng việc đưa ra mục đích của đảng cộng sản và đưa ra nguyên
tắc để đảng đề ra sách lược trong đấu tranh cách mạng thì Mác và Ăng ghen
đã nói lên vai trò của đảng cộng sản là lãnh đạo giai cấp công nhân đấu trnah
giành chính quyền từ tay tư sản và xây dựng xã hội mới đó chính là xã hội
cộng sản chủ nghĩa.

17


CHƯƠNG II. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN MÁC –
ĂNGGHEN VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. Sự ra đời Đảng cộng sản
Khái niệm Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã được hiểu sao cho phù
hợp với Từ những quan điểm về những người cộng sản trong Tuyên Ngôn,
những tư tưởng luận điểm về những người cộng sản trong Tuyên Ngôn. Trong

Điều lệ Đảng đã ghi rõ: Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc.[3-4;3] Đồng thời đảng làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với phong trào cộng sản quốc tế.
Đảng gồm những người ưu tú nhất, có giác ngộ cộng sản chủ nghĩa,
gương mẫu dũng cảm và hi sinh nhất trong giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và các tầng lớp lao động khác,
tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng để phấn đấu cho mục đích lý tưởng
của Đảng.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện
thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên tiếp cận những tư tưởng Tuyên ngôn về
Đảng cộng sản, những người cộng sản. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
khẳng định Đảng cộng sản không có lợi ích nào khác ngoài việc đem lại lợi
ích cho giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. “ Đảng là đầy tớ thật trung
thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động”.
2.2. Vai trò, vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam được ra đời 1930 do chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và lãnh đạo.
18


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng – cả thời kỳ chưa cầm quyền, đã
cầm quyền và đang cầm quyền, Đảng có nhiều nghị quyết bàn về hệ thống
chính trị nói chung và đặc biệt là về vai trò lãnh đạo của Đảng nói riêng.
Trong quá trình lãnh đạo của mình Đảng ta đã thể hiện được vị trí và vai trò
của mình bằng việc lãnh đạo đất nước và nhân dân ta đi hết từ thắng lợi này

đến thắng lợi khác.
Đảng cộng sản Việt Nam cũng chính là một chính đảng của giai cấp
công nhân và nó nằm trong hệ thống chính đảng của giai cấp vô sản trên thế
giới. Vì thế mà Đảng cộng sản Việt Nam cũng luôn coi Tuyên Ngôn của
Đảng cộng sản là cương lĩnh chính trịnh đầu tiên của mình và là kim chỉ nam
đối với việc lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong mọi đường lối, tư tưởng
sách lược mà Tuyên Ngôn nêu ra về vai trò lãnh đạo của Đảng, đường lối của
Đảng đều được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong quá trinh lãnh đạo
cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay.
Nói về vai trò lãnh đạo của Đảng, trong điều lệ Đảng cũng đã chỉ rõ:
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập dân chủ giàu mạnh,
xã hội công bằng văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành
công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản[4;3]
Đảng cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Việt Nam thực hiện hai cuộc cách mạng đó là cách mạng dân tộc
dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng những tư tưởng về những nguyên tắc đề ra sách lược của
Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã lãnh đạo giai cấp
công nhân Việt Nam và nhân dân lao động từng bước giành hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
2.2.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Namtrong cuộc đấu
tranh giành chính quyền (1930-1945)
Năm 1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở sat nhập ba tổ
chức là: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông
19


Dương Cọng sản liên đoàn,dưới sự chủ trì của đồng chí Nguễn Ái Quốc.
Ngay sau khi ra đời Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta trải qua các phong trào
cách mạng rộng lớn 1930- 1931, phong trào đâu tranh đòi dân chủ dân sinh

1936- 1939 và phong trào giải phóng dân tộc 1939- 1945, Đảng đã kiên trì
bền bỉ, dũng cảm lãnh đạo giai cấp công nhân và dân tộc Việt nam thực hiện
mục tiêu chiến lược là độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân, các quyền
tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân.
Từ những tư tưởng nguyên tắc đề ra sách lược trong Tuyên Ngồn đó là:
xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, trên cơ sở mục tiêu và thực hiện
mục đích cuối cùng, thực hiện thắng lợi lý tưởng cộng sản để thực hiện mục
đích trước mắt… Trong giai đoạn này Đảng ta đã vận dụng đúng đắn những
nguyên tắc trong Tuyên Ngôn, mỗi giai đoạn, mỗi cao trào Đảng lại đề ra
những nhiệm vụ cụ thể và chuyển hướng cách mạng để thực hiện mục tiêu
cuối cùng của cách mạng, luôn luôn kết hợp và giương cao hai ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nếu như thời kỳ 1936-1939 Đảng đề ra mục
tiêu đòi dân sinh dân chủ chống đế quốc thì từ nghị quyết Hội nghị trung
ương 11- 1939 và nhấtt là hội nghị trung ương tháng 5- 1941, Đảng cộng sản
Việt nam đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, kết hợp chặt chẽ
mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp nhuần nhuyễn lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
Vận dụng tư tưởng của Tuyên Ngôn trong giai đoạn này Đảng đã tiến
hành thành lập nhiều Mặt trận dân tộc thống nhất để đoàn kết tập hợp các tầng
lớp, giai cấp công nhân vào mặt trận để chống lại kẻ thù.
Cách mạng tháng tám 1945 do đảng cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo thành công là một cuộc cách mạng xã hội vĩ đại chưa từng
thấy ở nước ta, là sự đổi đời cho toàn dân tộc, toàn thể giai cấp những người
lao động. Tư tưởng cách mạng của Tuyên Ngôn đã được hiện thực hóa ở một
nước phong kiến lạc hậu và là thuộc địa chủ chủ nghĩa tư bản thực dân. Cách
mạng tháng tám thắng lợi đã xóa bỏ chế độ phong kiến, thuộc địa và mở ra
20


một kỉ nguyên mới cho lịch sử dân tộc- kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội.
2.2.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong những năm kháng chiến
kiến quốc (1945-1954)
Sau thắng lợi của cách mạng tháng tám 1945 Đảng ta trở thành Đảng
cầm quyền và đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc đấu tranh chống Đế
quốc Pháp.
Thời kỳ sau khi dành thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng tám 1945
các thế lực đế quốc đã vào xâm lược Việt Nam hòng lật đổ chính quyền cách
mạng non trẻ của chúng ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo của chủ tich Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam chúng ta đã bảo vệ thành công chính quyền
cách mạng và đánh thắng sự xâm lược trở lại của thực dân Pháp.
Giai đoạn này Đảng ta vẫn vận dụng nguyên tắc sách lược trong Tuyên
Ngôn đặc biệt đó là nguyên tắc biết phân tích tình hình, phân tích mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều
sách lược quan trọng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Đó là sách lược hòa hoãn
với Tưởng để đánh Pháp, chúng ta đã quyết định ký kết hiệp định sơ bộ 1946,
bản tạm ước 14-9. Tất cả để phục vụ cho mục tiêu lâu dài là chuẩn bị lực
lượng để đánh Pháp.
Trong giai đoạn này tư tưởng trong Tuyên Ngôn về tập hợp lực lượng
rộng rãi cũng đã được Đảng triển khai trong việc thành lập Mặt Trận Liên
Việt. Và với chiến thắng Điện Biên Phủ chúng ta đã giành thắng lợi “ lừng lẫy
năm châu, trấn động địa cầu” đuổi quân Pháp ra khỏi nước ta với Hiệp định
Giơ ne vơ.
Nhờ sự vận dụng sang tạo Tuyên Ngôn Đảng ta đã dẫn dắt nhân dân ta
đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã đưa uy tín của Đảng và hình ảnh
vị thế của đất nước ta lên tầm cao mới, góp phần vào trang sử hào hung dựng
nước và dữ nước hơn bốn nghìn năm của dân tộc.

21



2.2.3. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong những năm kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, hoàn thành cách mạng giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước (1954-1975).
Sau khi miền Bắc được giải phóng Đảng ta đã tiến hành lãnh đạo hai sự
nghiệp song song đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành
kháng chiến chống Mỹ ở miền nam. Việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
này đã chứng tỏ Đảng ta biết vận dụng tư tưởng sáng tạo trong Tuyên Ngôn
về vai trò của Đảng cộng sản đó là xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà bước đầu
là chủ nghĩa xã hội. Đảng đã biết kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng
tùy vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi miễn, đây chính là tư tưởng cách mạng
không ngừng trong Tuyên Ngôn. Đảng đã lãnh đạo miền Bắc trở thành hậu
phương lớn cho tiền tuyến lớn ở Miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân ta đã liên tục giành thắng
lợi ở cả 2 miền. Ở miền Bắc đã đảm bảo thắng lợi cải tạo xã hội, xây dựng xã
hội mới. Ở miền Nam với thắng lợi đại thắng mùa xuân 1975 đã đánh dấu
chặng đường mới của cách mạng Việt Nam- cả nước thống nhất và cùng tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước với
việc đánh đổ 4 âm mưu chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ đã chứng tỏ
Đảng ta biết vận dụng khéo léo trong việc đề ra sách lược đối với từng chiến
lược cách mạng âm mưu của Mỹ. Mỗi chiến lược đảng ta lại tuân theo các
nguyên tắc trong Tuyên Ngôn để ra sách lược đấu tranh phù hợp.
Ở chiến dịch chiến tranh đơn phương đánh dấu bằng hội nghị trung
ương 15 đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của đảng ta nhằm
đấu trnah hòa bình sang vũ trang cách mạng. Đặc biệt đến 1975, đảng ta đã
liên tục mở các hội nghị chính trị và hội nghị chính trị mở rộng để phân tích
đánh giá đúng tình hình và chớp thời cơ cách mạng.
Giai đoạn này Đảng ta cũng vận dụng khéo léo trong việc thể hiện bản
chất quốc tế của chính đảng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Đảng đã kết
hợp sự đấu tranh với các nước anh em Lào trong các cuộc hành quân, và các

22


chiến dịch cách mạng. Đồng thời Đảng cộng sản Việt Nam cũng tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước, các chính đảng vô sản trên thế giới.
2.2.4. Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội( 1975- nay)
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, dân tộc Việt Nam đã bước sang một
kỷ nguyên mới đó là kỷ nguyên mà nhiệm vụ nhiệm vụ cần giải quyết ngay
là: khác phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, từng bước ổn định đời
sống nhân dân; nhanh chóng hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà
nước; tìm con đường quá đọ lên chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với đạc điểm
nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội do tư tưởng chủ
quan nóng vội, cùng với những nguyên nhân khác, vào cuối những năm 70
đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội… Để vượt qua những khó khăn thách thức mới nảy sinh,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, từng bước tìm
tòi khảo nghiệm cách thức quản lý phù hợp và hiệu quả. Mục đích cuối cùng
của chủ nghĩa xã hội như Tuyên Ngôn đã đề ra, là xóa bỏ chế độ tư hữu;
nhưng như PH. Ăngghen trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản(1847) đã nêu rõ không thể ngay lập tức xóa bỏ tư hữu cũng như không
thể ngay lập tức có được lực lượng sản xuất hiện đại. Phải nhận rõ điều đó
trong thời kỳ quá độ.
Hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nội dung của đường lối đổi mới chính là
thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới. Đại hội VI (12-1986)
của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, từ đổi mới tư duy
đến đổi mới tổ chức cán bộ; từ đổi mới phương pháp lãnh đạo đến phong cách
công tác; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị, tư tưởng, văn hóa... Đổi

mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Song đó hoàn toàn
không phải là sự thay đổi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà là làm cho
23


mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn bằng những quan niệm đúng đắn
và những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Đổi mới tư duy là nhằm loại bỏ những quan niệm sai lầm, khắc phục
những nhận thức lạc hậu, lỗi thời về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ nghĩa xã
hội, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị là nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng
cường sức mạnh và hiệu lực của toàn bộ hệ thống chính trị để bảo đảm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Toàn bộ thành tựu của công cuộc đổi mới ở
Việt Nam và những diễn biến trên thế giới vừa qua chứng minh rằng, trước
tình hình có nhiều thay đổi, thời cơ và thách thức luôn luôn xuất hiện, nếu
không kiên định lập trường, xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc sẽ dẫn
đến đổ vỡ không gì cứu vãn được. Mặt khác, nếu tự bằng lòng với những
nguyên lý lý luận sẵn có, xơ cứng giáo điều, không đi sâu tìm tòi, tổng kết
thực tiễn để kịp thời điều chỉnh thì sẽ không tận dụng được thời cơ, vượt qua
khó khăn, thách thức để đưa đất nước tiến lên. Sức sống của Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản không chỉ ở những luận điểm, nguyên lý chung mà còn được
thể hiện ở việc bổ sung, vận dụng sáng tạo vào các hoàn cảnh lịch sử cụ thể
để giành thắng lợi.
Thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta trước hết được thể hiện ở
lĩnh vực kinh tế. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng cơ bản
của Tuyên ngôn là: "Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã
hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu
thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy". Với

quan niệm đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước hết là, và trọng
tâm là quá trình xây dựng, phát triển kinh tế. Nhìn lại hơn 20 năm qua, đường
lối xây dựng kinh tế của Đảng ta đã có bước phát triển về nhận thức lý luận.
24


Từ tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang tư duy kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ xây dựng chế độ sở hữu đơn nhất
chuyển sang chế độ đa sở hữu bình đẳng cùng phát triển, trong đó công hữu là
nền tảng, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Từ Nhà nước độc quyền
quản lý, can thiệp trực tiếp vào kinh tế chuyển sang Nhà nước quản lý bằng
chính sách, pháp luật, kế hoạch, lực lượng vật chất và một số công cụ khác.
Từ phân phối bình quân, cào bằng chuyển sang phân phối theo lao động, kết
hợp với các hình thức phân phối khác theo mức độ đóng góp thực tế vào quá
trình tạo ra của cải và qua phúc lợi xã hội. Từ quan niệm công bằng theo kiểu
bình quân trong phân phối thu nhập chuyển sang quan niệm công bằng về cơ
hội phát triển, trên cơ sở Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho mọi người có
cơ hội phát triển. Từ tư duy kinh tế khép kín sang tư duy kinh tế mở, đẩy
mạnh hợp tác và hội nhập, v.v...
Những đổi mới tư duy trong lĩnh vực kinh tế nói trên là xuất phát từ
thực tiễn nước ta, một nước nghèo nàn, kinh tế lạc hậu, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất còn thấp kém. Do đó, trước hết phải tập trung phát triển
lực lượng sản xuất, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, tiến lên
hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, tạo điều kiện cho mọi người
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển trong một thể thống nhất,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nó đòi hỏi phải
giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội. Đây là hai nội dung của mục tiêu phát triển nhanh và bền vững

trong tất cả các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường ở nước ta. Tăng
trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục, vì mục tiêu
phát triển con người, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Nhà nước có vai
trò tổ chức, dẫn dắt và tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
25


×