Tiểu luận
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với trên 160 năm tồn tại và trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (gọi tắt là Tuyên ngôn) do C.Mác và Ph.Ăng-ghen
khởi thảo vẫn luôn là cơ sở lý luận khoa học, ngọn cờ tư tưởng, ngôi sao dẫn
đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, vẫn rực sáng với tư tưởng vĩ đại của nó - tư tưởng giải phóng các giai cấp và
tầng lớp cần lao, và nói rộng ra là giải phóng tồn bộ xã hội, giải phóng lồi người
khỏi mọi sự áp bức, bất công. Tuyên ngôn, ngay từ lúc ra đời và kể từ đó trở đi,
ln ln là bản hiệu triệu hào hùng và ngọn cờ chiến đấu đầy khí phách cho tư
tưởng vĩ đại ấy. Tuyên ngôn đã trải qua hơn một thế kỷ rưỡi mà vẫn tồn tại, khơng
chỉ như một văn kiện có tính lịch sử mà còn là ngọn đuốc soi đường cho cả hiện
tại và tương lai.
Dù bất kể ai, bất cứ lúc nào, đứng về phía này hay phía khác, ủng hộ hay
phản đối Tuyên ngôn cũng đều phải thừa nhận một sự thật lịch sử khơng gì có thể
chối cãi được. Đó là Tuyên ngôn đã thức tỉnh, tập hợp giai cấp công nhân và
những người lao động làm thuê khác thành một lực lượng to lớn chống sự áp bức,
bóc lột, giành được những quyền lợi và quyền lực ngày càng quan trọng. Nếu như
giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa cộng sản cịn là một “bóng ma” ám ảnh châu Âu, như
các thế lực của châu Âu cũ từng rêu rao, thì với sự ra đời của Tuyên ngôn, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng, cái “bóng ma” ấy đã thực sự trở thành một thế lực
cụ thể, và cái thế lực ấy cứ ngày một lớn dần lên, trở thành những phong trào cách
mạng hừng hực khí thế, những cuộc cách mạng bùng nổ dữ dội và cả những quyền
lực nhà nước được thiết lập trên hành tinh chúng ta. Từ đứa con đầu lịng là Cơng
xã Pa-ri năm 1871, đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất, là sự ra đời của Liên Xô
nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, rồi đến sau chiến tranh thế giới thứ hai (tức
khoảng 100 năm sau Tuyên ngôn), với thắng lợi của hàng loạt cuộc cách mạng
kiểu mới ở cả châu Âu, châu Á và Mỹ La tinh, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một
hệ thống thế giới.
Cần phải khẳng định rằng, những tư tưởng của Tuyên ngôn về đảng cộng
sản vẫn đang sống và ngày càng sống động hơn theo nhịp tiến lên của nhân loại
tiến bộ, của cả xã hội loài người đang vững bước đi vào thế kỷ XXI. Sức mạnh tư
duy vạch thời đại của Mác - Ăngghen trong tác phẩm này vẫn được thực tiễn lịch
sử toàn thế giới khảo nghiệm và minh chứng rực rỡ trong thời đại ngày nay.
Đảng Cộng sản Việt nam – chính Đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động Việt Nam, Đảng đại biều trung thành cho lợi ích của giai cấp
Page 1
Tiểu luận
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự ra đời của Đảng ta, mặc dù có
những yếu tố đặc thù riêng nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố cho sự ra đời của một
chính Đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã
hội khoa học với phong trào cơng nhân. Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, chủ nghĩa C.Mác-Lênin ln giữ vị trí nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa C.Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.”
Đối với Việt Nam chúng ta hiện nay, đứng trước xu thế tồn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ, công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu nhưng nó địi hỏi chúng ta phải có lý luận cách
mạng dẫn đường nhằm đảm bảo cho sự phát triển ấy không đi chệch hướng con
đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Để đấu tranh với những tư tưởng sai lệch về giá
trị quan trọng của lý luận về đảng cộng sản của Tuyên ngôn, giúp Đảng ta vững
vàng lập trường tư tưởng của chính Đảng lãnh đạo, trong phạm vi nhỏ hẹp của
một tiểu luận, tác giả chỉ đi vào tìm hiểu những tư tưởng về Đảng cộng sản của
C.Mác và Ph.Ăngghen qua đề tài: “Tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng Cộng
sản trong tác phẩm Tuyên ngơn của Đảng Cộng sản và ý nghĩa của nó trong
việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm mục tiêu làm rõ tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng Cộng sản
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, từ đó vận dụng sáng tạo những tư tưởng
đó vào cơng tác xây dựng Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Để dật được mục tiêu đó, tác giả xác định cần đạt thực hiện những nhiệm vụ
sau:
- Làm rõ hoàn cảnh ra đời, tác giả, tác phẩm
- Phân tích nội dung cơ bản của C.Mác và Ăngghen về Đảng cộng sản
- Rút ra ý nghĩa của vấn đề đối với thực tiễn xây dựng Đảng ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình làm tiểu luận đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu, trong
đó chủ đạo là:
- Phương pháp luận: Dựa vào những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nhận thức, phân tích, logic lịch sử,
nghiên cứu tư liệu, chọn lọc tổng hợp các tư liệu, hệ thống hóa các tri thức.
Page 2
Tiểu luận
4. Kết cấu nội dung
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3
chương và 7 tiết:
Chương 1: Khái quát chung về tác giả và tác phẩm
Chương 2: Tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng cộng sản trong tác phẩm
“ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
Chương 3: Ý nghĩa tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng cộng sản với việc
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1.Khái quát về tác giả
1.1.1. C.Mác (1818 – 1883)
Page 3
Tiểu luận
C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia
đình luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường
trung học ở Tơriơ. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở
những lĩnh vực địi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về
tốn học. Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó khơng lâu,
tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng
sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin.
ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C. Mác bắt đầu
đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những
tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả
năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề
lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận
được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của
Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường Iêna.
Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và
ơng đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen.
Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khi
Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische
Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C. Mác ở
Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm
trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính phủ Vương
quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai 1845, C. Mác
rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph. Ăng-ghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục
cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính phủ
Bỉ trục xuất C. Mác. Ơng lại đến Pa-ri, Tháng tư 1848, C. Mác cùng với Ph. ĂngPage 4
Tiểu luận
ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ
quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C.
Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849,
từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14
Tháng Ba 1883 ở Luân-đôn.
1.1.2.Ph. Ăngghen ( Friedrich Engels, 1820 – 1895 )
Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh,
Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Ph. Ăng- ghen đã bộc
lộ tính cách độc lập. Những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự đe doạ
trừng phạt không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến
năm 14 tuổi, Ph. Ăng- ghen học ở trường tại thành phố Barmen. Ph. Ăng- ghen
sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng Mười 1834, Ph. Ăng- ghen chuyển
sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ.
Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ph. Ăng- ghen buộc phải rời bỏ trường trung học
khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phịng của bố ơng.
Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và
thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Ph. Ăng- ghen đến làm việc tại văn phòng thương mại
ở thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 Ph. Ăng- ghen bắt tay vào nghiên cứu
các tác phẩm của Hê- ghen. Tháng 9- 1841, Ph. Ăng- ghen đến Berlin và gia nhập
binh đồn pháo binh ở đây ơng được huấn luyện quân sự mà trong những năm
sau, ông rất cần đến nó, nhưng ơng vẫn lui tới trường Đại học tổng hợp Berlin
nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Mùa xuân
Page 5
Tiểu luận
1842, Ph. Ăng- ghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh
Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Ph. Ăng- ghen đã lên tiếng
phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong
kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ph. Ăng- ghen mãn hạn phục vụ trong
quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen, một tháng sau, Ph. Ăng- ghen sang Anh
thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ph. Ăng- ghen đã thăm trụ sở tờ báo
Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã gặp C. Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ông đã
ở lại Anh hai năm. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh (1842) cùng
với những bài báo khác của Ph. Ăng- ghen viết ra năm đó đã phân tích rõ sự phân
chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai
cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ph. Ăng- ghen tham gia viết bài cho tờ
tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 21844). Các bài báo này đề cập đến việc áp
dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội
tư sản.
Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học của Ph.
Ăng-ghen đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt
vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 2-1845, cuốn sách Gia đình và
Thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa
duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trị quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi tiếng Hệ
tư tưởng Đức (1845-1846), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hê- ghen
và phái Hê- ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của
Ludvich Phoiơbach nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp đó năm 1848, Đại hội II Liên đồn
những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản.
Trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph. Ăng-ghen quan tâm nhiều đến hoạt
động của BCH Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Uỷ viên
của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức
(Tháng3-1848) do BCH Trung ương LĐNNCS lập ra.
Tháng 3- 1848, cùng với C. Mác , Ph. Ăng-ghen thảo ra Những yêu
sách của Đảng cộng sản Đức được BCH Trung ương LĐNNCS thơng qua như là
văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng
4-1848 ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức. Ngày 20
tháng 5/1848 Ph. Ăng-ghen đến cùng với C. Mác chuẩn bị xuất bản tờ Neue
Page 6
Tiểu luận
Rheinische Zeitung. Ph. Ăng-ghen tham gia viết các bài xã luận, bài điểm tình
hình chính trị. Tháng 10/1848 ơng đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền
Phổ nhưng ơng khơng được phép cư trú chính trị. Ph. Ăng- ghen lại đến Paris sau
đó sang Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đồn cơng nhân Đức, ơng được bầu
vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này.
Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng.
Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849) Ph. Ăngghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng
tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph. Ăng- ghen đến Elberfeld và được
sung vào Ban quân sự. Ăng-ghen đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu
tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, ông
tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Ph. Ăngghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng.
Tháng 11/1849, Ph. Ăng- ghen đến Luân đôn và được bổ sung vào
BCH Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà C. Mác đã cải tổ sau khi
đến đây. Ph. Ăng-ghen sống ở Luân- đôn một năm, trong thời gian đó ơng đã viết
các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở
Đức. Tháng 11-1850, Ph. Ăng-ghen buộc phải chuyển dến Manchester vàn lại bắt
đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho Ăng-ghen có
thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động cách mạng. Ph. Ăng-ghen đặc biệt
chú ý nghiên cứu các mơn khoa học tự nhiên, mơn qn sự, chính sách quốc tế.
Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng 91870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng của quốc tế
cộng sản I. Ph. Ăng- ghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái
Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1871, Ph. Ăng- ghen tham gia vào việc tổ
chức chiến dịch bảo vệ công xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăng-ghen đã viết
một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp
phần to lớn cho việc hồn thiện lý luận cho chủ nghĩa C. Mác. Sau khi C. Mác
qua đời (1883), Ph. Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ
nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C. Mác
chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm
cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên, Vấn
đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).
1.2.Khái quát về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
Page 7
Tiểu luận
Bìa lần xuất bản đầu tiên cuốn
“Tun ngơn của Đảng cộng sản” ở Ln – đơn năm 1848
1.2.1. Hồn cảnh ra đời
Giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình
độ phát triển: đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước châu
Âu. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản hiện đại ra đời
và sớm bước lên vũ đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Trong những năm 30
và 40 của thế kỷ XIX, ở một số nước tư bản phát triển, giai cấp vô sản đã vùng lên
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những yêu sách của mình cả về
kinh tế lẫn chính trị. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào vô sản là những
cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837; cuộc nổi
dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844; phong trào hiến chương ở
Anh kéo dài 10 năm (1838 - 1848).
Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vơ sản địi hỏi một cách
bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh chính trị làm
kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1847,
Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người cộng sản đã thảo luận và thông qua
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ăng ghen trình bày. Trên cơ
Page 8
Tiểu luận
sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội ủy nhiệm thảo ra bản tun
ngơn chính thức.
Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ăngghen khẳng
định lại Tuyên ngôn là Cương lĩnh của Liên đoàn những người cộng sản. “Tại Đại
hội của Liên đồn họp ở Ln Đơn tháng 11-1847, Mác và Ăngghen được giao
nhiệm vụ khởi thảo một cương lĩnh lý luận và thực tiễn của Đảng, có đầy đủ chi
tiết, để đưa ra cơng bố. Cơng việc đó đã được hồn thành vào tháng giêng 1848;
bản thảo viết bằng tiếng Đức đã được gửi tới Luân Đôn để in, vài tuần trước khi
Cách mạng 24-2 nổ ra tại Pháp.” (3,551)
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn
thảo vào cuối năm 1847 và được xuất bản vào ngày 21 tháng 2 năm 1848. Mục
đích của tác phẩm như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Hiện nay, đã đến lúc
những người cộng sản phải cơng khai trình bày trước tồn thế giới những quan
điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tun ngơn của Đảng của mình để
đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.” (3, 539)
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm vừa mang tính lý luận khao học,
vừa là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của những người Cộng sản, của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Tác phẩm này ra đời đã đáp ứng được yêu cầu về
mặt lý luận khoa học, soi sáng con đường đấu tranh của cách mạng vơ sản trước
đó. Nó ra đời nhằm đập tan những chuyện hư truyền của giai cấp tư sản về “ bóng
ma cộng sản” . Nó cơng khai trình bầy trước tồn thế giới những đặc điểm, mục
đích, ý đồ của những người cộng sản. Nói cách khác nó là lời tuyên chiến với giai
cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng là thông báo về sự ra đời
của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác.
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện được cuộc cách mạng tư tưởng với
đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa những quy luật vận động của giới tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người. Tồn bộ thành tựu trí tuệ của lồi người đã
được tổng kết, khái quát.
1.2.2. Kết cấu và nội dung cơ bản của tác phẩm
Ngoài 7 lời tựa được viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như: tiếng Nga,
Ba Lan, Đức, Anh, Ý, nội dung Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và
Ph. Ănghen trình bày thành 4 chương.
- Chương I. Tư sản và vô sản: Mác – Ăngghen luận giải làm rõ sứ mệnh lịch
sử và vai trò của giai cấp vô sản.
Page 9
Tiểu luận
- Chương II. Những người vô sản và những người Cộng sản: Thể hiện mối
quan hệ giữa Đảng cộng sản với giai cấp cơng nhân, qua đó để xác định
nhiệm vụ của Đảng cộng sản và những biện pháp để thực hiện nhiệm vụ ấy,
đồng thời chống lại sự vụ khống của giai cấp tư sản đối với Đảng cộng sản.
- Chương III.Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa: Mác –
Ăngghen phân biệt chủ nghĩa xã hội khoa học với các trào lưu chủ nghĩa xã
hội khác.
-
Chương IV. Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập:
Mác đã trình bày, làm rõ những tư tưởng cách mạng không ngừng; tinh thần cách
mạng triệt để, liên minh giai cấp, sự đoàn kết, đấu tranh của những người cộng sản
đối với các đảng phái dân chủ trong cuộc đấu tranh chống các thế lực phản động
đương thời.
C.Mác và Ănghen đã trình bày rõ: “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày
nay, chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.” (3,551). Đến xã hội Tư bản hiện đại xã hội
cũng phân chia thành nhiều giai cấp trong đó có 2 giai cấp cơ bản đối kháng đó là
giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản. Nội dung cơ bản của lịch sử xã hội hiện đại là
cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới
sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa Tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Trong sự vận động của quy luật ấy C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh giá rất cao vai trò
của giai cấp tư sản khi nó cịn giữ vị trí là giai cấp tiến bộ lật đổ chế độ phong kiến
đã lỗi thời : “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế
kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất
của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.”(3, 547).
Đồng thời Tuyên ngôn cũng chỉ rõ quy luật vận động tất yếu của xã hội loài
người là cái cách mạng, cái tiến bộ nhất định sẽ thay thế cái lạc hậu khơng ai có thể
cưỡng lại cũng như sự thắng lợi của chế độ Tư bản chủ nghĩa đối với chế độ phong
kiến đó là: “Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng
tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một
cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục”.
Page 10
Tiểu luận
Vốn có bản chất là giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trị cách mạng của giai
cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu, giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản hóa giai cấp và
đối kháng giai cấp mà thơi. “Những vũ khí mà giai cấp tư sản dùng để đánh đổ chế
độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản”. “Giai cấp
tư sản không những đã rèn những vũ khí giết mình, nó cịn tạo ra những người sử
dụng vũ khí ấy - những cơng nhân hiện đại, những người vô sản”.
Tuyên ngôn cộng sản đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy rõ sứ mệnh lịch sử vẻ
vang của mình là người đào huyệt chơn chủ nghĩa Tư bản và sáng tạo ra một xã hội
tốt đẹp hơn. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản do vị trí kinh tế - xã hội
của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.
1.2.3.Ý nghĩa của tác phẩm
Trong các tác phẩm kinh điển của Mác-Ăngghen, Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản là một trong những văn kiện đến Việt Nam sớm nhất. Hồ Chí Minh viết:
Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ nên cấm chúng ta
học, cấm chúng ta xem. Cuốn sách đáng sợ nhất đối với bọn thống trị thực dân
chính là Tun ngơn của Đảng Cộng sản.
Tuyên ngôn là chân lý cách mạng sáng ngời định hướng đúng đắn cho sự
nghiệp giải phóng của nhân dân ta. Tuyên ngôn là độc lập tự do, Tuyên ngôn là
Chủ nghĩa xã hội. Con đường Tuyên ngôn là con đường đấu tranh cách mạng chứ
không phải là con đường cải lương, ảo tưởng.
Cách mạng Việt Nam càng phát triển đi lên càng khẳng định những nguyên
lý cơ bản của Tuyên ngôn. Tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Ăngghen nói
chung, của Tun ngơn nói riêng ln là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt
Nam. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ph. Ăngghen có
viết: “Hiện nay, hiển nhiên đó là tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính chất quốc tế
hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh được thừa
nhận bởi hàng triệu công nhân từ Xi-bia đến California.”(3, 514).
Lần đầu tiên tác phẩm của hai ơng đã hệ thống hóa những nội dung cơ bản
của chủ nghĩa Mác dưới dạng cô đọng nhất, thể hiện đầy đủ thế giới quan duy vật
biện chứng và các luận thuyết cơ bản về chủ nghĩa tư bản, về chủ nghĩa xã hội
khoa học, kinh tế - chính trị học, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận
về Đảng,… Bao trùm lên toàn bộ tác phẩm, Mác-Ăngghen đã nêu rõ sứ mệnh lịch
Page 11
Tiểu luận
sử tồn thế giới của giai cấp vơ sản,vạch ra những tất yếu của cách mạng vô sản và
chuyên chính vơ sản, vai trị Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vơ sản.
Tun ngơn cịn đề cập đến nhiều khía cạnh khác trong lĩnh vực xã hội, nhất là các
vấn đề giáo dục, gia đình, quan hệ giữa thành thị - nông thôn…
Tuyên ngôn ra đời đánh dấu sự thắng lợi của việc kết hợp chủ nghĩa xã hội
khoa học với phong trào công nhân và phong trào cách mạng của giai cấp vô sản.
Với vị trí quan trọng và nội dung phong phú như vậy, Tun ngơn của Đảng
Cộng sản có sức thuyết phục, cổ vũ hàng triệu, triệu người người bị áp bức, bóc lột
trên trái đất này đứng lên tự giải phóng; xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” đối
với giai cấp vô sản.
Từ khi Tuyên ngôn ra đời đến nay, đã 164 năm với nhiều biến cố trong lịch
sử song nó vẫn khẳng định được những giá trị bền vững của các nguyên lý đã được
nêu ra trong tác phẩm. Nó vẫn được các Đảng Cộng sản vận dụng sáng tạo trong
thực tiễn cách mạng.
Chương 2
Page 12
Tiểu luận
TƯ TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG TÁC
PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
2.1. Khái niệm về Đảng Cộng sản
Tun ngơn trình bày mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai câp vô sản,
những người Cộng sản và giai cấp vô sản: “họ tuyệt nhiên khơng có một lợi ích
nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vơ sản”(3,557)
Khái niệm về Đảng trong Tuyên ngôn được hiểu như sau: Đảng là đội tiền
phong, là bộ phận giác ngộ nhất của giai câp vô sản. Mác-Ăngghen nêu rõ: “Về
mặt thực tiễn, những người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt
lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình là kết quả chung của phong trão vô sản.”(3, 558)
Sự hình thành của Đảng bắt nguồn từ sự liên hợp của những người vơ sản
thành các đồn thể, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh. Tuyên ngôn cho rằng sự ra đời
của chính Đảng vơ sản là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. “ Sự tổ chức như vậy của những
người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính Đảng, ln ln bị sự cạnh
tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó ln ln được tái lập và ln
ln mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh hơn.”(4, 609)
2.2. Mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân
• Mác và Ăngghen chỉ ra Đảng cộng sản là một bộ phận không thể
tách rời giai cấp vô sản, vì vậy, mục đích và lợi ích của Đảng cộng
sản và giai cấp vô sản là thống nhất cả về mặt lý luận và thực tiễn .
Mác-Ăngghen khẳng định: “Những người Cộng sản không phải là một
Đảng riêng biệt đối lập với các Đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên khơng có
một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vơ sản.”(3, 557). Quan niệm
của Mác – Ăngghen về những người vô sản và Đảng cộng sản là thống nhất với
nhau.
• Đảng cộng sản là lực lượng đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô
sản cũng như của nhân dân lao động, nó cũng đại diện cho lợi ích
chung của tồn bộ phong trào cộng sản, của tồn giai cấp cơng
nhân trên thế giới khơng phân biệt ngành nghề, địa phương và dân
tộc .Vì thế, Đảng cộng sản khơng những mang tính chất của giai
cấp vơ sản mà cịn mang bản chất quốc tế.
Page 13
Tiểu luận
Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân. Đảng là người đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động.
Đảng luôn công khai mục tiêu đấu tranh của mình là: lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp cơng nhân. Vì vậy Đảng cộng sản
mang bản chất của giai cấp cơng nhân.
• Tun ngơn của Đảng cộng sản khẳng định sự thống nhất về mục
đích và lợi ích của Đảng cộng sản và giai cấp cơng nhân khơng có
nghĩa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là một.
Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân nhưng khơng có
nghĩa là Đảng phải là tồn bộ giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là một bộ phận
của giai cấp cơng nhân.
Tính độc lập của Đảng là đặc trưng, dấu hiệu và là điều kiện cơ bản khẳng
định giai cấp cơng nhân là một lực lượng chính trị độc lập, tồn tại với tư cách một
giai cấp. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản không phải là một tổ chức biệt lập mà là bộ
phận tiên phong của giai cấp cơng nhân, gắn bó mật thiết với giai câp cơng nhân,
mang hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản là tổ chức có mục đích,
nhiệm vụ rõ ràng. Mác và Ăngghen cho rằng việc tổ chức những người vô sản
thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và giành lấy chính quyền, đó
là mục đích trước mắt của những người Cộng sản và của tất cả các Đảng với nhau.
Mục đích cuối cùng của họ là xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà trong đó “sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”.
Đảng có cương lĩnh chính trị, có chiến lược, sách lược cách mạng. Tuyên
ngôn tuyên bố rằng đã đến lúc những người Cộng sản phải cơng khai trình bày
trước tồn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và phải có một
Tun ngơn của Đảng của mình. Tun ngơn của Đảng Cộng sản là cương lĩnh
chính trị của Đảng vơ sản, trong đó trình bày quan điểm, mục đích, nhiệm vụ,
chiến lược, và sách lược của Đảng.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng
nhân. Tun ngơn khẳng định Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vơ
sản, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp vơ sản. Tính tiên
phong , độc lập ấy được thể hiện toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức.
• Về mặt chính trị, Đảng phải kiên định với mục tiêu, lý tưởng, đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, xác định đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn cách
Page 14
Tiểu luận
mạng, trong từng điều kiện lịch sử cụ thể, để lãnh đạo cách mạng vơ
sản đi tới thắng lợi.
• Về tư tưởng: Đảng được vũ trang bằng hệ tư tưởng Cộng sản chủ
nghĩa. Đảng có lý luận soi đường cho hoạt động của mình. Lý luận đó
khơng phải là giáo điều mà là những nguyên lý được khái quát từ kinh
nghiệm thực tiễn. Tuyên ngôn nêu rõ: “ Những người Cộng sản có thể
tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ
chế độ tư hữu.”(3, 559) trên lĩnh vực tư tưởng, Đảng có nhiệm vụ
truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học, nâng cao trình độ giác ngộ của
giai cấp cơng nhân, phấn đấu chống sự ảnh hưởng của các trào lưu tư
tưởng phi vô sản, bảo vệ hệ tư tưởng vô sản về tổ chức, Đảng là một
chính thể có tổ chức, là một khối thống nhất ý chí và hành động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật tự giác nghiêm minh. Tuyên
ngôn thể hiện rõ nguyên tắc tổ chức Đảng là Đảng Cộng sản được xây
dựng từ đội ngũ đảng viên, là những người vô sản cách mạng nhất cả
trong hành động và trong nhận thức. Tuân thủ nguyên tắc này mới
đảm bảo cho Đảng trở thành đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Trong sinh hoạt Đảng, Đảng tuân thủ các nguyên tắc phê bình và tự
phê bình, ngun tắc cơng khai. Đảng có cơ cấu tổ chức phù hợp với
điều kiện và nhiệm vụ của từng thời kỳ hoạt động.
Lý luận về tính tiên phong của Đảng Cộng sản là cơ sở khoa học quan trọng
để những người Cộng sản vận dụng vào công tác xây dựng Đảng trên cả hai
phương diện: tiên phong về lý luận và tiên phong về thực tiễn. Về lý luận, Đảng và
các đảng viên của Đảng phải được trang bị lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học,
nắm vững thế giới quan duy vật biện chứng, nhận thức đúng vai trị và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân. Về thực tiễn, Đảng phải biết vận dụng một cách
linh hoạt và sáng tạo lý luận khoa học để phân tích, đánh giá đúng tình hình, đề ra
chủ trương, biện pháp phù hợp, lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Đồng thời
Đảng phải là người tổ chức, tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh của nhân dân,
sức mạnh của dân tộc và thời đại để thực hiện chủ trương đường lối của Đảng.
Là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân, Đảng Cộng sản tập hợp trong
mình những phấn tử ưu tú nhất, cách mạng nhất trong giai cấp công nhân và các
tấng lớp nhân dân lao động. Tính tiên phong của Đảng thể hiện trên hai mặt: Tiên
phong về lý luận và tiên phong trong hoạt động thực tiễn.
Page 15
Tiểu luận
- Về mặt lý luận Đảng có ưu thế hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở
chỗ họ có nhận thức sáng suốt về điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào vơ sản.
- Về mặt thực tiễn, Đảng là bộ phận kiên quyết nhất, tiên phong nhất trong
phong trào công nhân. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định trong
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Vậy là về mặt thực tiễn, những người
công sản là vộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước,
là bộ phận cổ vũ các bộ phận khác; về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của giai
cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào vơ sản” (3, 558)
2.3. Mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản
Tun ngơn đã chỉ rõ mục đích của những người Cộng sản bao gồm mục
đích trước mắt và mục đích cuối cùng, trong đó mục đích cuối cùng của những
người Cộng sản là phải thực hiện chủ nghĩa Cộng sản trên tồn thế giới: “Theo ý
nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành cơng thức
duy nhất này là : xóa bỏ chế độ tư hữu”(3, 559)
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhiệm vụ trước hết của Đảng là: tổ chức
những người cộng sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành
lấy chính quyền.
Mục tiêu trước mắt của Đảng cũng giống như mục tiêu trước mắt của các
đảng công nhân khác là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản giành lấy chính
quyền cho giai cấp vơ sản: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng
là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vơ sản khác; tổ chức những người vô
sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản giành
lấy chính quyền”.(3,558)
Nhưng mục tiêu đấu tranh của Đảng không chỉ là làm thay đổi chế độ tư
hữu, mà mục tiêu cuối cùng của Đảng là thủ tiêu chế độ đó, khơng phải là xố
nhồ các mâu thuẫn giai cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp, khơng phải hồn thiện xã
hội hiện tồn, mà là xây dựng một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa: “Đặc
trưng của chủ nghĩa cộng sản không phái là xố bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà
là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản… (3,558) và “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ
của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ
tước bỏ quyền dủng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.” (3,
562)
Page 16
Tiểu luận
Trong khi hợp tác với các đảng đối lập vì mục tiêu trước mắt, những người
cộng sản khơng bao giờ được qn mục đích cuối cùng của mình là lật đổ giai cấp
tư sản, giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản: “Nhưng không giờ phút nào,
Đảng cộng sản lại quên gây cho công nhân một ý thức sáng suốt và rõ rệt về sự
đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì có
bao nhiêu điều kiện chính trị và xã hội do chế độ tư sản tạo ra, công nhân Đức
biết đổi thành bấy nhiêu vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để nguy sau khi diệt xong
những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính
ngay giai cấp tư sản” (3,585)
Như vậy, thao C.Mác và Ăngghen trong cuộc đấu tranh của mình, để giành
được thắng lợi, giai cấp vô sản phải liên minh với các giai cấp khác và thậm chí có
thể phải hợp tác cả với những đảng khối lập vì những quyền lợi trước mắt của giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản, giai cấp tư sản các nước đã liên kết lại với nhau để
chống lại giai cấp vơ sản. Vì vậy giai cấp vơ sản phải đồn kết lại: “ Vơ sản tất cả
các nước, đoàn kết lại !” (3, 586).
Page 17
Tiểu luận
Chương 3
Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Đảng cộng sản Việt Nam
(Đảng kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam)
3.1.1. Khái quát sự ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam),
đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xố bỏ chế độ thực dân phong kiến,
hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc
ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dung,
bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp
đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1958 đến trước năm 1930, hàng trăm phong
trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt chống thực dân Pháp đã nổ ra theo nhiều hướng
Page 18
Tiểu luận
khác nhau, dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời,như khởi
nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong
trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa thục, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa do Phan
Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học…lãnh đạo. Các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dung, nhưng đều thất bại và bị thực
dân Pháp đàn áp tàn bạo.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách
mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm
một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng
dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường
cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người
đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Lênin. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng
dân tộc, đó là con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy
ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với
phong trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi theo con đường
cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt
Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách
mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.
Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo
việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lơi cuốn những người
u nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, địi hỏi
phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được
tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đơng Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam
Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đơng Dương Cộng sản
Liên đồn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có
nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng
Page 19
Tiểu luận
thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc của dân
tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của
lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt
Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu
Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều
lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như
là một Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử
và là kết quả của q trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của
một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một
mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm
dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc-Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự chuẩn
bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của
Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta, phù hợp với xã thế phát triển của
thời đại.
3.1.2. Vai trị, vị trí, mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi) khẳng định vai trò lãnh đạo
tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”(7, 14)
Page 20
Tiểu luận
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng
lợi rất vẻ vang , mở ra kỷ nguyên mới trong sự nghiệp phát triển của dân tộc ta: kỷ
nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.Thắng lợi của cách mạng Việt
Nam do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất là sự lãnh đạo của Đảng.
Ngay từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc- người sáng lập
Đảng ta - đã thấy phải có đảng cách mạng và đảng có vững thì cách mạng mới
thành cơng.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: "Điều cốt yếu cho sự
thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối
chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải
trong đấu tranh mà trưởng thành".
Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc tính
đúng đắn của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đã nêu
lên một bài học cơ bản: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo
đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là việc
làm thiết thực, trọng yếu, bảo đảm cho cách mạng phát triển vững chắc, nhằm thực
hiện mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam - người duy nhất giữ vai trò lãnh đạo cách
mạng từ nǎm 1930
Ngày 3-2-1930, lịch sử Việt Nam diễn ra một sự kiện trọng đại: Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời.
Đảng ta ra đời là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ
chức của đồng chí Nguyễn ái Quốc và các đồng chí tiền bối của Đảng. Đồng chí
Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và
truyền bá vào Việt Nam. Người đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước để tổ chức ra Đảng ta. Người đã vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác - Lênin, đề ra đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam, vạch ra cương lĩnh cách mạng của Đảng một cách đúng đắn ngay từ
đầu. Nhờ đó mà Đảng sớm trở thành một lực lượng chính trị vững mạnh và lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hơn 80 nǎm qua, lịch sử Việt Nam ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Vai
Page 21
Tiểu luận
trị đó khơng ngừng được mở rộng và nâng cao, vượt qua mọi sự chống phá của kẻ
thù và sự tranh chấp của những thế lực đối lập.
Việc Đảng ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng là điều tất yếu,
khách quan, phù hợp với quy luật của thời đại và điều kiện hiện thực của Việt
Nam. Sự phù hợp với quy luật của thời đại được chứng minh bởi vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng MácLênin. Cịn điều kiện hiện thực của Việt Nam được nhận thức qua phân tích tính
chất, đặc điểm xã hội Việt Nam; tình hình và thái độ các giai cấp, tầng lớp xã hội;
từ đó thấy những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội và đòi hỏi khách quan của lịch sử
đối với giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng - đội tiên phong của giai cấp.
Sự lãnh đạo của Đảng - nguồn gốc thành công của cơng cuộc giải
phóng dân tộc
Lịch sử Việt Nam ghi nhận: từ khi thực dân Pháp xâm lược và thống trị
nước ta đã liên tiếp diễn ra nhiều cuộc đấu tranh yêu nước, song tất cả đều thất
bại.
Khi Đảng ta ra đời, dân tộc ta vẫn đứng trước một nhiệm vụ lịch sử to lớn:
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập của đất nước.
Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 là thành quả đầu tiên của cuộc đấu tranh
đó, đã lật đổ ách thống trị đế quốc, phátxít cấu kết với giai cấp địa chủ phong kiến,
thiết lập chế độ cộng hoà dân chủ. Tiếp đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Bắc sau đó giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ. Cơng
cuộc giải phóng dân tộc được hồn thành triệt để từ sau thắng lợi mùa Xuân nǎm
1975 được bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.
Trước thực tế lịch sử hiển nhiên đó, mà vẫn có người cố tình phủ nhận
hoặc hạ thấp ý nghĩa, vai trò của Đảng đối với những thắng lợi của dân tộc Việt
Nam thì là điều phi lý. Và thực tế lịch sử đó cũng đã bác bỏ sự xuyên tạc của các
thế lực thù địch.
- Cách mạng Tháng Tám thắng lợi do có những điều kiện khách quan thuận
lợi, song nếu thiếu những điều kiện chủ quan, nhất là thiếu sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng, thì cách mạng không thể thành công. Đảng đã lãnh đạo việc chuẩn bị
khởi nghĩa một cách chu đáo, đồng thời nắm vững thời cơ lịch sử để phát động
Page 22
Tiểu luận
Tổng khởi nghĩa trong những ngày tháng tám. Đó là nhân tố chủ yếu quyết định
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945.
- Kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, trước hết do Đảng đề ra và
nắm vững đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài. Đảng lại giải quyết
đúng hàng loạt vấn đề trọng yếu: xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện
từng bước vấn đề ruộng đất cho nông dân, chǎm lo phát triển sản xuất trong kháng
chiến, xây dựng hậu phương, phục vụ kháng chiến, công tác vùng địch tạm chiếm,
v.v..
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đụng đầu lịch sử, một thử
thách lớn đối với Đảng và dân tộc Việt Nam. Đảng đã khéo kết hợp sức mạnh của
hai miền Nam - Bắc, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại. Đường lối
chính trị, quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng sáng tạo do Đảng đề ra,
không những đã tránh cho dân tộc bị mất nước, làm nô lệ, mà còn giành thắng lợi
vẻ vang, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vai trò của Đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục sự nghiệp và truyền thống của Đảng đã giữ vai trò lãnh đạo cách
mạng ngay khi ra đời, sau khi giành được chính quyền, từng bước thực hiện
chuyển biến giai đoạn cách mạng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta vẫn
là lực lượng duy nhất lãnh đạo tiến trình cách mạng của dân tộc. Đây là thực tế lịch
sử đã diễn ra ở miền Bắc từ tháng 7 nǎm 1954 và trên cả nước từ sau thắng lợi mùa
Xuân nǎm 1975- giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đã và sẽ tiếp tục
là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi, vì:
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng tự giác. Chỉ có Đảng,
người nắm vững lý luận Mác - Lênin, mới nhận thức và vận dụng đúng đắn những
quy luật phát triển của xã hội, đề ra đường lối và phương pháp tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn nước ta.
- Trong thời kỳ quá độ, tất yếu còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, có
những lợi ích và nhận thức khác nhau, nhưng sự lãnh đạo của Đảng đã bảo đảm
thực hiện đúng đắn các mối quan hệ kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động - mục tiêu và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Page 23
Tiểu luận
- Về tổ chức thực tiễn, do trong xã hội có nhiều tổ chức khác nhau, cần quy tụ
sự hoạt động của mọi tổ chức xã hội nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp trong sự
nghiệp xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đóng vai trò người tổ
chức, phối hợp sự hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, đoàn thể và tổ chức xã
hội.
Trước đây, ở miền Bắc đã từng có những lực lượng thù địch và đối lập đòi
Đảng chia quyền lãnh đạo. Ngày nay, lại có một số người chịu ảnh hưởng của
thuyết đa ngun chính trị, địi lập chế độ đa đảng, đòi xét lại vai trò lãnh đạo của
Đảng, đòi Đảng trả lại quyền cho "nhân dân"... thực chất là tìm cách thủ tiêu, hoặc
hạ thấp vai trị của Đảng. Song sự thật lịch sử dân tộc ta từ khi có Đảng đã chứng
tỏ rằng:
- Đảng ta nắm vai trị duy nhất lãnh đạo cách mạng là một tất yếu lịch sử.
- Có sự lãnh đạo của Đảng ta mới có những thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
- Tình trạng có nhiều lực lượng đối lập trong xã hội khơng phải là biểu hiện
của dân chủ chân chính; ngược lại, làm trở ngại, khó khǎn cho sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội.
Để tiếp tục thực hiện tốt vai trò là một Đảng cầm quyền, Đảng cần phải:
• Thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo,
đồng thời phát huy mạnh mẽ, vai trị, tính chủ đạo, sáng tạo và trách
nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
• Gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong kh khổ Hiến pháp và pháp luật.
• Vững mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo.
• Giữ vững truyền thống đoàn kết trong Đảng, tăng cường dân chủ và
kỷ luật trong hoạt động của Đảng.
• Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi
hành động chia rẽ bè phái.
Page 24
Tiểu luận
• Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong sạch, có
phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; quan tâm, bồi dưỡng, đào tọa lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta là bài học lớn của lịch sử
Đảng và lịch sử dân tộc.
3.2. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Bối cảnh Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (năm
1986). Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ văn minh của nhân dân ta đã trải qua một chặng
đường 25 năm.
Trong 25 năm đó, đặc biệt là trong 5 năm thực hiện nghị quyết Đại Hội IX,
chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Đánh giá khát quát 25 năm đổi mới, “Đại hội XI của Đảng họp vào lúc toàn
Đảng, toàn dân ta kết thúc thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều
chủ trương, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội X và đã trải qua 25 năm đổi mới, 20
năm thực hiệnCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010… Trong
bối cảnh đó, tồn Đảng, tồn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách
thức, đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được
khắc phục.”(20)
Về thực tiễn, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước
đầu được xây dựng, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân , giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng
được tăng cường và củng cố. Nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân với
lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng ngày càng lớn mạnh. Quan hệ đối ngoại
được mở rộng. Vì thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên rất nhiều. Chính trị - xã hội ổn định, chủ
quyền an ninh, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Nhân dân tin tưởng ở đường lối
đổi mới của Đảng. Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích lũy thêm được nhiều kinh
nghiệm lãnh đạo và quản lý.
Page 25