Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Tài liệu tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.01 KB, 83 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN
HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
____________________

TÀI LIỆU
TẬP HUẤN, BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT,
KỸ NĂNG NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

NĂM 2020


CHUYÊN ĐỀ 1:
LUẬT HÒA GIẢI CƠ SỞ VÀ CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT HÒA GIẢI CƠ SỞ VÀ CÁC VĂN BẢN
HƯỚNG DẪN THI HÀNH
1. Phạm vi điều chỉnh
Luật Hòa giải ở cơ sở quy định về nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải
ở cơ sở, hòa giải viên, tổ hòa giải; hoạt động hòa giải ở cơ sở; trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức trong hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Các hoạt động hòa giải tại Tòa án, hòa giải thương mại, trọng tài, hòa giải lao động
và hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của luật khác có liên quan khơng
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hòa giải ở cơ sở.
2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở
Theo Luật Hòa giải ở cơ sở, việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu
thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp sau đây: mâu thuẫn, tranh chấp
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia
đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự khơng được hịa giải;
vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi
phạm hành chính; mâu thuẫn, tranh chấp khác khơng được hịa giải ở cơ sở theo quy định
pháp luật.
Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định rõ những trường hợp được tiến


hành hịa giải và những trường hợp khơng được tiến hành hòa giải. Cụ thể:
a) Mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật được tiến hành hòa giải
Theo Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP, hòa giải ở cơ sở được tiến hành
đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây:
- Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình khơng
hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước
sinh hoạt, cơng trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác);
Ví dụ: Nhà ông A và nhà bà B ở cùng khu tập thể. Nhà ông A ở tầng 1, bà B ở tầng
5. Bà B có trồng mấy chậu hoa ở ban công. Mỗi khi bà tưới hoa, nước lại chảy từ các chậu
cây xuống nhà ông A. Mặc dù ông A đã nhắc nhở nhiều lần, nhưng bà B không tiếp thu,
vẫn để nước chảy xuống nhà ông A. Giữa hai bên thường xuyên to tiếng, cãi vã nhau vì
chuyện này, gây mất trật tự trong khu tập thể.
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ
dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
Ví dụ: Ơng C có 5 người con, 2 trai và 3 gái. Ông C mất đột ngột không kịp để lại di
chúc chia tài sản cho các con. Sau khi lo hậu sự cho bố xong, 5 người con của ông C không
thống nhất được việc chia tài sản thừa kế của C nên nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp.
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hơn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ
quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà


2
ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng;
xác định cha, mẹ, con; ni con ni; ly hơn.
Ví dụ: Bà H đã ngoài 70 tuổi, sống với vợ chồng anh P (là con trai cả). Tuy nhiên, do
vợ anh P thường nói hỗn và đối xử khơng tốt với bà H nên cơ L, con gái bà H muốn đón
bà về ở với vợ chồng cơ. Khi cơ L tới nói chuyện thì vợ chồng anh P đã phản đối rất gay
gắt, họ cho rằng cơ L đón bà về ni là mong sau này bà để lại thừa kế ngôi nhà mà vợ
chồng anh đang ở. Vợ anh P còn khố trái cửa buồng bà H lại, khơng cho bà ra ngoài gặp
con gái. Mâu thuẫn giữa vợ chồng anh P và cô L ngày càng gay gắt.

Đối với việc ly hơn, hồ giải viên thực hiện việc hồ giải, giúp đơi vợ, chồng tự hàn
gắn tình cảm, giữ gìn hạnh phúc gia đình, mà khơng được phép giải quyết, phân xử việc ly
hôn: cho vợ, chồng ly hôn hay ép buộc họ không được ly hôn.
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính:
Hồ giải viên thực hiện hoà giải những việc như trộm cắp vặt (rau, quả trong vườn,
một số đồ dùng sinh hoạt có giá trị không lớn), đánh, chửi nhau gây mất trật tự cơng cộng,
đánh nhau gây thương tích nhẹ, va quệt xe cộ gây thương tích nhẹ, lừa đảo, đánh bạc mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.
- Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây thì hịa giải viên có thể tiến
hành hịa giải, cụ thể là:
+ Trường hợp không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 và khơng bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật.
Hòa giải viên được tiến hành hòa giải đối với vi phạm pháp luật hình sự mà khơng bị
khởi tố vụ án do có một trong các căn cứ như hành vi không cấu thành tội phạm, người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; tội phạm quy định
tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 226 của Bộ luật hình sự mà
bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố và khơng bị cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: H – 12 tuổi có hành vi trộm cắp điện thoại di động của ơng B, vì H có hành vi
vi phạm pháp luật hình sự nhưng H chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên thuộc trường
hợp khơng bị khởi tố hình sự, hịa giải viên có thể tiến hành hòa giải vụ, việc này.
+ Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng
về đình chỉ điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại tại khoản 1 Điều 282 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 và khơng bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật.

- Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy
định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/9/2013 quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để


3
áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Chương II Phần
thứ năm của Luật xử lý vi phạm hành chính
- Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
b) Các trường hợp khơng hịa giải
Theo Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP, các trường hợp sau đây khơng
hịa giải:
- Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng; đó là các
mâu thuẫn, tranh chấp làm tổn hại đến lợi ích chung của Nhà nước, của cộng đồng. Ví dụ:
Các mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm, lấn chiếm đất công, tranh chấp về sử dụng trái phép
cơng trình cơng cộng…
- Vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải, cụ thể là:
+ Vi phạm pháp luật về hơn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
Ví dụ: như kết hơn trái pháp luật thì hịa giải viên khơng được hịa giải để các bên tự
giải quyết, duy trì quan hệ hơn nhân và gia đình trái pháp luật đó.
(Thẩm quyền xem xét, quyết định việc hủy kết hơn trái pháp luật thuộc về Tịa án
nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự)
+ Giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội
Ví dụ: như các giao dịch mua bán chất ma túy, mại dâm… thì khơng được hịa giải
nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch đó.
(Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng).

- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ trường
hợp quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP;
- Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi phạm hành chính (bao gồm: bị
xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính), trừ các trường
hợp quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP;
- Mâu thuẫn, tranh chấp khác khơng được hịa giải ở cơ sở bao gồm: Hịa giải tranh
chấp về thương mại và hòa giải tranh chấp về lao động, việc hòa giải các tranh chấp này
được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành về thương mại và lao động.
Nghị định số 15/2014/NĐ-CP cũng quy định về việc hướng dẫn xác định phạm vi hòa
giải ở cơ sở và hướng dẫn giải quyết trường hợp các vụ, việc khơng thuộc phạm vi hịa giải
ở cơ sở, theo đó, trong trường hợp chưa xác định được vụ, việc có thuộc phạm vi hịa giải
ở cơ sở hay khơng thì hịa giải viên đề nghị cơng chức Tư pháp - Hộ tịch hướng dẫn (Điều
7).
Trong trường hợp xác định vụ, việc khơng thuộc phạm vi hịa giải theo quy định tại
Điều 3 của Luật Hòa giải ở cơ sở và Khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 15/2014/NĐ-CP thì
hịa giải viên giải thích cho các bên về lý do khơng hịa giải và hướng dẫn các bên làm thủ


4
tục cần thiết để đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết (Điều 6 Nghị định số
15/2014/NĐ-CP).
II. CÁC KỸ NĂNG HỊA GIẢI Ở CƠ SỞ:
(Hịa giải viên tự nghiên cứu)
1. Kỹ năng tiếp cận đối tượng để nắm bắt thơng tin về vụ, việc hịa giải và nhu cầu lợi
ích của các bên;
2. Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc;
3. Kỹ năng tìm mâu thuẫn, xung đột lợi ích cốt lõi, nguyên nhân chủ yếu;
4. Kỹ năng tra cứu, tìm kiếm văn bản pháp luật, tìm kiếm giải pháp tư vấn cho các
bên;
5. Kỹ năng chuẩn bị tổ chức, điều hành, kiểm sốt buổi hịa giải;

6. Kỹ năng giải thích, thuyết phục, hướng dẫn các bên tự thỏa thuận dàn xếp mâu
thuẫn, tranh chấp;
7. Kỹ năng ghi chép của hòa giải viên; ghi sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở; lập
văn bản hòa giải thành, văn bản hịa giải khơng thành;
8. Kỹ năng lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật trong quá trình hịa giải ở cơ sở


5
CHUYÊN ĐỀ 2:
KỸ NĂNG PHƯƠNG PHÁP HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
I. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH VỤ VIỆC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1. Bước 1: Trước khi hịa giải
1.1. Tìm hiểu nội dung vụ việc, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, tranh
chấp, lợi ích mà các bên hướng tới, trọng tâm là lợi ích cốt lõi
Khi có mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Điều 16 Luật Hòa giải ở cơ sở, tuỳ thuộc đối tượng, tính chất vụ việc, quan hệ gia
đình, xã hội… của các bên tranh chấp mà tổ trưởng tổ hòa giải nghiên cứu, lựa chọn,
cử hòa giải viên tham gia hịa giải cho phù hợp. Việc hịa giải có thể do một hoặc một
số hòa giải viên tiến hành. Tổ hịa giải có thể tự quyết định số hịa giải viên tham gia
hòa giải đối với từng vụ, việc cụ thể. Ví dụ, hồ giải tranh chấp về hơn nhân gia đình
nên cử hồ giải viên là nữ giới tác động với bên vợ và cử hoà giải viên nam giới tác
động với bên chồng sẽ mang lại kết quả cao hơn. Đối với những việc tranh chấp tương
đối phức tạp, mâu thuẫn giữa các bên tương đối gay gắt, sự có mặt của một số hồ
giải viên sẽ tác động nhiều hơn đến tâm lý của các bên tranh chấp, hoặc mỗi hoà giải
viên sẽ đứng ra giải thích, thuyết phục, cảm hố từng bên.
(Căn cứ hịa giải theo quy định tại Điều 16 Luật Hòa giải ở cơ sở, gồm:
1. Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải;
2. Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hịa giải;
3. Theo phân cơng của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan)

Hịa giải viên được phân cơng hịa giải cần chủ động, tích cực tìm hiểu về nội
dung vụ việc, thu thập thông tin, chứng cứ, nắm bắt hoàn cảnh, nguyên nhân xảy ra
mâu thuẫn, tranh chấp, tác động của mâu thuẫn, tranh chấp đối với các bên thông qua
các biện pháp sau đây:
- Gặp gỡ, trao đổi riêng với từng bên tranh chấp (thường ở nhà riêng của từng
bên) và phải bảo đảm gặp gỡ, trao đổi được với tất cả các bên tranh chấp; cần có cách
nhìn khách quan, tránh phiến diện, thiên lệch trong q trình hịa giải vụ, việc.
- Gặp gỡ, trao đổi với những người khác có liên quan nhằm mục đích hiểu rõ
hơn về vụ việc; lợi ích, mong muốn của các bên, lợi ích cốt lõi để xem lợi ích nào có
thể chấp nhận được.
* Lưu ý: Trường hợp các bên ở thôn, tổ dân phố khác nhau thì tổ hịa giải ở
thơn, tổ dân phố đó phối hợp thực hiện việc hịa giải và thơng báo với Trưởng ban
cơng tác Mặt trận tại nơi đó cùng phối hợp thực hiện để có kết quả tốt.
- Trong quá trình gặp gỡ, trao đổi với các bên tranh chấp và những người có liên
quan, hịa giải viên cần phải đề nghị được cung cấp các tài liệu, bằng chứng liên quan
đến vụ việc và xem xét cụ thể, tỉ mỉ các tài liệu, bằng chứng đó.
- Trong trường hợp các bên đang xung đột gay gắt, căng thẳng, hòa giải viên
cần can thiệp kịp thời, khuyên giải các bên bình tĩnh, cùng đối thoại, khơng để “việc
bé xé ra to”, tránh kéo dài tình trạng cãi cọ qua lại, bàn tán, xúi giục, kích động, dẫn


6
đến hành vi bạo lực.
Nếu thấy mâu thuẫn, tranh chấp nghiêm trọng có thể dẫn đến hành vi bạo lực
gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của các bên hoặc gây mất trật tự cơng cộng,
hịa giải viên thơng báo kịp thời cho tổ trưởng tổ hòa giải để báo cáo Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã có biện pháp phịng ngừa hoặc báo trực tiếp cơng an, chính quyền
xã để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
1.2. Tìm hiểu các quy định pháp luật vận dụng trong q trình hịa giải và
khả năng đáp ứng lợi ích của mỗi bên, nhất là các lợi ích cốt lõi

Với các thơng tin mà hịa giải viên đã thu thập được, hòa giải viên đọc tài liệu
pháp luật liên quan, thảo luận với nhau để tìm ra các điều khoản thích hợp áp dụng
cho vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn. Đối chiếu quy định pháp luật với lợi ích, mong
muốn của các bên để dự kiến giải pháp tốt nhất có thể gợi ý cho các bên về giải quyết
mâu thuẫn, tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật.
Trường hợp cần thiết, hịa giải viên có thể tham khảo ý kiến của những người
có trình độ pháp lý (công chức cấp xã, luật gia, luật sư…).
Đối với vụ việc có thể vận dụng quy định pháp luật một cách rõ ràng, thì căn cứ
trên quy định của pháp luật, hịa giải viên phân tích, thuyết phục các bên. Các bên
tranh chấp có thể khơng cần gặp nhau trực tiếp, mà thống nhất với nhau phương án
giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp thơng qua hịa giải viên (hịa giải viên gợi ý giải
pháp, hai bên nhất trí với giải pháp đó hoặc một bên tranh chấp đưa ra giải pháp, bên
tranh chấp còn lại đồng ý khi hòa giải viên đề cập đến giải pháp này). Q trình hịa
giải lúc này là hồn thành và hịa giải viên cần khẳng định lại thỏa thuận đạt được và
việc thực hiện thỏa thuận, cũng như chuyển đến Bước 3 - Sau khi hòa giải.
2. Bước 2: Tiến hành hòa giải
2.1. Thành phần tham dự buổi hòa giải
Thành phần tham dự buổi hịa giải gồm có:
- Hịa giải viên;
- Các bên tranh chấp, mâu thuẫn; trong trường hợp cần thiết, hòa giải viên mời
cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia buổi hịa giải để nhìn nhận vụ việc
tồn diện, khách quan hơn, giúp cho việc hòa giải được thuận lợi. Việc gặp gỡ trong
hoà giải phải tạo ra khơng khí thân mật, cởi mở và chân thành, khơng áp đặt ý chí
của hồ giải viên đối với các bên tranh chấp;
- Để cuộc hòa giải đạt hiệu quả, hịa giải viên có thể mời người khác tham gia
hịa giải, đó là những người có uy tín trong dịng họ, ở nơi sinh sống, nơi làm việc;
người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội. Ví dụ như luật gia, luật sư (việc huy
động những người này đặc biệt có hiệu quả đối với các địa bàn đô thị, tranh chấp xảy
ra thường phức tạp, giá trị lớn, trình độ dân trí cao hơn khu vực nơng thôn); già làng,
trưởng bản (tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, già làng,

trưởng bản là những người có uy tín cao, được kính trọng trong cộng đồng, tiếng nói
của họ rất có giá trị, vì vậy sự tham gia của họ vào quá trình hịa giải là một yếu tố
dẫn đến thành cơng), chức sắc tôn giáo (khi các bên hoặc một trong các bên tranh
chấp là người theo đạo, thì việc tham gia hịa giải của chức sắc tơn giáo sẽ mang lại
hiệu quả thiết thực), người biết rõ vụ việc; đại diện của cơ quan, tổ chức liên quan (ví


7
dụ: hịa giải tranh chấp đất đai, có thể mời cơng chức địa chính, cơng chức tư pháp ở
xã, phường, thị trấn; hòa giải vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hịa giải ở cơ sở có
thể mời cơng an xã…) hoặc người có uy tín khác (đội ngũ cán bộ, cơng chức đã nghỉ
hưu);
- Trường hợp hịa giải viên, các bên tranh chấp, mâu thuẫn có sự bất đồng về
ngơn ngữ thì cần có người phiên dịch.
* Lưu ý:
Những người không liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp không nên tham gia
nhiều vào trong việc giải quyết tranh chấp, bởi một điều quan trọng là các bên tranh
chấp cần được tạo cơ hội trình bày ý kiến và được lắng nghe đầy đủ ý kiến của mình.
2.2. Thời gian, địa điểm tổ chức buổi hòa giải
- Thời gian: Buổi hòa giải cần diễn ra trong khoảng thời gian phù hợp với đặc
điểm sinh hoạt của các bên.
- Địa điểm: Địa điểm thực hiện buổi hòa giải cần bảo đảm thuận tiện cho các
bên. Cách bố trí, sắp xếp khơng gian tổ chức buổi hịa giải cần phải tạo mơi trường
hài hịa (về chỗ ngồi, ánh sáng, nhiệt độ, tiếng ồn…), giúp cho các bên có cảm giác
thoải mái, dễ chịu khi tham gia buổi hịa giải; khơng nên hình thức, phức tạp hố
trong khâu tổ chức thực hiện.
2.3. Quy trình của một cuộc hịa giải
- Hịa giải viên chủ trì buổi hịa giải nêu mục đích, ý nghĩa, thống nhất về một
số quy ước, thỏa thuận về cách làm với các bên tranh chấp tại buổi hòa giải;
- Các bên trình bày nội dung vụ việc;

- Hịa giải viên tổng hợp lại các vấn đề đang tranh chấp; phổ biến, đối chiếu,
phân tích các quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp điều
chỉnh về vấn đề các bên đang tranh chấp, giúp các bên hiểu rõ, liên hệ đến quyền lợi,
trách nhiệm trong vụ việc, thấy rõ những điểm phù hợp, chưa phù hợp trong hành vi
ứng xử của mình; đưa ra các lựa chọn đáp ứng lợi ích của các bên (các phương án
giải quyết để các bên tham khảo); phân tích lợi ích của việc hịa giải thành, hậu quả
pháp lý mà các bên có thể phải gánh chịu nếu tiếp tục tranh chấp và có những hành
vi sai trái;
Những người được mời tham gia hịa giải có thể phân tích, bổ sung làm rõ ý
kiến của hịa giải viên.
- Các bên, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ
về vấn đề đang tranh chấp, mâu thuẫn; cùng bàn bạc, thỏa thuận, thống nhất với nhau
về phương án giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp. Trong quá trình các bên thảo luận,
đối với những ý kiến đưa ra cách giải quyết bất hợp lý thì hịa giải viên kịp thời phân
tích, thẳng thắn chỉ cho họ biết yêu cầu của họ đưa ra là không hợp lý để họ cân nhắc
lại. Những nội dung thoả thuận mà trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội, thì hịa giải
viên cần phải giải thích để họ thoả thuận lại.
- Sau khi các bên đã thỏa thuận, thống nhất được phương án giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp, thì hịa giải viên tổng kết lại những vấn đề các bên đã thỏa thuận
để các bên suy nghĩ, cân nhắc, cùng nhau khẳng định lại những thỏa thuận đạt được.
Hịa giải viên nhắc nhở, đơn đốc các bên về việc thực hiện thỏa thuận.


8
Trường hợp các bên chỉ thỏa thuận được một phần những vấn đề có tranh chấp,
hịa giải viên tiếp tục thuyết phục các bên bàn bạc, thỏa thuận tiếp. Nếu các bên vẫn
khơng thống nhất được thì hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của pháp luật đối với những nội dung này.
- Khi các bên đạt được thỏa thuận và thống nhất lập văn bản hòa giải thành, hòa
giải viên có thể giúp các bên lập thành văn bản hòa giải thành.

- Trường hợp các bên yêu cầu lập văn bản hịa giải khơng thành, thì hịa giải viên
lập văn bản hịa giải khơng thành.
3. Bước 3: Sau khi hòa giải
3.1. Đối với trường hợp hòa giải thành (các bên đạt được thỏa thuận)
- Trường hợp hòa giải thành thì hịa giải viên có trách nhiệm:
+ Theo dõi, đơn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành do mình trực tiếp
giải quyết;
+ Hướng dẫn các bên có thể làm đơn u cầu Tịa án cơng nhận kết quả hòa giải
thành theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Quy định tại Chương
XXXIII. Thủ tục cơng nhận kết quả hịa giải thành ngồi Tịa án của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015), cụ thể như sau:
Điều kiện cơng nhận kết quả hịa giải thành ngồi Tịa án:
(1) Các bên tham gia thỏa thuận hịa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
(2) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với
nội dung thỏa thuận hịa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên
quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý.
(3) Một hoặc cả hai bên có đơn u cầu Tịa án cơng nhận. Đơn yêu cầu phải
được gửi đến Tòa án trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày các bên đạt được thỏa thuận
hịa giải thành và phải có các nội dung chủ yếu sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Tên Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc dân sự;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu;
- Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết việc dân sự đó
(nếu có);
- Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức
thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối
đơn; trường hợp tổ chức yêu cầu là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực
hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp.
- Tên, địa chỉ của cá nhân, tổ chức đã tiến hành hòa giải;
- Nội dung, thỏa thuận hòa giải thành yêu cầu Tòa án công nhận.

Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi văn bản về kết quả hòa giải thành
theo quy định của pháp luật có liên quan.
(4) Nội dung thỏa thuận hịa giải thành của các bên là hồn tồn tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh
nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.


9
Đồng thời, kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hịa giải để báo cáo Trưởng ban
cơng tác Mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện.
- Trong trường hợp việc thực hiện thỏa thuận có khó khăn, thì hịa giải viên động
viên, thuyết phục các bên thực hiện thoả thuận và có thể đề nghị Trưởng thơn, xóm,
bản, ấp, tổ dân phố hoặc kiến nghị với Uỷ ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện để các
bên tự nguyện thực hiện thoả thuận.
3.2. Đối với trường hợp hịa giải khơng thành (các bên không đạt được thỏa
thuận)
- Trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận và cả hai bên yêu cầu tiếp tục
hịa giải, thì hịa giải viên tiếp tục tiến hành hịa giải.
- Trường hợp các bên khơng đạt được thỏa thuận và một bên yêu cầu tiếp tục
hòa giải, nhưng có căn cứ cho rằng việc tiếp tục hịa giải khơng thể đạt kết quả thì hịa
giải viên quyết định kết thúc hòa giải và hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
3.3. Ghi Sổ theo dõi hoạt động hịa giải ở cơ sở
Dù việc hồ giải thành hay khơng thành, hịa giải viên đều có trách nhiệm ghi
nội dung vụ, việc hòa giải vào Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để phục vụ
cơng tác lưu trữ, thống kê, thanh tốn thù lao cho hòa giải viên, trao đổi kinh nghiệm
trong hoạt động hịa giải ở cơ sở.
II. VỤ VIỆC HỊA GIẢI Ở CƠ SỞ ĐIỂN HÌNH (THƯỜNG XẢY RA) VÀ
TRÌNH TỰ CÁCH THỨC HỊA GIẢI
(Phục vụ cho hịa giải viên nghiên cứu, tham khảo vận dụng linh hoạt trong

thực tiễn thực hiện cơng tác hịa giải của từng địa phương)
1. Chuyện mẹ chồng - nàng dâu
a. Nội dung vụ việc
Giữa bà D và con dâu là chị H thường xảy ra mâu thuẫn xuất phát từ những việc
lặt vặt trong gia đình. Bà D thì khó tính, hay để ý, khắt khe với con dâu. Cịn chị H
thì nói năng thiếu lễ phép với mẹ chồng, không tôn trọng mẹ chồng. Ban đầu là những
mâu thuẫn nhỏ, sau ngày càng gay gắt dẫn đến việc bà D đã đuổi chị H ra khỏi nhà.
b. Q trình hịa giải
Nhận được thơng tin vụ việc, tổ hịa giải thơn đã họp bàn cùng nhau giải quyết
vụ việc.
Sau khi tìm hiểu, hịa giải viên đã xác định được mâu thuẫn giữa bà D và chị H
có ngun nhân sâu xa là vì kinh tế gia đình khó khăn, đất đai, nhà cửa chật hẹp và
vợ chồng chị H lấy nhau đã nhiều năm lại chưa có con. Từ đó, hịa giải viên đã gặp
gỡ từng bên phân tích, thuyết phục các bên hiểu rõ điều hay, lẽ phải. Rằng cuộc sống
vốn khó khăn, mọi người cần phải yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau
vun đắp, xây dựng cuộc sống gia đình. Khoản 1 Điều 103 Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014 đã quy định, các thành viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm
sóc, giúp đỡ, tơn trọng nhau.
Đối với bà D, tổ hịa giải phân tích giúp bà hiểu, là mẹ chồng, bà nên coi con dâu
như con đẻ, nên thông cảm và hiểu cho con dâu của mình cịn “trẻ người non dạ”. Bà


10
nên có lịng vị tha, độ lượng, khơng nên cay nghiệt, khắt khe với con dâu. Con dâu có
điều gì khơng phải, bà nên tận tình dạy bảo, chỉ ra những điều hay, lẽ phải giúp con
dâu nhận ra cái sai của mình để tự sửa chữa. Việc vợ chồng con trai và con dâu bà
muộn có con là việc ngoài ý muốn. Hơn ai hết, chị H là người đầu tiên mong muốn
mình được làm mẹ, cảm nhận được tình mẫu tử thiêng liêng. Bên cạnh đó, với sự tiến
bộ của y học ngày nay, cơ hội để vợ chồng chị H có con là rất lớn.
Về phía chị H, hịa giải viên cũng phân tích cho chị thấy, việc chị cư xử thiếu lễ

phép với mẹ chồng là sai. Phận làm con, chị phải có biểu hiện yêu quý, kính trọng,
hiếu thảo, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ chồng cũng như cha
mẹ đẻ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Chị phải hiểu rằng, nếu
khơng có cha mẹ chồng thì làm sao có chồng của mình ngày hơm nay. Nếu trong lúc
nóng giận, mẹ chồng có thái độ hoặc lời nói khơng đúng thì lựa lúc mẹ chồng vui vẻ,
chị hãy giải thích để mẹ chồng hiểu và thơng cảm. Đối với việc vợ chồng chị chậm
có con, chị hãy cùng chồng phân tích để mẹ chồng chị hiểu đây là điều không ai mong
muốn, anh chị cũng mong được làm cha, làm mẹ, cũng muốn bà có cháu để ẵm bồng,
để xây dựng gia đình hạnh phúc và anh chị đang tìm cách chữa trị để sớm hồn thành
tâm nguyện của bản thân và gia đình.
Sau một thời gian gặp gỡ, phân tích, thuyết phục, hịa giải viên đã mời được hai
mẹ con bà D và chị H ngồi lại với nhau để dàn hòa. Tại buổi hòa giải, bà D và chị H
đều nhận ra lỗi của mình. Chị H đã chủ động xin lỗi mẹ chồng và bà D đã đón con
dâu về nhà mình.
2. Chặt cây trên đất của người khác
a. Nội dung vụ việc
Họ nhà ơng Bùi Văn S ở xóm VK tổ chức xây mộ của dòng họ. Sát khu mộ của
dòng họ nhà ơng S có một số cây sà cừ nằm trên phần đất thuộc quyền sử dụng của
nhà ông Bùi Văn D ở xóm GM. Nhà ơng S cho rằng cây sà cừ rễ chùm, dễ đổ, sẽ ảnh
hưởng đến khu mộ nhà mình nên khi xây khu mộ của dịng họ, ơng S đã tự ý đốn hạ
02 cây sà cừ và đem bán mà không hỏi ý kiến ông D. Vì vậy, hai bên đã xảy ra tranh
chấp. Ông D yêu cầu tổ hòa giải yêu cầu giải quyết.
b. Q trình hịa giải
Khi nhận được u cầu của ơng D, tổ hịa giải xóm GM đã phối hợp với tổ hịa
giải xóm VK tiến hành tìm hiểu sự việc và xác định rõ mâu thuẫn giữa hai bên để
cùng đưa ra hướng giải quyết.
Trên cơ sở nội dung vụ việc và quy định của pháp luật có liên quan, kết hợp với
đạo lý truyền thống, tổ hòa giải đã tiến hành phân tích, giải thích rõ quyền và nghĩa
vụ của các bên theo quy định của pháp luật, cũng như tiến hành phân tích, giúp các
bên hiểu rõ bản chất vụ việc một cách thấu tình đạt lý.

Về mặt pháp lý, việc nhà ông S tự ý chặt cây trên phần đất nhà ông D mà không
được phép của ông D là sai, xâm phạm quyền sở hữu của ơng D. Ơng D có quyền u
cầu ơng S bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm của mình gây ra.
Về mặt đạo lý, khu mộ của dịng họ nhà ông S ở sát phần đất nhà ông D, hai bên
gia đình xóm trên, xóm dưới đều biết nhau cả. Hơn nữa, việc xây mộ tổ thể hiện lịng
hiếu thảo, tơn kính ơng bà tổ tiên, là đạo lý truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.


11
Do đó, giá như ơng S tơn trọng ơng D, trao đổi, hỏi ý kiến ông D, xin phép ông D
được chặt hai cây sà cư sát khu mộ để khơng làm ảnh hưởng đến khu mộ thì mới phải
nhẽ. Và chắc chắn ông D sẽ đồng ý, coi như đó là sự chia sẻ tình cảm với các cụ tổ
tiên nhà ông S, mong các cụ phù hộ, độ trì cho các con các cháu ruột thịt cũng như
hàng xóm láng giềng.
Sau khi nghe giải thích, phân tích, đại diện cho dịng họ ơng S đã xin lỗi và hứa
sẽ hồn trả số tiền bán cây cho gia đình ông D; ông D đã chấp nhận lời xin lỗi và
khơng u cầu phía dịng họ ơng S phải trả tiền bán cây cho mình, mà thống nhất hai
bên sẽ dùng số tiền này đóng góp vào việc xây dựng nhà văn hóa của xóm với mong
muốn góp phần vào việc xây dựng thơn, xóm giàu đẹp.
3. Ai được làm hồ sơ và hưởng chế độ thờ cúng liệt sĩ?
a. Nội dung vụ việc
Vợ chồng cụ A sinh được 10 người con, trong đó có một người đã hy sinh (liệt
sỹ T). Chín người con cịn lại, có 4 người sinh sống ở quê, 5 người đi làm ăn xa. Khi
còn sống, hai cụ là người thờ cúng và hưởng chế độ thờ cúng liệt sĩ T. Năm 2014, các
cụ lần lượt qua đời, song không di chúc lại cho ai sẽ thờ cúng liệt sĩ T. Thời gian qua,
Ban Chính sách xã phổ biến cho gia đình làm hồ sơ để hưởng chế độ thờ cúng liệt sĩ
T. Bốn anh em ở quê (ông M, ông Đ, ông B, ông K) đã tổ chức họp gia đình để làm
hồ sơ, nhưng ông M không họp và cũng không làm hồ sơ (vì ơng M hiện đang lưu giữ
bản gốc bằng Tổ quốc ghi công của liệt sĩ T), nên ba người em thống nhất cử ông Đ
làm hồ sơ và hưởng chế độ thờ cúng liệt sĩ T. Tuy nhiên, khi ông Đ được hưởng chế

độ thờ cúng liệt sĩ T, thì ơng M khơng đồng ý, nên phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp.
b. Q trình hịa giải
Sau khi nhận được u cầu của ơng M, tổ hịa giải thơn đã xem xét, tìm hiểu
ngun nhân sự việc. Tổ hịa giải đã mời cơng chức tư pháp và cơng chức chính sách
xã tham dự, tư vấn pháp luật, đặc biệt là pháp luật về thừa kế và chính sách đối với
người có cơng với nước.
Tại buổi hịa giải, tổ hịa giải đã nghe ý kiến trình bày cụ thể của các bên, công
chức tư pháp xã phổ biến một số điều khoản trong pháp luật về thừa kế. Tổ hịa giải
đã góp ý mang tính chất xây dựng với anh em ông M rằng, anh em máu mủ ruột già,
đối với người đã mất (liệt sĩ T) thì đó còn là cái tâm, cái đức. Vợ chồng cụ A mất đi,
không di chúc lại cho ai thờ cúng liệt sĩ T, mà trong cùng hàng thừa kế có 9 anh chị
em ơng M, hiện có 4 người ở nhà và 5 người ở xa. Nên phương án hòa giải đưa ra là
9 anh chị em ông M cần họp bàn thống nhất ai sẽ là người làm hồ sơ và hưởng chế độ
thờ cúng liệt sĩ T. Đối với những người ở xa khơng về được, thì phải có giấy ủy quyền
có xác nhận của UBND nơi cư trú. Nội dung giấy ủy quyền cần ghi rõ sẽ ủy quyền
cho ai được hưởng chế độ thờ cúng liệt sĩ T. Sau khi có đầy đủ ý kiến của 9 anh chị
em ông M, người được ủy quyền nhiều nhất sẽ hưởng chế độ và thờ cúng liệt sĩ T.
Phương án tổ hòa giải đưa ra đã được sự đồng tình của anh chị em ơng M.
4. Con trâu của ai?
a. Nội dung vụ việc
Vào ngày 12/11/2014 tại địa bàn 2 thôn NL và PL đã xảy ra việc tranh chấp một
con trâu giữa ông Nguyễn Ngọc P ở thôn PL và bà Trương Thị T ở thôn NL. Cụ thể:


12
Hộ ơng Nguyễn Ngọc P có một con trâu đực hơn hai năm tuổi, màu đen, thường ngày
gia đình cho trâu ăn trên đồng và chiều tối trâu tự về chuồng. Sau đó 2 ngày, khơng
thấy trâu về, gia đình ông P đã cho người đi tìm mà không thấy, đến ngày thứ ba thì
phát hiện con trâu nhà mình bị bà T giữ trong chuồng, gia đình ơng P đề nghị bà T
thả trâu, nhưng bà T khẳng định đó là trâu nhà mình và khơng chịu thả. Từ đây, mâu

thuẫn, tranh chấp đã xảy ra.
b. Q trình hịa giải
Sau khi có đơn trình bày của gia đình ơng P, UBND xã thấy rằng, việc tranh
chấp con trâu liên quan đến người 2 thôn, nên phân công đại diện tổ hịa giải của 2
thơn NL và PL phối hợp với công chức tư pháp xã, đại diện Hội Nông dân xã giải
quyết.
Đại diện tổ hòa giải tiến hành kiểm tra, xác minh và lấy lời khai của hai hộ gia
đình. Thấy tình hình hai gia đình đang tranh chấp một con trâu và bên nào cũng khai
báo đặc điểm con trâu hồn tồn giống nhau, nên tổ hịa giải phải gặp trực tiếp bà con
xung quanh hai gia đình để tìm hiểu sự việc. Qua những thơng tin bà con hàng xóm
cung cấp, thì vẫn chưa phân định được rõ con trâu là của bên nào, vì cả hai nhà có hai
con trâu giống nhau, nên tình hình giải quyết càng phức tạp hơn. Sau đó, tổ hịa giải
thống nhất phương án giải quyết là buộc gia đình bà T thả con trâu đang giữ trong
chuồng ra và tổ hịa giải cử người dắt con trâu đó ra đồng, yêu cầu nếu gia đình nào
tự ý dắt trâu về chuồng, thì con trâu thuộc nhà bên kia và hai gia đình đã ký vào biên
bản cam kết. Ngày 16/11/2014, con trâu được tổ hòa giải thả ra đồng từ sáng sớm và
chiều tối nó tự về nhà ơng P có sự chứng kiến của hai gia đình và bà con trong xóm,
nhưng bà T khơng cơng nhận con trâu tự về chuồng, mà nói rằng, gia đình ơng P ra
dắt trâu về.
Để giải quyết sự việc một cách công bằng và khách quan, tổ hịa giải đề nghị gia
đình ông P tiếp tục thả trâu ra đồng vào sáng ngày 17/11/2014 và u cầu khơng gia
đình nào được tự ý dắt trâu về chuồng của mình. Chiều tối ngày hơm đó, trâu đã tự
về chuồng nhà ơng P, thì gia đình bà T cho người chặn đường, khơng cho trâu vào
chuồng nhà ông P, buộc con trâu phải vào chuồng nhà người khác ở thơn PL, tổ hịa
giải phải đến đặt vấn đề với gia đình đó để sáng ngày 18/11/2014 tổ hòa giải tiếp tục
thả trâu ra đồng và chiều tối trâu lại tự vào chuồng nhà ông P.
Sau 3 ngày thả trâu ra đồng, tổ hòa giải đã có cơ sở để giải quyết vụ việc. Ngày
20/11/2014, tổ hịa giải đã mời hai gia đình, Trưởng thơn NL, thơn PL đến UBND xã
để làm việc: Tổ hịa giải đã phân tích cho gia đình bà T biết việc tranh chấp trâu với
gia đình ơng P là khơng đúng, bởi vì dân gian có câu “lạc đường nắm đi chó, lạc

cửa ngõ nắm đi trâu”, trong 3 ngày con trâu thả ra đồng đến chiều tối nó tự về
chuồng nhà ơng P, thì khơng có cơ sở nào bà T lại nhận trâu nhà mình, mặc dù biết
rằng nhà bà T cũng có một con trâu bị thất lạc, gia đình phải đi tìm.
Sau khi nghe tổ hịa giải và các thành phần tham gia hòa giải phân tích, góp ý có
tình, có lý, bà T hiểu ra và cơng nhận đó khơng phải là trâu nhà mình, mà là trâu nhà
ông P.


13
Sau khi giải quyết xong, tổ hòa giải hướng dẫn gia đình bà T thơng báo tìm con
trâu bị thất lạc trên loa truyền thanh của xã. Năm ngày sau, gia đình bà T đã tìm thấy
con trâu bị thất lạc.
5. Bảo vệ môi trường chung
a. Nội dung vụ việc
Nhà bà T và nhà ông H là hai hộ sát liền kề, cùng ở trên gác 2 của căn nhà biệt
thự cũ. Thời gian gần đây, ơng H có ni chim, gà tre và làm chuồng nuôi nhốt sát
ngay cửa sổ thơng thống nhà bà T. Việc ni chim, gà tre của gia đình ơng H đã ảnh
hưởng khơng nhỏ đến cuộc sống của gia đình bà T. Phân gà, phân chim bốc mùi hôi
thối, gây ảnh hưởng đến vệ sinh mơi trường, ơ nhiễm khơng khí khiến gia đình bà T
phải đóng kín cửa sổ, nhưng mùi hơi thối vẫn bay vào nhà. Hơn thế nữa, mỗi khi thay
đổi thời tiết, những con ruồi, con mát rất nhiều, bay cả vào nhà bà T gây mất vệ sinh
và ảnh hưởng đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình bà T. Mặc dù, bà T đã
nhắc nhở nhiều lần nhưng ông H vẫn không tiếp thu. Giữa hai bên đã lời qua tiếng
lại, gây ầm ĩ, mất trật tự nơi xóm phố.
b. Q trình hịa giải
Tổ hịa giải tổ dân phố X nhận thấy, đây là vụ việc cần được tiến hành hòa giải
cơ sở theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP về hướng dẫn chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở. Tổ hòa giải đã nghiên cứu,
lựa chọn và cử người tham gia hòa giải là người có uy tín và nắm rõ ngun nhân
tranh chấp. Hịa giải viên đã chủ động tìm hiểu ngun nhân phát sinh xích mích, tìm

biện pháp khắc phục khơng để việc đơn giản thành phức tạp.
Các thành viên của tổ hịa giải đã đến gia đình bà T nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của gia đình bà. Bên cạnh đó, tổ hịa giải cũng gặp gỡ ơng H tìm hiểu về sở thích ni
gia cầm của ơng, xem xét về điều kiện vệ sinh, chuồng ni có đảm bảo khơng. Hịa
giải viên đã thuyết phục hai bên cần phải có ứng xử phù hợp với pháp luật, đạo đức
xã hội, phong tục tập quán tốt đẹp của người Việt Nam là “bán anh em xa mua láng
giềng gần”, “hàng xóm tối lửa, tắt đèn có nhau”.
Sau khi gặp gỡ các bên, tổ hòa giải đã tiến hành họp để hòa giải trong khơng khí
cởi mở. Hai gia đình có mâu thuẫn đã được các thành viên tổ hòa giải phân tích, giải
thích các quy định của pháp luật liên quan. Cụ thể là Điều 81 Luật Bảo vệ môi trường
năm 2014 có quy định: “Cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm thực
hiện các quy định về bảo vệ mơi trường và giữ gìn vệ sinh nơi công cộng; phân loại,
chuyển rác thải vào thùng chứa rác công cộng hoặc đúng nơi quy định tập trung rác
thải; không để vật nuôi gây mất vệ sinh nơi công cộng” và Bộ luật Dân sự năm 2015
quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc bảo vệ môi trường: “Chủ sở hữu phải
tuân theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, nếu làm ô nhiễm môi
trường thì phải chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực hiện các biện pháp để khắc phục
hậu quả và bồi thường thiệt hại”.
Gia đình ơng H sau khi nghe tổ hịa giải phân tích có lý, có tình đã tự nguyện di
chuyển số gia cầm đang ni đi chỗ khác trong khuôn viên khu nhà ở, tuy nhiên,
phương án này vẫn chưa giải quyết được triệt để việc ô nhiễm môi trường do khu vực


14
hai gia đình đang sinh sống nguyên là nhà biệt thự cũ, hai nhà sát liền kề nhau, nên
dù đã di chuyển chuồng ni ra xa, nhưng khơng khí xung quanh vẫn bị ô nhiễm.
Do nguyện vọng, yêu cầu của gia đình chưa được giải quyết triệt để, bà T đã tiếp
tục gửi đơn kiến nghị lên UBND phường, đề nghị phường giải quyết dứt điểm việc
nuôi nhốt gia cầm của nhà ông H. UBND phường đã kết hợp trạm thú y B, xuống
kiểm tra thực tế các điều kiện về vệ sinh, kiểm dịch. Nhận thấy việc nuôi chim, gà

của gia đình ơng H chưa đảm bảo các u cầu, điều kiện theo quy định. UBND phường
yêu cầu gia đình ơng H dừng việc ni chim, gà của gia đình.
Trên đây là một vụ việc hịa giải khơng thành, các bên đã khơng đạt được thỏa
thuận. Có thể thấy, nếu gia đình hai bên hiểu và thơng cảm cho nhau thì vụ việc đã
được hịa giải thành ngay từ cơ sở, giữ được tình làng nghĩa xóm. Và tổ hịa giải cần
kiên trì thuyết phục, vận động hơn nữa, nên mời cán bộ trạm thú y, cán bộ UBND
phường cùng tổ hịa giải làm việc, giải thích cho gia đình ơng H trước khi phải xử lý
theo quy định của pháp luật để vụ việc được giải quyết bằng hòa giải.
6. Trẻ em hiếu động
a. Nội dung vụ việc
Trong vườn nhà bà Trần Thị H (cư trú tại thôn X) có một cây nhãn đang mùa
trái chín. Khi gia đình bà H đi vắng, bé Ngơ Quốc B, là con trai chị Hà Thị Y (hàng
xóm với bà H) đã trèo qua hàng rào, leo lên cây hái nhãn, chẳng may cành nhãn bị
gãy, bé B bị ngã, gãy tay.
Chị Y cho rằng cây nhãn của nhà bà H, nên bà H có trách nhiệm thanh tốn các
khoản tiền thuốc men, bó bột cho bé B. Bà H khơng đồng ý bồi thường, vì cho rằng
bé B đã tự ý trèo cây mà không được sự cho phép của gia đình bà nên phải tự gánh
chịu hậu quả. Khơng ai chịu nhường ai, bà H đã đưa sự việc đến tổ hịa giải thơn X
giải quyết.
b. Q trình hịa giải
Sau khi nắm được vụ việc, hòa giải viên đã giải thích cho hai bên hiểu rõ: Việc
bé B bị ngã gãy tay do tự ý trèo lên cây nhãn nhà bà H trong lúc gia đình bà đi vắng,
là lỗi của bé B.
Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu,
người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra”. Theo đó, trong
sự việc trên, việc bé B bị ngã gãy tay không phải do cây nhãn nhà bà H gây ra mà
hoàn toàn do lỗi của bé B. Vì vậy, chị Y khơng thể u cầu bà H chịu trách nhiệm
thanh toán các khoản tiền thuốc men và bó bột cho bé B.
Đồng thời, hịa giải viên cũng giải thích cho chị Y hiểu, trẻ con thường hiếu
động, thích leo trèo, chị cần phải nhắc nhở con khơng nên trèo cây, vì đây là hành

động rất nguy hiểm; ngồi ra, cũng cần nhắc nhở con khơng nên sang nhà hàng xóm
tự ý hái quả, hay lấy đồ của người khác mà chưa được sự cho phép của họ, đó là việc
làm sai trái.
Nghe hịa giải viên giải thích hợp lý, hợp tình, chị Y hiểu ra và không yêu cầu
bà H chịu trách nhiệm, đồng thời xin lỗi bà H, hứa sẽ quan tâm, dạy bảo bé B tốt hơn,
tránh trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra.
7. Hàng rào lấn lối đi chung


15
a. Nội dung vụ việc
Vào năm 1997, bà Nguyễn Thị C mua đất, cất nhà và trồng cây ăn trái trên phần
đất thuộc tổ 9, ấp X, xã Y. Bà trồng hàng rào xương rồng, dâm bụt xung quanh phần
đất của mình. Tháng 01/2015, bà nhổ bỏ xương rồng, dâm bụt và cắm trụ rào lưới
B40. Tại thời điểm bà C chuẩn bị làm hàng rào cho đến khi hàng rào đã hồn thành
thì khơng có ai tranh chấp hay khiếu nại. Đến tháng 02/2015, có 10 hộ dân tại tổ 9, ấp
X, xã Y nộp đơn tranh chấp lối đi với bà C, các hộ này cho rằng lối đi này đã hình
thành từ trước rất rộng (khoảng 2m), nay bà C làm hàng rào lấn ra làm hẹp lối đi và
cịn có hai cây dừa tơ mới trồng lấn ra làm ảnh hưởng việc lưu thơng.
b. Q trình hòa giải
Sau khi tiếp nhận đơn, tổ trưởng tổ hòa giải nghiên cứu nội dung vụ việc, xác
định đây là tranh chấp dân sự trong nội bộ nhân dân thuộc ấp X, vì vậy vụ việc sẽ do
tổ hịa giải ấp X tiến hành hòa giải.
Tổ trưởng tổ hòa giải phân cơng một hịa giải viên tiến hành xác minh nội dung
nêu trong đơn. Qua xác minh, tổ hòa giải xác định: Lối đi có hàng rào B40, có đoạn
hơn 1m có đoạn gần 1,5m và phần đất đã rào có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hợp pháp do bà C đứng tên và đây chỉ là lối đi phụ. Sau khi tìm hiểu sự việc, xác minh
nội dung và tham khảo ý kiến của công chức tư pháp - hộ tịch, hịa giải viên được
phân cơng mời các bên đương sự đến để tiến hành hòa giải.
Buổi hòa giải diễn ra với đủ các thành phần tham dự. Sau khi nghe các bên đương

sự trình bày ý kiến của mình, hịa giải viên phân tích và giải thích nội dung vụ việc
cụ thể như sau: Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, phần đất trên do bà C đứng tên trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và trong đó khơng thể hiện lối đi trên bị trừ ra và lối
đi này nằm trong quyền sử dụng đất hợp pháp của bà C; thứ hai, lối đi này được hình
thành tự nhiên và đây là lối đi phụ, bà C vẫn giữ nguyên hiện trạng cũ và bà thay thế
hàng rào dâm bụt, xương rồng bằng hàng rào B40; thứ ba, qua xác minh thì hai cây
dừa tơ có gây ảnh hưởng là hẹp lối đi. Vì vậy, hòa giải viên động viên bà C nên đốn
hai cây dừa để các hộ cịn lại có lối đi thuận tiện.
Sau khi nghe tổ hịa giải phân tích, giải thích, động viên có lý, có tình, các bên
đã đi đến thống nhất các nội dung sau: Bà C đồng ý đốn hai cây dừa để các hộ cịn lại
có lối đi thuận tiện, đồng thời, đề xuất nếu các hộ muốn có lối đi rộng hơn nữa thì bà
đồng ý cho lấp phân nửa phần mương cịn lại của mình, nhưng chi phí di chuyển dừa
và lấp mương do các hộ còn lại tự chịu và phải hỗ trợ cho bà C một khoản tiền nhỏ.
Mười hộ dân còn lại đã đồng ý đề xuất của bà C. Buổi hòa giải kết thúc trên tinh thần
vui vẻ, gắn kết được tình làng nghĩa xóm.
8. Bản di chúc để lại cho ba người con gái
a. Nội dung sự việc
Ông bà K sinh được 3 người con gái và họ đã xây dựng gia đình. Sau khi ơng,
bà mất có để lại di chúc cho 3 người con gái, di sản thừa kế là một mảnh đất và được
chia đều cho ba chị em. Biết được tin này, ông T trưởng họ khơng đồng ý và nói rằng
con gái gả chồng rồi, thì theo nhà chồng, khơng được hưởng thừa kế đất của cha mẹ
đẻ, đất đó để ơng làm nơi thờ cúng tổ tiên. Ba chị em cương quyết với ông T rằng dù
là con trai hay con gái cũng đều được hưởng thừa kế như nhau về di sản của cha mẹ


16
để lại. Sau đó hai người con gái thứ 2 và út thoả thuận giao phần đất của mình cho
người chị cả quản lý và để chị thờ cúng tổ tiên. Ở được một thời gian, người chị cả có
ý định bán tồn bộ đất đó cho một người bạn. Hai người em biết tin, không đồng ý và
tuyên bố địi lại đất. Do vậy, mâu thuẫn trong gia đình đã phát sinh rất căng thẳng.

Hai người em đã đến tổ hoà giải đề nghị giúp đỡ tháo gỡ mâu thuẫn, xích mích trong
gia đình.
b. Q trình hồ giải
Hồ giải viên xuống nắm bắt tình hình và tìm hiểu sự việc, thấy mâu thuẫn đúng
như đã nêu trên.
Hoà giải viên đã chủ động gặp gỡ ơng T và phân tích cho ơng hiểu ơng khơng
nên có tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ như vậy, ông nên giúp đỡ 3 người cháu
gái của mình. Đồng thời phân tích để ông hiểu theo quy định tại Điều 609 Bộ luật dân
sự năm 2015 về quyền thừa kế của cá nhân thì "cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật". Trong trường hợp này việc ơng địi giữ lại
đất để làm nơi thờ cúng là sai pháp luật vì ơng bà K có quyền để lại di sản cho ai là
quyền của ông bà. Mặt khác, giải thích cho ơng hiểu rõ mọi cá nhân khơng phân biệt
nam nữ đều bình đẳng về quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp
luật.
Sau đó hồ giải viên đã đến gặp người chị cả để phân tích cho chị hiểu là chị em
khơng nên vì lợi ích vật chất mà làm ảnh hưởng, rạn nứt đến tình cảm, quan hệ chị
em trong gia đình. Đồng thời giải thích cho chị hiểu việc chị định bán tất cả thửa đất
của bố mẹ đã cho 3 chị em là sai pháp luật. Tại khoản 1 Điều 617 Bộ luật dân sự năm
2015 về nghĩa vụ của người quản lý di sản "người quản lý di sản được chỉ định trong
di chúc hoặc do những người thừa kế thoả thuận cử ra, có các nghĩa vụ sau: lập danh
mục di sản, thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm
hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; bảo quản di sản; không được bán,
trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu
khơng được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản; thơng báo về tình trạng di sản
cho những người thừa kế; bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây
thiệt hại; giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế". Trong trường hợp này, kết
hợp bằng tình cảm để thuyết phục người chị cả nên thống nhất với các em của mình
trước khi bán đất của cha mẹ để lại, nếu các em của chị không đồng ý, chị chỉ được
bán phần đất của cha mẹ đã chia cho chị, phần đất còn lại cha mẹ chị đã chia cho hai

người em, chị phải có nghĩa vụ trả lại cho họ. Từ sự phân tích rõ ràng cũng như sự
tận tình giải thích của hồ giải viên mà mọi người trong gia đình ơng bà K đã hiểu
được phải trái cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật. Từ đó gia đình họ lại đồn kết và sống hịa thuận, vui vẻ như xưa.
CHUYÊN ĐỀ 3:
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ DÂN SỰ
I. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG
1. Nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự


17
Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của các quan hệ dân sự có nhiệm vụ định hướng cho các
chủ thể trong việc xác lập và thực hiện các quan hệ dân sự. Theo Điều 3 BLDS 2015, có 05
nguyên tắc cơ bản như sau:
- Thứ nhất, mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, khơng được lấy bất kỳ lý do nào để
phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. Các chủ
thể hồn tồn bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý khi tham gia quan hệ dân sự, không phụ
thuộc sự khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần tơn giáo, trình độ văn hóa, hoàn cảnh kinh
tế…
- Thứ hai, cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm
điều cấm của luật, khơng trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải
được chủ thể khác tôn trọng. Trong quan hệ dân sự, các chủ thể phải hồn tồn tự nguyện,
khơng có sự áp đặt ý chí. Khi thực hiện thỏa thuận, ý chí và yếu tố cam kết tự nguyện đối với
các chủ thể luôn được tôn trọng, bảo đảm thực hiện trừ khi những thỏa thuận này vi phạm điều
cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
- Thứ ba, cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
của mình một cách thiện chí, trung thực. Lợi ích của các chủ thể chỉ hài hịa khi mỗi bên đều
thể hiện tinh thần tích cực, trách nhiệm và uy tín trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Biểu hiện của sự tích cực, trách nhiệm và uy tín chính là cách xử sự thiện chí, trung thực,

tạo điều kiện cho các bên trong khi xác lập, thực hiện quan hệ dân sự.
- Thứ tư, việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự khơng được xâm phạm
đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Để
cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 10 BLDS 2015 quy định cá nhân, pháp nhân khơng được lạm
dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc
thực hiện mục đích khác trái pháp luật. Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy
định trên thì Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành
vi vi phạm mà có thể khơng bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường nếu
gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định.
- Thứ năm, cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi chủ thể phụ thuộc vào
nội dung đã được thỏa thuận, theo cam kết đơn phương trước đó hoặc theo quy định của pháp
luật. Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ dân sự, vì những lí do khác nhau chủ thể có nghĩa vụ
khơng thể hoàn thành nghĩa vụ đúng cam kết, điều này sẽ dẫn tới một hệ quả pháp lý bất lợi
cho chính chủ thể vi phạm. Theo đó, bên vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ sẽ phải tự gánh chịu
những bất lợi pháp lý dành cho mình, được gọi là trách nhiệm dân sự.
2. Cá nhân
2.1. Năng lực pháp luật dân sự
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa
vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi
người đó chết. Về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
2.2. Năng lực hành vi dân sự


18
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo
các mức độ khác nhau căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân
đó.

Theo đó, người thành niên (người từ đủ mười tám tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Những người này được quyền tự mình thực hiện
các giao dịch dân sự và tự mình gánh chịu các nghĩa vụ dân sự.
Người chưa thành niên (người chưa đủ mười tám tuổi) có các mức độ năng lực hành vi
dân sự khác nhau như sau:
Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người
đó xác lập, thực hiện.
Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao
dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Người mất năng lực hành vi dân sự là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác
mà không nhận thức, làm chủ được hành vi, theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Giao dịch dân sự của
người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên do tình trạng
thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự, theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra
quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ
định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Người hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tịa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân

sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có
sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo u cầu của
chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan,
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố cá nhân mất năng lực hành vi dân sự hoặc có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.


19
2.3. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo quy định của Bộ
luật dân sự, luật khác có liên quan hoặc theo quyết định của Tịa án.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên
bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người
đó; trường hợp khơng có những người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị
tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ trường hợp Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định
khác.
Quyền nhân thân của cá nhân là các quyền như quyền đối với họ, tên; quyền thay đổi họ;
quyền thay đổi tên; quyền xác định, xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền
đối với quốc tịch; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền sống, quyền được bảo đảm an
tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền
hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác; quyền xác định lại giới tính; chuyển đổi
giới tính; quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; quyền nhân thân trong
hơn nhân và gia đình… Ngồi quy định trong BLDS 2015, quyền nhân thân còn được quy định

trong các luật khác.
2.4. Nơi cư trú
Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác
định được nơi cư trú của cá nhân thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống.
Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú
khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người
chưa thành niên thường xuyên chung sống. Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác
với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.
Nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ. Người được giám hộ
có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của người giám hộ nếu được người giám hộ đồng ý
hoặc pháp luật có quy định.
Nơi cư trú của vợ, chồng là nơi vợ, chồng thường xuyên chung sống. Vợ, chồng có thể
có nơi cư trú khác nhau nếu có thỏa thuận.
Nơi cư trú của quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị của quân nhân
đó đóng quân. Nơi cư trú của sĩ quan quân đội, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân, viên chức
quốc phịng là nơi đơn vị của người đó đóng quân, trừ trường hợp họ có nơi cư trú của cá nhân
là nơi người đó thường xuyên sinh sống.
Người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền, phương tiện hành nghề lưu động khác chưa có
nơi cư trú của cá nhân thì nơi cư trú của họ là nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện nơi họ hành
nghề lưu động đó.
2.5. Giám hộ


20
Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử,
được Tòa án chỉ định hoặc được lựa chọn làm người giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều
48 của BLDS 2015 1 (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
Để chế độ giám hộ cho người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi

dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi linh hoạt, khả thi hơn và để thực
hiện, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của người được giám hộ, pháp luật quy định như sau:
- Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền lựa chọn người giám hộ cho mình
khi họ ở tình trạng cần được giám hộ;
- Việc cử, chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì
phải xem xét nguyện vọng của người này;
- Pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám hộ và có điều kiện cần
thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ thì được làm người giám hộ;
- Việc giám hộ đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được thực
hiện theo các nguyên tắc: (i) Việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng
lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm u cầu; (ii) Người giám hộ của người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định theo sự lựa chọn của người được giám hộ
trước khi họ ở tình trạng cần được giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 của BLDS 2015,
trường hợp không có người này thì Tịa án chỉ định trong số những người giám hộ đương nhiên
của người mất năng lực hành vi dân sự, nếu khơng có những người trên thì Tịa án chỉ định một
cá nhân hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ; (iii) Người giám hộ của người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có quyền, nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong
số các quyền, nghĩa vụ của người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự;
- Người thân thích của người được giám hộ có quyền thỏa thuận về việc chọn cá nhân,
pháp nhân khác khơng phải là người thân thích của người được giám hộ làm người giám sát
việc giám hộ;
- Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về hộ tịch (kể cả giám hộ đương nhiên); người giám hộ đương nhiên mà khơng đăng
ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ. Trường hợp có tranh chấp
về giám hộ thì được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tịa án.
Có hai loại giám hộ:
Một là, người giám hộ đương nhiên:
+ Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ hoặc khơng
xác định được cha, mẹ; có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ
đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hà nh vi

dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều khơng có điều
kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ, được xác định theo thứ tự sau đây:
Khoản 2 Điều 48 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho
mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý. Việc lựa
chọn người giám hộ phải được lập thành văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực”
1


21
(i) Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả
khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ,
trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
(ii) Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì ơng nội, bà
nội, ơng ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một
số người trong số họ làm người giám hộ.
(iii) Trường hợp khơng có người giám hộ quy định tại điểm (i), (ii) nêu trên thì bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cơ ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
+ Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như
sau:
(i) Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu
chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
(ii) Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực
hành vi dân sự, cịn người kia khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là
người giám hộ; nếu người con cả khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp
theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.
(iii) Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con
hoặc có mà vợ, chồng, con đều khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người
giám hộ.
Thứ hai, người giám hộ do được cử, chỉ định:
Trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự khơng có người

giám hộ đương nhiên thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách
nhiệm cử người giám hộ.
Trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ đương nhiên của người mất năng
lực hành vi dân sự và người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên hoặc tranh chấp
về việc cử người giám hộ thì Tịa án chỉ định người giám hộ.
Trường hợp cử, chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên
thì phải xem xét nguyện vọng của người này.
Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ
định trong số những người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự. Trường
hợp khơng có người giám hộ theo quy định trên, Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị
một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.
2.5.Tuyên bố mất tích
Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp
thơng báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn khơng có tin tức
xác thực về việc người đó cịn sống hay đã chết thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích
liên quan, Tịa án có thể tun bố người đó mất tích. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị
tuyên bố mất tích xin ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn theo quy định của pháp luật về
hơn nhân và gia đình. Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tun bố
mất tích ly hơn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của


22
người mất tích quản lý; nếu khơng có những người này thì giao cho người thân thích của người
mất tích quản lý; nếu khơng có người thân thích thì Tịa án chỉ định người khác quản lý tài sản.
Khi người bị tun bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó cịn sống thì
theo u cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy
bỏ quyết định tun bố mất tích đối với người đó. Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận
lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh tốn chi phí quản lý. Trường
hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hơn thì dù người bị tun bố mất
tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó cịn sống, quyết định cho ly hơn vẫn có hiệu lực

pháp luật.
2.6. Tun bố chết
Người có quyền, lợi ích liên quan có thể u cầu Tịa án ra quyết định tuyên bố một người
là đã chết trong trường hợp sau đây:
+ Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tun bố mất tích của Tịa án có hiệu lực pháp luật
mà vẫn khơng có tin tức xác thực là cịn sống;
+ Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn khơng
có tin tức xác thực là còn sống;
+ Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ,
thiên tai đó chấm dứt vẫn khơng có tin tức xác thực là cịn sống, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác;
+ Biệt tích 05 năm liền trở lên và khơng có tin tức xác thực là còn sống.
Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan
hệ về hơn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối
với người đã chết. Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết như
đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa
kế.
Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó cịn sống
thì theo u cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã
chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết,
trừ trường hợp sau đây:
+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tịa án cho ly hơn theo quy
định thì quyết định cho ly hơn vẫn có hiệu lực pháp luật;
+ Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết
hơn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản
thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn. Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố
là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải
hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật hơn
nhân và gia đình.
3. Pháp nhân


23
Pháp nhân là một chủ thể được thành lập, hoạt động và chấm dứt theo quy định của pháp
luật. Về nguyên tắc, mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
3.1. Về điều kiện công nhận pháp nhân:
Một tổ chức được cơng nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan;
- Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật dân sự;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình;
- Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Việc thành lập của pháp nhân là hợp pháp khi pháp nhân đó được thành lập dựa trên
những trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định hoặc được pháp luật thừa nhận dựa trên những
tiêu chí đã đặt ra. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ của pháp nhân thể hiện qua nội dung hoạt động của
pháp nhân, sự phối kết hợp của mỗi bộ phận nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung cũng
như quy mô, phạm vi và lĩnh vực hoạt động của pháp nhân đó. Tài sản riêng, độc lập của pháp
nhân nhằm đảm bảo cho việc pháp nhân đó gánh vác nghĩa vụ của chính pháp nhân khi tham
gia vào các giao dịch dân sự. Tính độc lập về tài sản của pháp nhân được thể hiện đó là khối tài
sản mà thuộc sở hữu của pháp nhân, hoàn toàn tách biệt với tài sản của mỗi cá nhân trong pháp
nhân. Pháp nhân hồn tồn tự mình quyết định trong việc tham gia vào các quan hệ pháp luật
tương ứng với loại hình pháp nhân của mình cũng như hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ.
3.2. Phân loại pháp nhân
Do đặc thù pháp nhân có tính chất đa dạng, nên căn cứ vào mục đích thành lập, hoạt động
của pháp nhân, pháp nhân được chia thành 02 loại cơ bản:
- Pháp nhân thương mại: Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm

kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác - có mục tiêu
chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
- Pháp nhân phi thương mại: Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân khơng có mục tiêu
chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng khơng được phân chia cho các thành
viên.
Pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi
thương mại khác - khơng có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận, nếu có lợi nhuận thì cũng
khơng được phân chia cho các thành viên.
3.3. Dấu hiệu cơ bản của pháp nhân
Pháp nhân là một tổ chức được thành lập bởi sự liên kết của cá nhân vì thế pháp nhân chỉ
có thể thực hiện các hành vi của mình trong quan hệ dân sự mà pháp nhân tham gia thông qua
người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân. Đại diện theo
pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành
lập pháp nhân. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân


24
sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân
sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập,
đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng
lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác.
Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa
vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.
4. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương,
ở địa phương

Để cụ thể hóa ngun tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự, pháp luật quy định Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương khi tham
gia quan hệ dân sự thì bình đẳng với các chủ thể khác và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định
của Bộ luật dân sự.
5. Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân trong quan
hệ dân sự
Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân tham gia
quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách
pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại
diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thơng báo cho
bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp
nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì
thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được
thực hiện theo quy định của Luật đất đai.
6. Tài sản
Tài sản vừa là đối tượng vừa là khách thể của quyền sở hữu.Vì xét về bản chất, tài sản là
những gì mà các chủ thể trong quan hệ sở hữu hướng tới khi tham gia vào quan hệ đó.Chủ sở
hữu quyền hướng tới, đồng thời tác động vào tài sản để nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Người mang nghĩa vụ cũng hướng tới tài sản khi thực hiện việc tôn trọng quyền năng sở hữu
của chủ sở hữu khi tham gia quan hệ sở hữu – việc tham gia quan hệ sở hữu này dường như
mang tính bắt buộc vì yếu tố trật tự an tồn xã hội, tơn trọng quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 105 BLDS 2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản.
Sự ghi nhận tài sản là vật xuất phát từ những văn bản luật đầu tiên thời kỳ La Mã khi họ
cho rằng tài sản chỉ có thể là vật – những thứ tồn tại hữu hình con người có thể cảm giác bằng
các giác quan của mình. Cho đến thời điểm hiện nay, vật khi xem xét là một loại tài sản nó vẫn
được hiểu là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại hữu hình, mang lại cho con người những

giá trị lợi ích nhất định. Khi tài sản tồn tại dưới dạng vật nó phải mang lại giá trị lợi ích cho con


×