Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Mô hình quản lý thị trường điện lực và khả năng áp dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.69 KB, 6 trang )

CÁC MÔ HÌNH QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN LỰC
VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
AN OVERVIEW OF THE ELECTRICITY MARKET MODELS
AND THEIR APPLICATION IN VIETNAM


NGUYỄN THÀNH SƠN
Công ty Điện lực 3


TÓM TẮT
Bài viết giới thiệu một số mô hình quản lý thị trường điện lực của các nước trên thế giới, đánh
giá tình hình hoạt động kinh doanh điện năng của ngành Điện Việt Nam, từ đó đưa ra mô
hình quản lý thị trường điện lực có thể áp dụng tại Việt Nam. Bài viết cũng đưa ra một số ý
kiến tham khảo nhằm hoàn thiện công tác quản lý thị trường điện lực Việt Nam.
ABSTRACT
This paper introduces the electricity models of some nations in the world, assesses the
operations of the Electricity of Vietnam and proposes a market model for the national
electricity market. It also provides some ideas for reference to support the electricity
management of Vietnam.


1. Đặt vấn đề
Điện năng là một loại hàng hoá đặc biệt. Quá trình kinh doanh điện năng bao gồm 3
khâu liên hoàn: Sản xuất - Truyền tải - Phân phối điện năng xảy ra đồng thời (ngay tức khắc),
từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ không qua một khâu thương mại trung gian nào. Điện năng
được sản xuất ra khi đủ khả năng tiêu thụ vì đặc điểm của hệ thống điện là ở bất kỳ thời điểm
nào cũng có sự cân bằng giữa công suất phát ra và công suất tiêu thụ (không để tồn đọng).
Thị trường điện lực (TTĐL) được hình thành đầu tiên ở Anh vào thập niên 90 của thế
kỷ trước do việc không đảm bảo chất lượng điện năng của ngành điện các nước trên toàn thế
giới. Điều kiện hình thành TTĐL không những chỉ phụ thuộc vào chính sách về kinh tế, xã


hội của Nhà nước mà còn được quyết định bởi điều kiện kỹ thuật, công nghệ của hệ thống
điện. Có nhiều điểm khác nhau về TTĐL tuy nhiên về cơ bản TTĐL là việc hộ tiêu thụ cuối
tiêu thụ điện năng từ các nhà máy sản xuất điện thông qua hệ thống truyền tải điện (được xem
như độc quyền tự nhiên) hình thành nên thị trường điện bán buôn giữa các nhà máy điện và
thị trường điện bán lẻ cho các hộ tiêu thụ điện năng.
Ngành điện hiện đang nằm trong xu thế đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia
hoạt động điện lực cùng với nhu cầu về liên kết và hội nhập khu vực. Phương thức quản lý
độc quyền nhà nước của hoạt động sản xuất kinh doanh điện hiện nay còn nhiều bất cập. Việc
nghiên cứu đưa ra mô hình quản lý thị trường điện lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong
đầu tư, phát triển, quản lý và vận hành hệ thống điện, đồng thời xem xét vấn đề giá điện và
chất lượng dịch vụ điện cũng như huy động các nguồn tài chính mới cho nhu cầu phát triển
điện lực là rất cần thiết và phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường.

2. Các mô hình tổ chức kinh doanh điện năng
Cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quản lý, kết hợp với sự phát triển
của một số học thuyết kinh tế mới đã tạo điều kiện để nhiều công ty điện lực nghiên cứu xây
dựng, phát triển các mô hình kinh doanh mới thay thế cho mô hình truyền thống trước đây,
Phát điện
Bán buôn/Truyền tải
Công ty phân phối
Khách hàng
Phát điện
Bán buôn/Truyền tải
Công ty phân phối
Khách hàng
Mua bán giữa các công ty
IPP
Đại lý mua buôn
IPP IPP
Công ty phân phối Công ty phân phối Công ty phân phối

Khách hàng Khách hàng Khách hàng
như mô hình truyền tải hộ, mô hình thị trường phát điện cạnh tranh, mô hình TTĐ cạnh tranh
bán buôn và bán lẻ,... Tuy nhiên, nhìn từ góc độ cạnh tranh của thị trường có thể phân chia
thành bốn loại mô hình thị trường điện cơ bản đang được áp dụng tại các nước trên thế giới
hiện nay như sau:
- Mô hình Thị trường điện độc quyền: Là mô hình chỉ có một công ty nắm giữ toàn bộ
các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh điện năng từ sản xuất, truyền tải đến phân phối
cho khách hàng tiêu thụ.

(a)Ngành dọc (b) Phân phối bán lẻ riêng













Hình 1. Mô hình hị trường điện độc quyền


- Mô hình Thị trường điện cạnh tranh phát điện nhưng chỉ có một đại lý mua buôn: Là
mô hình chỉ có một người mua duy nhất từ nhiều nhà máy phát điện. Toàn bộ điện năng sản
xuất ra phải bán cho đại lý mua buôn và đại lý này thực hiên chức năng phân phối độc quyền
cho khách hàng tiêu thụ.














Hình 2. Mô hình Thị trường điện cạnh tranh phát điện có một đại lý mua buôn


- Mô hình Thị trường cạnh tranh phát điện và cạnh tranh bán buôn: Là mô hình mà các
công ty phân phối có thể mua điện từ nhiều công ty bán buôn khác nhau tuy nhiên vẫn độc
quyền trong khâu phân phối cho các khách hàng dùng điện.
IPP
Đại lý mua buôn
IPP IPP IPP IPP IPP
Đại lý mua buôn
CT PP CT PP CT PP CT PP CT PP CT PP
KH KH KH KH KH KH
IPP IPP IPP IPP IPP IPP
Bán lẻ
CT PP
CT PP CT PP CT PP Bán lẻ
KH KH KH KH KH KH

Lưới truyền tải,
thị trường bán buôn
Lưới phân phối,
thị trường bán lẻ













Hình 3. Mô hình Thị trường cạnh tranh phát điện và cạnh tranh bán buôn
IPP: Nhà máy điện độc lập CT PP: Công ty phân phối KH: Khách hàng

- Mô hình Thị trường điện cạnh tranh hoàn toàn: Là mô hình mà ở đó tất cả các khách
hàng đều có quyền lựa chọn nhà cung cấp điện chứ không bắt buộc phải mua qua các nhà
phân phối độc quyền. Giá cả ở đây hoàn toàn được xác định dựa trên mối quan hệ cung cầu
điện năng.
















Hình 4. Mô hình Thị trường cạnh tranh hoàn toàn

Trên cơ sở nghiên cứu những mô hình thị trường điện lực được các nước trên thế giới
áp dụng, thực hiện đánh giá những điều kiện cơ bản của thị trường điện lực Việt Nam hiện tại
từ đó thực hiệnchủ trương của Đảng và Nhà nước trong thời gian đến theo là: “Từng bước
hình thành thị trường điện cạnh tranh trong nước, đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh
doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia, không biến độc quyền nhà nước
thành độc quyền doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ độc quyền khâu truyền tải điện, xây dựng và
vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn, các nhà máy điện nguyên tử”.

3. Thực trạng thị trường điện lực Việt Nam
3.1. Sản xuất và phân phối điện năng
Về nguồn điện: Hiện tại, tổng công suất lắp đặt của các nhà máy điện bao gồm thủy
điện, nhiệt điện, tuabin khí, diesel là 8.749 MW với công suất khả dụng 8.454 MW tập trung
chủ yếu vào các nhà máy thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN), các nhà máy điện
độc lập chỉ chiếm khoảng từ 3-5% tổng công suất.
Về lưới điện: EVN đã tập trung nhiều vào việc cải tạo nâng cấp hệ thống lưới điện
truyền tải, lưới điện phân phối bằng rất nhiều nguồn vốn khác nhau, đặc biệt là các nguồn vốn
vay từ các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB), SIDA (Thuỵ Điển),… Hiện tại lưới điện truyền tải cao áp toàn quốc bao gồm (1531
km đường dây, 2700 Trạm biến áp (TBA) 500KV; 3839 km đường dây, 8474 TBA 220KV;

7703 km đường dây, 11004 TBA 110KV) do 4 Công ty Truyền tải điện quản lý vận hành.
Tuy nhiên, mặt kỹ thuật thì tính liên kết của hệ thống lưới điện truyền tải chưa cao, khi một
phần tử bị sự cố sẽ ảnh hưởng chung tới toàn bộ hệ thống lưới điện. Đối với lưới điện phân
phối, do 7 công ty điện lực trực thuộc EVN quản lý trực tiếp bán điện đến các hộ phụ tải.
3.2. Phương thức tổ chức kinh doanh điện năng
Mô hình quản lý sản xuất kinh doanh của EVN vẫn đang thực hiện theo mô hình Nhà
nước độc quyền quản lý tất cả các khâu của quá trình: Sản xuất - Truyền tải - Phân phối điện
năng. Mô hình này đã dẫn đến nhiều hạn chế về quản lý cũng như hiệu quả đầu tư, không thúc
đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh điện năng.
Giá bán điện cho từng loại khách hàng được tính trên cơ sở chi phí cận biên dài hạn và
do Chính phủ quy định áp dụng thống nhất trong cả nước. Giá bán điện vẫn còn mang nặng
tính “bù chéo” giữa các nhóm khách hàng.
Hoạt động kinh doanh điện năng hiện nay vẫn chưa tách bạch rõ ràng chức năng kinh
doanh và hoạt động công ích của các công ty phân phối điện.

4. Phương hướng xây dựng mô hình thị trường điện lực tại Việt Nam
4.1. Định hướng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh điện năng
Về nguồn điện, tập trung xây dựng các nhà máy thuỷ điện tại hầu hết những nơi có
khả năng xây dựng. Bên cạnh đó, sẽ phát triển các nhà máy nhiệt điện với tỷ lệ thích hợp
(năm 2010 nhiệt điện than phấn đấu đạt 4.400 MW, nhiệt điện khí là 7.000 MW). Chiến lược
cũng khẳng định đầu tư, khảo sát nghiên cứu các điều kiện cần thiết để có thể xây dựng nhà
máy điện nguyên tử đầu tiên ở Việt Nam với công suất khoảng 2.000 MW dự kiến đưa vào
vận hành sau năm 2015. Trong giai đoạn 2010, bên cạnh việc nhập khâu điện từ Lào với công
suất khoảng 2.000 MW theo hiệp định đã ký kết, nước ta còn xem xét việc nhập khẩu điện từ
Campuchia, Trung Quốc.
Về lưới điện, sẽ phát triển nhanh hệ thống truyền tải 220, 500 kV nhằm nâng cao độ
tin cậy và giảm tổn thất điện năng trên lưới truyền tải; phát triển lưới điện 110kV thành lưới
điện cung cấp trực tiếp cho phụ tải.
Về cơ cấu bộ máy tổ chức của EVN, thực hiện đề án của Chính phủ về việc thí điểm
thành lập tập đoàn điện lực, EVN tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các đơn vị trực

thuộc trong đó có các nhà máy điện, công ty phân phối điện năng phục vụ cho việc phát triển
thị trường điện. Phát triển mở rộng đa ngành nghề tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: sản
xuất, truyền tải điện, viễn thông điện lực, và thị trường tài chính điện lực.
Từ cuối năm 2004, EVN đưa vào vận hành thị trường giá điện nội bộ giữa các nhà
máy điện thực hiện chào giá nội bộ cho EVN. Tuy nhiên, đây chỉ là những bước thử nghiệm
để chuẩn bị cho thị trường cạnh tranh nội bộ trong năm 2005.
4.2. Mô hình thị trường điện lực Việt Nam
Qua tham khảo một số mô hình quản lý kinh doanh điện năng của các nước trên thế
giới gắn liền với việc xem xét thực trạng mô hình quản lý độc quyền nhà nước cũng như hoạt
động sản xuất kinh doanh ngành Điện Việt Nam. Với những định hướng phát triển của ngành
Điện trong thời gian tới cần thiết phải xây dựng một mô hình quản lý phù hợp nhằm đáp ứng
được yêu cầu phát triển thị trường điện lực và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Có thể
EVN
Các nhà máy điện độc lập
CT PP
Khách hàng lớn Khách hàng
Khách hàng
Cơ quan
kiểm soát
CT PP CT PP
xem xét biến động của từng đối tượng tham gia vào thị trường điện trong giai đoạn 2005-2010
để xây dựng mô hình hợp lý, cụ thể như sau:
- Đối với EVN: do đặc thù của ngành điện Việt Nam trong điều kiện hiện nay là mức
cung khó có thể đáp ứng được cầu điện năng trong giai đoạn này. EVN cần chủ động điều tiết
các nguồn phát đảm bảo cân bằng hệ thống, do vậy có thể trở thành người mua duy nhất của
các nhà máy điện.
- Đối với các nhà máy điện: từng bước thực hiện cổ phần hoá các nhà máy điện,
chuyển các nhà máy điện thuộc EVN thành các nhà máy điện độc lập. Các nhà máy điện chỉ
bán điện trực tiếp cho EVN thông qua chào giá cạnh tranh. Tuy nhiên trong điều kiện phát
triển hơn của hệ thống lưới điện, các khách hàng lớn cũng có thể mua trực tiếp từ các nhà máy

điện.
- Đối với các công ty truyền tải: với bản chất là độc quyền tự nhiên, do vậy Nhà nước
vẫn nắm giữ thực hiện các hoạt động truyền tải điện từ người mua duy nhất (EVN) đến các
công ty điện lực.
- Đối với các công ty phân phối điện năng: thực hiện chuyển đổi trở thành đơn vị độc
lập với EVN dưới hình thức Công ty mẹ - Công ty con. Do việc chuyển đổi thị trường điện
thực tế không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các công ty phân phối điện do vậy vẫn giữ
nguyên chức năng kinh doanh là độc quyền phân phối điện năng cho khách hàng.
- Do cần đảm bảo tính phù hợp của một số hoạt động độc quyền trong mô hình như:
EVN độc quyền mua điện từ các nhà máy điện độc lập, độc quyền bán điện cho các công ty
phân phối điện năng, các công ty phân phối độc quyền bán điện cho khách hàng cuối cùng do
vậy cần thiết phải có một cơ quan đứng ra kiểm soát hoạt động này với tư cách hoàn toàn độc
lập.
- Đối với khách hàng: Tiếp tục chịu mua điện từ một công ty phân phối điện duy nhất
trong phạm vi địa lý do bởi các cơ sở hạ tầng của ngành điện trong giai đoạn này có thể chưa
đáp ứng được yêu cầu của khách hàng mua điện trực tiếp từ nhà sản xuất theo mô hình của thị
trường điện cạnh tranh hoàn toàn. Tuy nhiên đối với các khách hàng có phụ tải lớn có thể mua
điện trực tiếp từ các nhà máy điện hoặc thông qua lưới truyền tải của EVN.
Từ những quan điểm trên, có thể xây dựng một mô hình quản lý thị trường điện lực
Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010 như sau:



















Hình 5. Mô hình quản lý thị trường điện lực Việt Nam

×