Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.19 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Tòa án là cơ quan duy nhất đại diện cho nhà nước Việt Nam thực hiện chức
năng xét xử. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là các chủ thể đại diện cho tòa án, ngồi
trước mục xét xử và cùng nhau đưa ra phán quyết. Thẩm phán và Hội thẩm sẽ cùng
nhau đưa ra quyết định và Thẩm phán sẽ đại trực tiếp kết luận về kết quả bản án. Tuy
nhiên, Thẩm phán và Hội thẩm phải có những chính kiến độc lập, khơng được phụ
thuộc vào ý kiến của nhau hay bị tác động bởi bất cứ thành phần nào bên ngồi. Bởi
nếu có bất kì sự tác động, sự đè nén ý chí từ bên ngồi vào Thẩm phán hay Hội thẩm
sẽ làm chệch hướng một nền tư pháp, nhân dân khơng chấp nhận, bằng lịng kết quả
bản án dần mất niềm tin vào cơ quan này. Vì thế, em đã chọn đề bài: “Nguyên tắc
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng
hình sự” và điều kiện bảo đảm thực hiện để phân tích và đánh giá
Trong vấn đề trên, còn nhiều vấn đề chưa được đầy đủ hay thiếu sót do thời
gian nghiên cứu hạn hẹp, em mong thầy cơ và các bạn sẽ góp ý để em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn.
NỘI DUNG
I. Lý luận chung về nguyên tắc “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”
1.1 Khái niệm
Nguyên tắc là những định hướng, điều tiết nhằm chi phối một giai đoạn, quá
trình đi theo đúng bản chất đã được vạch ra, định sẵn.
Xét xử được hiểu là xem xét và giải quyết vụ án. Hoạt động xét xử của Thẩm
phán và Hội thẩm chủ yếu diễn ra tại phiên tòa, song trước khi mở phiên tòa, Thẩm
phán và Hội thẩm cũng có các hoạt động tác nghiệm bổ trợ cho hoạt động xét xử tại
phiên tòa như nghiên cứu hồ sơ và các cơng việc cần thiết khác. Vì vậy, có thể hiểu
xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm là các hoạt động kể từ thời điểm họ được giao
nhiệm vụ xét xử đến khi kết thúc phiên tòa bao gồm hoạt động xem xét đánh giá chứng
1


cứ tại phiên tòa và các hoạt động bổ trợ khác để đưa ra quyết định, bản án giải quyết


vụ án.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là phải tự mình đưa ra kết luận giải
quyết vụ án trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố
nào khác. Đó là những từ tưởng chủ đạo, định hướng trở thành xử sự bắt buộc chung
đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử vụ án.
Như vậy, nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” trong Tố tụng hình sự có thể được hiểu là “những tư tưởng chủ đạo có tính
chất bắt buộc thể hiện quan điểm của nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền
đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách
khách quan, chính xác.”
1.2 Nội dung của nguyên tắc
Nội dung của nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 23 Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
được biểu hiện cụ thể như sau:
1.2.1 Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
Độc lập nghĩa là tự đưa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và quy định của
pháp luật để kết luận về vụ án mà không phụ thuộc, không chịu ảnh hưởng của bất cứ
sự tác động nào khác. Sự độc lập được biểu hiện trên hai khía cạnh:
* Độc lập với các yếu tố chủ quan: độc lập giữa các thành viên của hội đồng
xét xử.
Cơ sở pháp lý của việc độc lập xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm được ghi
nhận thành những nguyên tắc của luật tố tụng, đó là: “Thực hiện chế độ xét xử có Hội
thẩm tham gia”. Thẩm phán và Hội thẩm là thành viên của hội đồng xét xử, họ phải
độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và đưa ra
các kết luận về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm, khơng lệ thuộc vào quan
điểm, chính kiến của nhau.
2



Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Hội thẩm với Thẩm phán
ngang quyền nhau trong xét xử, có nghĩa là mỗi một thành viên của hội đồng xét xử
có quyền ngang nhau trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận vụ án. Việc đánh
giá chứng cứ, kết luận được thực hiện một cách độc lập, Thẩm phán không được phép
chỉ đạo cho Hội thẩm trong việc định tội danh, quyết định hình phạt. Hội thẩm cũng
khơng được có thái độ ỷ lại Thẩm phán mà phải tích cực, chủ động và có trách nhiệm
trong hoạt động chứng minh tội phạm.
Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán tạo mọi điều kiện để Hội thẩm nghiên cứu
hồ sơ nhanh và vẫn đầy đủ. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán phải cung cấp và
hướng dẫn Hội thẩm xem những văn bản tài liệu liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Trong khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán không được đưa ra những ý kiến, nhận định
chủ quan của riêng mình để có thể ảnh hưởng đến sự đánh giá chứng cứ của Hội thẩm.
Tại phiên tòa, Thẩm phán điều khiển phiên tòa trong việc xét hỏi, tranh luận, nghị án
để đảm bảo hoạt động xét xử đi đúng trọng tâm, xác định những việc cần làm để chứng
minh tội phạm, và không được hạn chế việc xét hỏi của Hội thẩm nếu những câu hỏi
đó nhằm làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án.
Để đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, Điều 326 của BLTTHS
2015 quy định về Nghị án cụ thể là chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị
án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án
bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán
biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình
bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án… Những quy định trên đã loại trừ việc
thẩm phán lạm quyền, tác động đến hoạt động xét xử của Hội thẩm nhằm đảm bảo sự
độc lập của Hội thẩm và Thẩm phán trong khi xét xử.
* Độc lập với các yếu tố khách quan:
- Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm được thể hiện trong quan hệ giữa các
chủ thể khác của Tòa án và giữa các cấp xét xử. Hiện nay, Tòa án cấp trên quản lý Tòa
án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, phải
tách bạch từng mối quan hệ. Trong hoạt động nghiệp vụ, mối quan hệ giữa Tòa án cấp

3


trên và Tòa án cấp dưới là mối quan hệ tố tụng, chứ không phải là mối quan hệ quản
lý hành chính. Tịa án cấp trên hướng dẫn Tịa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp
luật, đường lối xét xử, nhưng không được quyết định trước hoặc gợi ý cho Tòa án cấp
dưới trước chủ trương xét xử một vụ án cụ thể buộc Tòa án cấp dưới phải nghe theo.
Đồng thời, khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, Thẩm phán cũng không bị lệ thuộc
bởi các nhận định, những phán quyết của Toà án cấp dưới.
- Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng. Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp, trong
đó có Tịa án thơng qua cấp ủy. Đó là quan hệ chính trị giữa tổ chức Đảng với cơ quan
trong bộ máy nhà nước. Đảng không chỉ đạo, xét xử từng vụ án cụ thể. Đối với hoạt
động xét xử của Tòa án, Đảng có chủ trương là xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Sự chỉ đạo để hoạt động xét xử đảm bảo tính nghiêm minh là cần thiết,
khơng ảnh hưởng đến sự độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
Vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập khi xét xử.
- Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan
điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Quá trình nghiên
cứu hồ sơ và tại phiên tòa, hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ
và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, tồn diện, kể cả
chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn
cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
- Độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng, với dư luận xã hội và
cơ quan báo chí.
1.2.2 Thẩm phán, Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật
Nội dung không kém phần quan trọng của nguyên tắc, đó là việc xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập khơng có nghĩa là xét xử tùy tiện mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Khi

xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi
bất kỳ ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác
4


động vào các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ
quan của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm ảnh hưởng
tới tính khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp.
Nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm khơng một bước xa rời pháp
luật, khơng có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ
một hành vi vi phạm pháp luật nào. Đó là địi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm
phán và Hội thẩm. Như vậy có thể nói hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm luôn
phải trên cơ sở pháp luật. Việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ dựa trên những
quy định của pháp luật và pháp luật là căn cứ duy nhất để quyết định các vấn đề giải
quyết vụ án. Hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm và luật pháp có mối liên hệ ln
ln thống nhất với nhau và không thể tách rời nhau.
Nội dung Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật biểu hiện trên những
khía cạnh sau:
- Sự tn theo pháp luật hình sự: Bộ luật hình sự có hai phần, phần chung và
phần các tội phạm. Phần chung quy định về phạm vi áp dụng, các trường hợp phạm
tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, tổng hợp hình phạt, tuổi chịu trách nhiệm hình
sự…Phần các tội phạm quy định cụ thể các hành vi như thế nào bị coi là tội phạm và
các khung hình phạt, mức hình phạt tương ứng với các trường hợp phạm tội. Muốn áp
dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự buộc Thẩm phán và Hội thẩm phải có
kiến thức về định tội danh, quyết định hình phạt…
- Sự tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: Có thể chia hoạt động xét xử của Thấm
phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên tòa.
+ Giai đoạn trước khi mở phiên tòa là giai đoạn Hội thẩm xâm nhập hồ sơ để
xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch xét hỏi và những

tình huống xảy ra tại phiên tịa để có kế hoạch ứng phó thích hợp và những cơng việc
khác cần thiết cho phiên tòa.

5


+ Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần năm chắc những quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự từ thủ tục bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc phiên tịa, trong đó quan
trọng nhất là phần xét hỏi; tranh luận và nghị án.
Trong phần xét hỏi, về phạm vi và trình tự hỏi đã được quy định tại Điều 307
BLTTHS 2015
Trong phần tranh luận, Hội đồng xét xử phải xác định mục đích của tranh luận,
chủ thể thực hiện việc tranh luận. Mục đích của tranh luận nhằm đảm bảo cho đại diện
Viện kiểm sát và những người tham gia phiên tịa được phân tích, đánh giá chứng cứ
của vụ án góp phần đề ra những biện pháp xử lý phù hợp với pháp luật. Điều 320
BLTTHS 2015 quy định về: “Trình tự phát biểu khi tranh luận
1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy khơng
có căn cứ để kết tội thì rút tồn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tịa án tun bố bị
cáo khơng có tội.
……………………………….
4. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người
đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội.”
Khi nghị án, Hội đồng xét xử cần nghiêm túc tuân thủ những quy định về thủ
tục nghị án, nội dung nghị án và việc biểu quyết được quy định cụ thể tại Điều 326
BLTTHS 2015
+ Pháp luật dân sự: Hội đồng xét xử phải giải quyết cả phần dân sự trong vụ án
hình sự, chủ yếu là giải quyết việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nắm rõ quy
định của Bộ luật Dân sự về căn cứ bồi thường, mức bồi thường, nguyên tắc bồi thường.
Các quyết định này phải dựa vào Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn khơng được
phép quyết định cảm tính, chủ quan, dựa vào tình cảm cá nhân để ấn mức bồi thường

+ Pháp luật chuyên ngành khác: hoạt động định tội danh là một hoạt động khá
phức tạp đòi hỏi những người làm cơng tác xét xử phải có kiến thức tổng hợp pháp
luật chứ không đơn thuần là chỉ biết các quy định của luật hình sự. Một số tội danh
khơng mô tả được cụ thể, trực tiếp tại Điều luật của Bộ luật hình sự mà hành vi cụ thể
được quy định ở các luật, văn bản pháp luật chuyên ngành. Muốn định tội danh thì
6


Thẩm phán và Hội thẩm đều phải nắm rõ các quy định của văn bản pháp luật chuyên
ngành. Nếu không am hiểu phải trưng cầu ý kiến của chuyên gia trong các lĩnh vực cụ
thể.
1.2.3 Mối quan hệ giữa “Độc lập” và “Chỉ tuân theo pháp luật”
Độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và bổ
sung cho nhau. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc:
- Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo
pháp luật. Độc lập trong xét xử được quy định thành nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng
hình sự, được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Tịa án mà nó cịn được thể
hiện trong những điều luật quan trọng của Bộ luật Tố tụng hình sự như các điều luật
về nghị án, về giới hạn xét xử, về giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng
xét xử mới có tính khách quan, vơ tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo
đúng pháp luật.
- Tuân theo pháp luật là điều kiện không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập khi xét xử. Để tự mình có thể đưa ra phán quyết Thẩm phán và Hội thẩm phải
có kiến thức pháp luật và chấp hành quy định của pháp luật. Khi nắm chắc kiến thức
pháp luật Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiến để thể hiện sự độc lập trong việc xét
xử của mình. Khi tuân theo pháp luật đã loại trừ các tác động khác đến HĐXX của
Thẩm phán và Hội thẩm, bởi vậy mà Thẩm phán và Hội thẩm mới có được sự độc lập
trong xét xử.
1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự”
Nguyên tắc “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
cùng với các nguyên tắc cơ bản khác của luật tố tụng hình sự góp phần vào việc đảm
bảo cho q trình tiến hành tố tụng được thực hiện một cách hiệu quả nhất. Nguyên
tắc này là căn cứ giúp cho tòa án làm tốt các chức năng xét xử của mình theo quy định
7


của pháp luật, đồng thời đề cao trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm. Nó khẳng
định “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” là hai yếu tố quan trọng, có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để thẩm phán và hội thẩm khi xét xử
chỉ tuân theo pháp luật. Ngược lại, tuân theo pháp luật lại là cơ sở không thể thiếu để
đảm bảo tính độc lập tại phiên tịa. Mối quan hệ này là ràng buộc, nếu chỉ độc lập mà
không tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự thì dễ dẫn đến
tình trạng xét xử tùy tiện, độc đốn.
Ngun tắc này khơng chỉ xác định độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là yếu tố
cơ bản điều chỉnh hoạt động của hội đồng xét xử mà còn thể hiện rõ nghĩa vụ của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tuyệt đối tôn trọng hoạt động này. Mọi hành vi
can thiệp, gây ảnh hưởng tới việc xét xử công khai, đúng đắn, hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân dưới bất kì hình thức nào, tùy tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử
lí kỉ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của luật. Đây là nội dung mới được đưa vào nguyên tắc, thể hiện rõ quan điểm
của nhà nước ta trong việc nâng cao tính độc lập của tịa án. Nó góp phần khơng nhỏ
để nâng cao hiệu quả xét xử, hạn chế đến mức tối đa các trường hợp án oan sai, “án
bỏ túi”, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan. Bởi chỉ khi
chủ thể có quyền đưa ra phán quyết cuối cùng trong vụ án thật sự độc lập, công minh,
làm việc đúng với nội dung, trình tự thủ tục do pháp luật quy định thì mới đảm bảo
bản án ấy là đúng người đúng tội.
II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật

Vấn đề lý luận về nguyên tắc này rất rõ ràng và chặt chẽ, tuy nhiên, thực tiễn
áp dụng thực sự vẫn khơng đem lại nhiều hiệu quả.
Thứ nhất, Hội thẩm có vị trí, vai trị quan trọng đảm bảo tính dân chủ, khách
quan của hoạt động xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tịa án diễn ra cơng bằng,
chính xác, khách quan. Cùng với Thẩm phán, Hội thẩm là những thành viên không thể
8


thiếu được trong hoạt động xét xử của mỗi vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế các quy định
của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm, cơ chế bầu, cử Hội thẩm và thực trạng
hoạt động của Hội thẩm còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập khiến việc Hội thẩm
tham gia hoạt động xét xử của Tịa án cịn mang tính hình thức, vẫn chưa phát huy
được hết vị trí, vai trị quan trọng mà Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự đã quy
định. Qua công tác xét xử cho thấy, Hội thẩm chưa phát huy được hết quyền năng của
mình, có những Hội thẩm chỉ đến nghiên cứu kết luận điều tra, bản cáo trạng hoặc có
trường hợp khơng nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại Tòa án.
Thứ hai, vẫn cịn sự tác động từ bên ngồi đối với Thẩm phán, Hội thẩm khi
tiến hành giải quyết các vụ việc như sự tác động của Chánh án, các lãnh đạo Tòa án,
các cấp đảng ủy hay từ các cá nhân, tổ chức khác, của cơ quan báo chí, dư luận xã
hội…sự tác động có thể ở các cấp độ khác nhau nhưng đều có ảnh hưởng nhất định
tới sự độc lập trong xét xử, tính đúng đắn của các phán quyết của Thẩm phán, Hội
thẩm dẫn đến việc xét xử khơng khách quan, chính xác.
Thực tiễn cho thấy vẫn cịn tình trạng các cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp
một cách trái pháp luật vào hoạt động xét xử của thẩm phán, cịn khơng ít các trường
hợp thẩm phán tự đánh mất tính độc lập, đạo đức nghề nghiệp của mình trong khi thực
hiện cơng tác xét xử, họ thỏa hiệp lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để mưu lợi
cho bản thân hoặc cho người khác. Từ đó, dẫn đến hiện tượng “chạy án”, “cò mồi”
xảy ra khi khi xét xử các vụ án dân sự khiến cho cán cân cơng lí bị thiên lệch. Bên
cạnh đó là tình trạng tham nhũng trong ngành tịa án cũng diễn ra khá phức tạp.
Ví dụ, về vụ án có hiện tượng chạy án là “Nguyên Phó Chánh án TAND huyện

Đan Phượng bị bắt tạm giam vì nhận 300 triệu đồng để chạy án”. Cựu nữ thẩm phán
ở Hà Nội bị tố nhận 300 triệu đồng của người nhà bị cáo để xử nhẹ tội. Sau phiên tòa,
thấy bị cáo vẫn phải ngồi tù, người đưa tiền làm đơn tố giác. Ngày 26/7, Cơ quan điều
tra VKSND Tối cao cho biết lực lượng chức năng đã thực hiện lệnh bắt bị can, tạm
giam Lê Thị Bích Anh (53 tuổi, cựu Phó chánh án TAND huyện Đan Phượng, Hà
Nội). Hai tháng trước, VKSND Tối cao phê chuẩn quyết định khởi tố bị can 53 tuổi
để điều tra hành vi Nhận hối lộ, theo Điều 354 Bộ luật Hình sự. Lúc đó, cựu nữ thẩm
9


phán được cho tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo cơ quan điều tra, khi còn đương
chức, bà Anh được phân cơng chủ tọa phiên tịa xét xử bị cáo Nguyễn Văn Kiên (huyện
Đan Phượng) về tội Cố ý gây thương tích. Đầu tháng 8/2017, nữ thẩm phán nhận 300
triệu đồng của người nhà bị cáo Kiên với thỏa thuận tuyên án tù treo. Tuy nhiên, ngày
4/8, khi xét xử, nữ chủ tọa tuyên Nguyễn Văn Kiên 3 năm 6 tháng tù. Sau đó, người
nhà bị cáo đến địi lại tiền "chạy án", bí mật ghi âm q trình thương thảo rồi tố cáo
đến cơ quan điều tra.1
Thứ ba, Thẩm phán và Hội thẩm quá lệ thuộc vào kết quả điều tra ban đầu, tức
là lệ thuộc những thơng tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp, Hội
đồng xét xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án mà khơng coi trọng tới những
ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự coi trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn
nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Do
đó, phán quyết của Hội đồng xét xử cịn mang tính áp đặt, cịn tình trạng xét xử oan
sai, trái pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị Tịa án cấp trên hủy, sửa
nhiều.
Điển hình của việc lệ thuộc vào các chứng cớ có trong hồ sơ vụ án dẫn đến tình
trạng xét xử oan sai như vụ án: Nguyễn Thanh Chấn ngồi tù 10 năm. Tháng 8/2003,
ông Nguyễn Thanh Chấn bị công an huyện Việt Yên, Bắc Giang cho rằng ông là thủ
phạm giết cô hàng xóm Nguyễn Thị Hoan tại thơn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt
Yên. Qua các cấp xét xử, tòa án xác định ông phạm tội giết người, tuyên án tù chung

thân. Suốt quá trình bị bắt, xét xử và khi bị kết án, ông liên tục kêu oan. Vợ ông cũng
rịng rã tới nhiều cơ quan cơng quyền kêu oan cho chồng. Tháng 7/2013, trong đơn
gửi VKSND Tối cao, bà cho hay đã tự xác minh được thủ phạm của vụ án là Lý
Nguyễn Chung. Xem xét đơn, Cục điều tra VKSND Tối cao đã vào cuộc. Tháng
11/2013, ông Chấn được VKSND Tối cao tạm tha về nhà sau 10 năm bị bắt. Hai hôm
sau, TAND Tối cao trong phiên tái thẩm đã hủy hai bản án kết tội ông Chấn giết người.
Vụ án được điều tra lại. Trước đó ít ngày, Lý Nguyễn Chung ra đầu thú, nhận đã giết
chị Hoan để cướp 2 chiếc nhẫn cùng 59.000 đồng. Sau khi điều tra, xác minh, Chung
1

thuonghieucongluan.com.vn/ha-noi-nguyen-pho-chanh-an-tand-huyen-dan-phuong-.

10


bị bắt giữ và khởi tố về tội Giết người, Cướp tài sản. Đầu năm 2014, ơng Chấn chính
thức được cơng nhận vơ tội. Ơng Nguyễn Thanh Chấn hiện đã nhận số tiền bồi thường
hơn 7 tỷ đồng.2
Thứ tư, vẫn còn sự thống nhất chứng cứ và định hướng trước khi xét xử. Đó là
việc họp án ba ngành, họp bàn án trong nội bộ cơ quan, “thỉnh thị”, “duyệt án”.
Hiện nay, rất nhiều Tòa án (đặc biệt là Tòa án cấp huyện), việc báo cáo án và
duyệt án trước khi xét xử là công việc thường xuyên tiến hành đối với mọi vụ án.
Thông thường hàng tháng, sau khi có lịch xét xử thì Tịa án tổ chức các buổi họp
thường gọi là họp đường lối để các Thẩm phán báo cáo và lãnh đạo Tòa án duyệt án.
Với hướng giải quyết vụ án đã được duyệt thì Thẩm phán không thể nào làm khác.
Khi hướng giải quyết đã được bàn bạc, thống nhất trước nên Thẩm phán cứ thế viết
hồn chỉnh bản án trước, dẫn đến tình trạng “án bỏ túi”, phiên tịa sau chỉ mang tính
hình thức, làm ảnh hưởng tới tính độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, tạo tâm
lý ỷ lại cho các Thẩm phán không chịu học hỏi, nghiên cứu nâng cao trình độ.
Thực tiễn cho thấy hoạt động trao đổi, họp bàn án giữa ba ngành để xác định án

trọng điểm thống nhất chứng cứ đã phát huy được điểm tích cực, cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm có hiệu quả hơn. Tuy nhiên kết quả của cuộc án ba ngành cũng
có những tác động tiêu cực đến việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Có những cuộc
họp án ba ngành xác định luôn đường lối xử lý như mức hình phạt cụ thể. Có những
vụ án mà diễn biến tại phiên tòa giống với kế hoạch, dự định của Thẩm phán và về cơ
bản là trùng khớp với các chứng cứ đã được thu thập, hoạt động xét xử sẽ cố gắng
chứng minh theo kết luận ban đầu và dù thế nào thì bị cáo cũng có tội.
Thứ năm, chế độ tiền lương của Thẩm phán và chế độ, chính sách đối với Hội
thẩm chưa hợp lý. Mức lương của Thẩm phán ở nước ta hiện nay là rất khiêm tốn,
không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ. Điều này sẽ làm
cho Thẩm phán không yên tâm công tác, dễ bị những tác động, cám dỗ hoặc tham
nhũng khi tham gia hoạt động tố tụng. Đối với Hội thẩm, ngoài chế độ về trang phục,
Hội thẩm chỉ có chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức giá quá thấp trên một ngày nghiên
2

/>
11


cứu hồ sơ hoặc xét xử. Trong khi đó, pháp luật quy định khi tham gia xét xử, Hội thẩm
ngang quyền với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như phụ cấp công
vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề, thì Hội thẩm lại khơng được hưởng cũng là không hợp
lý.
Thứ sáu, pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ Thẩm phán, Hội
thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết. Thực tế đã có nhiều trường hợp
Thẩm phán, Hội thẩm bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí những người thân của
họ cũng bị đe dọa, trả thù, vì vậy, cần phải có những quy định về bảo vệ đối với tính
mạng, tài sản của Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ ngồi thời gian tham gia xét
xử để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình, đặc biệt là xét xử những vụ án
lớn, vụ án có bị cáo là đối tượng nguy hiểm.

Trên thực tế cũng khơng ít những vụ thẩm phán bị tấn cơng. Ví dụ như đó là
Thẩm phán Võ Duy Minh ở TAND huyện Tuy Phước, Bình Định ngồi chủ tọa một vụ
ly hơn. Sau khi kết thúc phiên tịa, bị đơn và người nhà xông lên đập phá bàn ghế, chửi
bới, lăng mạ các thành viên của Hội đồng xét xử. Thậm chí cịn đuổi đánh thẩm phán
Minh và thư ký phiên tòa.3
Hay một trường hợp khác, đầu tháng 7-2008, TANDTC đã đưa ra xét xử phúc
thẩm bị cáo La Văn Bình 4 lần đặt mìn gây nổ vào nhà ơng Vũ Ngọc Hòa - Thẩm phán
TAND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Bình là bị đơn trong vụ tranh chấp đất đai do
thẩm phán Hòa xét xử. Cho rằng thẩm phán thiên lệch nên Bình rắp tâm trả thù. Sự
trả thù của Bình nung nấu trong nhiều ngày và Bình đã lên kế hoạch cụ thể đến từng
chi tiết để giết thẩm phán. Có lần, Bình làm nổ hai quả mìn ở hai góc nhà ơng Hịa.
Lần khác, Bình chọn đúng điểm ơng Bình kê giường ngủ để ốp mìn.4
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện hiệu quả
nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là
nguyên tắc nền tảng cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Nhà nước pháp quyền
3
4

/> />
12


theo đúng nghĩa nó khơng thể thiếu được một nền tư pháp độc lập, vì tính tối thượng
của pháp luật chỉ có thể thực hiện được khi các vị quan tòa áp dụng pháp luật một cách
độc lập. Để đảm bảo nguyên tắc này cần một số giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa pháp lý của Hội thẩm nhằm
bảo đảm sự tham gia của Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Em cho rằng, việc quy định
nhiệm kì hội thẩm nhân dân lên 7-10 năm là cần thiết. Bởi thực tế, kiến thức pháp luật
của các hội thẩm so với thẩm phán cịn hạn chế, khơng được đầy đủ, tồn diện, họ cần

được có thời gian đào tạo thêm, tích lũy kiến thức, nhất là kinh nghiệm, nghiệp vụ xét
xử để đưa ra những ý kiến chính xác, hợp lý hợp tình nhất. Có cảm tưởng như, hội
thẩm nhân dân ở Việt Nam vẫn cịn mang nặng hình thức, làm việc khơng thật hiệu quả.
Khi nhiệm kỳ làm việc tăng thêm một số năm, hội thẩm nhân dân sẽ có thể tích lũy
thêm kinh nghiệm xét xử, có cái nhìn sâu sắc toàn diện hơn về xã hội, pháp luật, về các
bị cáo bị hại từ những vụ án mà đưa ra quyết định đúng đắn, có trọng lượng hơn.
Hai là, hạn chế tới mức thấp nhất hoặc khơng cịn sự ảnh hưởng, sự can thiệp
của các cơ quan, cán bộ, viên chức nhà nước. Sự can thiệp của các cơ quan quyền lực,
các cán bộ nhà nước đối với Tòa án khi mà họ có quyền ảnh hưởng đến việc bổ nhiệm
Thẩm phán, quyết định ngân sách và cung cấp các cơ sở vật chất duy trì hoạt động của
Tịa án. Vẫn tồn tại tình trạng Tịa án cấp trên quản lý Tịa án cấp dưới cả về tổ chức,
tài chính và chỉ đạo chun mơn nghiệp vụ. Tình trạng can thiệp từ phía lãnh đạo Tịa
án vào hoạt động xét xử, trong một số trường hợp đã can thiệp sâu vào công việc xét
xử của Thẩm phán và Hội thẩm hoặc cũng có trường hợp vì lợi ích cá nhân mà Chánh
án chỉ thị, định hướng cho Hội đồng xét xử. Việc thẩm phán tham khảo ý kiến của
lãnh đạo Tồ án cịn cao. Vấn đề trao đổi ý kiến lãnh đạo về “đường lối giải quyết vụ
án” vẫn chiếm một tỷ lệ lớn.
Ba là, xử lý nghiêm tình trạng “thỉnh thị án”, “báo cáo án” của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử. Để bảo đảm sự công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động
xét xử, cần phải tách bạch được thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tư
pháp giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới và giữa Chánh án với Thẩm phán; phải
13


có các cơ chế làm cho các Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Cần tăng cường tính chịu trách nhiệm giải trình cơng khai, minh bạch của Thẩm phán
và Hội thẩm trong hoạt động xét xử. Sự độc lập của tư pháp cần phải đi cùng với cơ
chế trách nhiệm trong hoạt động tư pháp.
Bốn là, Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm nhiều hơn về công tác tổng kết
thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật cho Tòa án nhân dân các cấp. Tăng

cường công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản pháp luật mới được
ban hành cho Thẩm phán các cấp. Xây dựng quy chế quản lý, giám sát đối với Thẩm
phán, Hội thẩm trong việc thực thi nhiệm vụ của mình; có biện pháp chế tài hành chính
cụ thể đối với những trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện theo ý chí chủ
quan của Thẩm phán và Hội thẩm.
IV: Điều kiện bảo đảm nhằm thực hiện nguyên tắc
Nguyên tắc nào cũng có những điều kiện riêng biệt và chủ chốt nhằm bảo đảm
thực hiện tốt nguyên tắc đó trên thực tế. Đối với nguyên tắc này, tác giả sẽ đưa ra
những điều kiện cần thiết để áp dụng như sau:
Điều kiện thứ nhất: Hội thẩm và Thẩm phán độc lập
Như tác giả đã phân tích ở trên, Hội thẩm và Thẩm phán phải độc lập theo nghĩa:
Độc lập nghiên cứu, làm việc và Độc lập trong việc xét xử mà không bị bất kì cá nhân
nào tác động vào. Nếu Hội thẩm và Thẩm phán không độc lập làm việc, nghiên cứu
rồi cùng nhau đưa ra kết luận mà chỉ nghe theo một bên thì có thể sẽ khơng chính xác
và thiếu sự bao quát ở quyết định bản án. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm có sự tác động
từ các chủ thể khác bên ngoài như tham nhũng, lợi dùng bị cáo, bị hại hoặc những
người liên quan là người thân để chuộc lợi (Những điều này đã xảy ra rất nhiều trên
thực tế và những phần trên tác giả đã phân tích).
Điều kiện thứ hai: Chỉ tuân theo pháp luật
Thẩm phán và Hội thẩm ngoài việc độc lập trong xét xử thì chỉ tuân theo pháp
luật trong xét xử. Như đã phân tích, trong q trình giải quyết một bản án, Thẩm phán
và Hội thẩm gặp rất nhiều những tác động khác nhau, điều này sẽ làm sai lệch bản án.
Như nạn tham nhũng, hay trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm bị đe dọa bởi những người
14


nhà của nạn nhân. Nếu hai chủ thể này không vững tinh thần để làm việc, khơng quyết
đốn trong việc tuân thủ pháp luật xét xử thì rất dễ gây án oan sai.
Đó là hai điều kiện rất quan trọng để Hội thẩm và Thẩm phán thực hiện đúng, chính
xác nguyên tắc này.

KẾT LUẬN
Như vậy, chúng ta có thể thấy, nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập,
chỉ tuân theo pháp luật là rất quan trọng, cần thiết để đảm bảo hoạt động xét xử tại tòa
diễn ra cơng bằng, minh bạch, đúng đắn. Tư pháp có độc lập thì mới đảm bảo được
tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, có khả năng kiểm sốt và giới hạn quyền lực
cũng như đảm bảo cho quyền con người. Độc lập trong cuộc sống giúp chúng ta trưởng
thành, quyết đốn, thành cơng hơn; độc lập trong xét xử sẽ là đường ray cho con tàu
công lý về tới đích. Từ đó, tịa án sẽ là chỗ dựa, là nơi làm cho người dân cảm thấy tin
tưởng, an tâm khi đến để giải quyết những vấn đề pháp lý của mình

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*Văn bản quy phạm pháp luật
1: Hiến Pháp 2013
2: Bộ Luật tố tụng hình sự 2015
*Luận văn, luận án, tạp chí, bình luận khoa học
3: Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, TS. Phạm Mạnh Hùng,
NXB Lao động
4: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự: Từ Thị Hải Dương: Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội 2009.
*Giáo trình
5: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công an nhân dân 2018
*Một số trang web
6:

/>

lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat/
7: />
16



×