Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

THỰC HIỆN NGUYÊN tắc THẨM PHÁN, hội THẨM xét xử độc lập và CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT từ THỰC TIỄN tòa án NHÂN dân HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.28 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................/...............

BỘ NỘI VỤ
......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ NHÀN

THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP
VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT - TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH,
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................/...............

BỘ NỘI VỤ
......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ NHÀN

THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC


THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP
VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT - TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH,
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng.

Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách
trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn tình hình công tác quản lý..
Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày

tháng

Học viên

năm 2018


Nguyễn Thị Nhàn


LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những

sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay
nhiều, trực tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu làm luận văn
đến nay, tôi đã nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của thầy cô, gia đình
và bạn bè xung quanh.

Với tấm lòng biết ơn vô cùng sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành

nhất từ đáy lòng đến quý Thầy Cô của trường Học viện Hành chính Quốc gia

đã cùng dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho
chúng tôi vốn kiến thức quý báu suốt thời gian học tập tại trường.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Thị Phượng,

Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tâm chỉ bảo hướng dẫn tôi qua từng
buổi nói chuyện, thảo luận về đề tài nghiên cứu. Nhờ có những lời hướng dẫn,

dạy bảo đó, bài luận văn này của tôi đã hoàn thành một cách tốt nhất. Một lần
nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô.

Vốn kiến thức của tôi còn hạn chế. Do vậy, không tránh khỏi những

thiếu sót, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và các

bạn học cùng lớp để bài luận được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Thị Nhàn


MỤC LỤC
Trang bìa

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục

Danh mục các chữ viết
Danh mục bảng biểu

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮCTHẨM
PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP
LUẬT ............................................................................................................ 7

1.1. Khái niệm, cơ sơ pháp lý của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật................................................................... 7

1.2. Nội dung Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật.................................................................................. 15


1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật ....................................................................................... 35

Tóm tắt chương 1 ......................................................................................... 37

Chương 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN,
HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG
BÌNH ........................................................................................................... 38

2.1. Các điều kiện cho việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ................................................. 38


2.1.1. Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong hệ thống Tòa án
nhân dân ....................................................................................................... 38

2.2. Thực tiễn áp dụng thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình .................................................................................................. 45

2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình ........................................................................................... 51

Tóm tắt chương 2 ......................................................................................... 66

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ

ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT ..................................... 68

3.1. Phương hướng thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật. ............................................................................ 68

3.2. Giải pháp nâng cao nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc “Thẩm phán,

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Tòa án huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình ................................................................................. 72

Tóm tắt chương 3 ......................................................................................... 86

KẾT LUẬN ................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

LTTHC

Luật tố tụng hành chính

TNHS

Trách nhiệm hình sự

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

BLTTHS
TAND
VKSN

Bộ luật tố tụng hình sự
Tòa án nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. số liệu các loại án đã giải quyết, xét xử từ năm 2011-2016........... 47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Tòa án là cơ quan có chức năng đặc biệt trong bộ máy nhà nước của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền xét
xử và chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết một người có tội hay không có tội.

Tòa án xét xử và giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh tế, hành chính và giải quyết những vụ việc khác theo quy định của
pháp luật.


Trong phạm vi chức năng của mình, hoạt động xét xử của Tòa án là

hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay
không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích

của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do

đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét
xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Do đó, Bộ luật Tố
tụng hình sự ngày 27/11/2015 có hiệu lực ngày 1/7/2016 Điều 23 đã ghi nhận

điều này và đó chính là một trong những nguyên tắc cơ bản khi Tòa án thực
hiện chức năng xét xử “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”.

Tuy nhiên trên thực tế, đặc biệt tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình

không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện

triệt để. Vì vậy, nhiều vụ án mặc dù đã được các cấp toà sơ thẩm, phúc thẩm
tuyên án nhưng vẫn tiếp tục có kháng cáo, kháng nghị do những phán quyết

của Thẩm phán hoặc ý kiến của Hội thẩm nhân dân chưa thể hiện đúng tính
khách quan, chính xác, thậm chí còn chịu sự chi phối bới một số nhân tố từ

1



môi trường bên ngoài, làm cho hiệu lực của bản án thiếu đi giá trị vốn có của
nó.

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong hoạt động xét xử, Đảng và Nhà nước

ta đã ban hành nhiều chính sách pháp luật, đề ra phương hướng, mục tiêu cụ
thể về hoạt động xét xử của Tòa án, đặc biệt là Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ

Chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Vì
vậy để bảo đảm tính tôn nghiêm của hoạt động xét xử tại địa phương, tác giả

đã chọn đề tài: “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng

Ninh, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, các

bài viết về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Có thể kể đến một số công trình có liên quan sau:

- Luận văn Thạc sỹ:“Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay” của Vũ Thị Bích Diệp, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội,
2007;


- Luận văn Thạc sỹ: “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật tố tụng dân sự” của Phan Bá
Bảy, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, 2015;

- Khóa luận tốt nghiệp: “Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật” của Hàn Mạnh Thắng, Trường Đại học Luật Hà Nội,
1997;

2


- Luận văn: “Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”, của Trần Thị Nhung San,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 1995;

- Bài viết “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, của Trần Văn Kiểm, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp năm 2011;

- Bài viết “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt

động xét xử của tòa án”, của Đỗ Thị Phương; đề tài nghiên cứu khoa học,

Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao; cùng nhiều những bài viết

được đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác.

Như vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán,

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Từ thực tiễn Tòa án nhân
dân huyện Quảng Ninh” không còn là vấn đề mới, trong thời gian qua đã có

rất nhiều những bài viết, những công trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này.

Tuy nhiên, sự khác biệt của đề tài mà tác giả nghiên cứu đó là sự không trùng

lặp về việc Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật – Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, song
những công trình khoa học nêu trên đều là những tài liệu có giá trị tham khảo

về mặt lý luận và một số giải pháp cho tác giả khi kế thừa và tiếp thu những
thành quả của những công trình nêu trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu

Đề tài luận văn đi nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản

về “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án” cũng như đưa ra một số

giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm
3



xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

Nghiên cứu làm rõ nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ

tuân tuân pháp luật trong hoạt động xét xử.

Đánh giá việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử từ thực tiễn tại Tòa án
nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Rút ra nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong việc thực hiên

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ

đó đưa ra phương hướng, một số giải pháp nhằm góp phần vào quá trình
nghiên cứu cũng như thực hiện trên thực tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:

Là toàn bộ hoạt động của Tòa án trong hoạt động xét xử nhằm thi hành

nguyên tắc “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh

Quảng Bình”.

- Phạm vi nghiên cứu

+ Về không gian: Đề tài luận văn nghiên cứu việc thực hiện nguyên tắc

“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn
tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”.

+ Về thời gian: Đề tài lấy số liệu nghiên cứu trong thời gian từ năm

2011 đến năm 2016.

+ Về nội dung: Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn của nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh
4


Quảng Bình”. Nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa
trong rất nhiều các văn bản luật: Luật tổ chức Tòa án, Luật tố tụng dân sự, tố

tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân…

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Phương pháp luận: Dựa trên hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa


Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng về

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử.

Phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm các phương pháp:
- Phương pháp phân tích tài liệu;

- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin;
- Phương pháp so sánh;

- Phương pháp tổng hợp, logic biện chứng, hệ thống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện nguyên tắc

“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn
tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”.

Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tế áp dụng

nguyên tắc trong hoạt động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra
một số phương hướng, giải pháp mang tính xây dựng nhằm hoàn thiện hơn

quy định của pháp luật về vấn đề này góp phần vào quá trình cải cách tư pháp
trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung


của luận văn gồm 3 chương:

5


Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Chương 2: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện

nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

6


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC

THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP
VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm, cơ sơ pháp lý của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét

xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật

Ở nước ta, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung

quyền lực, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp
mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của
nhà nước Việt Nam được giao cho Tòa án nhân dân.

Do vậy, Tòa án nhân dân có một vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà

nước. Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp, các chế định bổ trợ

tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu và điều kiện, phương tiện làm
việc; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm”.

Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa

án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Tòa án nhân dân quận, huyện thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương,

Tòa án quân sự là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.


7


Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, xã hội, chủ động hội nhập kinh tế và khu vực, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,

quyền của con người và đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Tòa

án xét xử những vụ án hình sự; án dân sự (bao gồm những tranh chấp về dân
sự, những tranh chấp về hôn nhân và gia đình; những tranh chấp về kinh

doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động); giải quyết giải các việc
dân sự (giải quyết việc hôn nhân gia đình, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, xem xét và kết luận việc đình công hợp pháp hay không hợp

pháp. Tòa án giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật (giảm
hình phạt, miễn hình phạt, ra quyết định thi hành án hình sự, ra quyết định
xóa án tích…).

Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của Tòa án

lại càng được khẳng định, vì Tòa án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp

trong bộ máy nhà nước và việc thực thi này ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu
và các giá trị của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, là cơ


quan duy nhất có quyền xét xử và tuyên có tội hay không có tội, quyết định
mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến các quyền của công dân như
bồi thường, biện pháp ngăn chặn, án phí,…

Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức, phân công quyền lực nhà nước ở Việt

Nam. Tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, tính độc lập của Tòa
án là một trong những biểu hiện rõ nét của cơ chế phân công, kiểm soát quyền
lực nhà nước ở Việt Nam.

8


Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án nhân danh công

lí và dựa vào công lí mà Tòa án phải xét xử như một người đứng giữa, trung
lập, không phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật

thì Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ công

lí. Bản án, quyết định của Tòa án là văn bản kết thúc quá trình xét xử một vụ
án. Do vậy, có thể nói bản án chính là tuyên ngôn công lí mà Tòa án thay mặt

nhà nước ban hành thông qua quá trình tố tụng tại phiên tòa. Hơn nữa, bản án
đúng đắn sẽ mang lại sự công bằng cho xã hội, bảo vệ công lí và quyền con

người. Vì lẽ đó mà bản án, quyết định của Tòa án cần phải đảm bảo chính xác
tuyệt đối, đảm bảo đúng pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là

những người nhân danh nhà nước ra bản án, quyết định nên đòi hỏi ở họ bản

lĩnh vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, lương tâm nghề nghiệp và phẩm
chất đạo đức trong sáng để độc lập xét xử theo pháp luật

Xuất phát từ chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta. Việc xét xử của Tòa

án có Hội thẩm nhân dân tham gia được Hiến pháp và pháp luật quy định, đó
là một trong những nguyên tắc thể hiện rõ tư tưởng “nhà nước của dân, do

dân, vì dân” và chế độ XHCN. Mục đích của chế độ xét xử có Hội thẩm nhân
dân tham gia không đơn thuần là cùng Thẩm phán xét xử cho xong vụ án theo
quy định của pháp luật tố tụng. Quan trọng hơn, Hội thẩm nhân dân còn đóng

vai trò thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước hạn chế tiêu cực
trong hoạt động xét xử của Tòa án bảo vệ công lí, bảo vệ pháp chế XHCN.

Quy định như vậy giúp cho việc xét xử của Tòa án được rõ ràng, chính xác,

phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân
dân.

Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc

được ghi nhận trong hầu hết Hiến pháp các nước trên thế giới và cả trong các
văn kiện, cam kết quốc tế. Đơn cử như:

9



- Điều 197, Hiến pháp Thái Lan quy định: “Các Thẩm phán phải độc

lập trong quá trình xét xử các vụ việc theo một cách thức công bằng, nhanh
chóng và đúng pháp luật”.

- Điều 97, Hiến pháp nước Cộng hòa liên bang Đức năm 1959 quy

định: Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Điều 73, Hiến pháp Nhật Bản quy định: “Tư pháp do Tòa án tối cao

và các Tòa án cấp dưới sử dụng. Không thể thiết lập Tòa án đặc biệt và không
có cơ quan nào của ngành hành pháp được sử dụng quyền tư pháp chung

thẩm. Các Thẩm phán xét xử theo lương tâm và phải tôn trọng Hiến pháp,

pháp luật một cách triệt để”. Từ quy định trên có thể thấy quyền Tư pháp “xét
xử” chỉ thuộc về Tòa án. Các Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ xét xử phải
theo lương tâm và phải tuân thủ triệt để Hiến pháp và pháp luật. Lương tâm là

yếu tố nội tâm tạo cho Thẩm phán khả năng tự đánh giá hành vi của mình về
mặt đạo đức và tự điều chỉnh hành vi của mình.

Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận ngay sau cách mạng tháng

Tám năm 1945 và được quy định trong Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về
tổ chức tòa án và các ngạch Thẩm phán do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban

hành, trong đó có quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành
chính, các quy định Thẩm phán sẽ chỉ trong pháp luật và công lý. Các cơ

quan khác không được can thiệp vào tư pháp. Mỗi Thẩm phán quyết định theo

pháp luật và lương tâm của mình không quyền lực nào được can thiệp trực

tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án”. Mặt khác, Sắc lệnh số 13/SL còn quy
định “Các phụ thẩm nhân dân có bổn phận lấy lý trí sáng suốt và lương tâm
ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một các công bằng, không vì
nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực hay làm hại
ai”.

10


Để cụ thể hóa nguyên tắc này, các bản Hiến pháp của Nhà nước đã ghi

nhận ngày càng cụ thể và rõ ràng hơn: Điều 69 Hiến pháp năm 1946 quy
định: “Trong khi xét xử các Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan
khác không được can thiệp”; Hiến pháp năm 1959: “Khi xét xử Tòa án nhân

dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 100 Hiến pháp năm
1959 và Điều 4 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960). Trên cơ sở Hiến
pháp năm 1980, luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 và Bộ luật tố tụng

hình sự được ban hành. Nguyên tắc này được khẳng định cụ thể hơn: “Khi xét
xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Hiến pháp năm 1992 ra đời, một lần nữa nguyên tắc này được khẳng

định một cách rộng rãi (Điều 130 Hiến pháp 1992, Điều 5 Luật tổ chức Tòa


án nhân dân năm 1992 và Điều 3 pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân…). Điều 16 BLTTHS năm 2003: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Như vậy, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong suốt quá trình hình thành và phát triển đã khẳng định vị

trí trung tâm của Tòa án trong hoạt động xét xử. Thẩm phán độc lập không
chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tác động từ bên ngoài cũng như từ bên trong

ngành Tòa án, đồng thời độc lập với các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ thể

tham gia tố tụng trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh giá chứng cứ và
đưa ra các nhận định, phán quyết của mình về vụ án. Kể cả khi vụ việc được
xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm Thẩm phán cũng
không bị lệ thuộc bởi các nhận định, những phán quyết của Toà án cấp dưới.

Mặt khác, tính độc lập trong xét xử không có nghĩa là xét xử tùy tiện

mà phải độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở

không thể thiếu để Thẩm phán độc lập khi xét xử. Nó vừa là quyền vừa là
nghĩa vụ của Thẩm phán. Là quyền nó đảm bảo cho sự độc lập xét xử của họ.
11


Là nghĩa vụ nó đặt ra yêu cầu buộc Thẩm phán phải luôn trau dồi trình độ


chuyên môn nghiệp vụ cũng như bản lĩnh nghề nghiệp để tránh những tác
động tiêu cực từ bên ngoài ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Nội dung

độc lập khi xét xử và nội dung chỉ tuân theo pháp luật có mối liên hệ rất chặt
chẽ và bổ sung cho nhau. Đó là những tư tưởng chủ đạo, định hướng trở thành
xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán khi được phân công xét xử vụ án.

Từ những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: “Nguyên

tắc Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc cơ bản

trong hoạt động tố tụng của Tòa án Việt Nam, thể hiện tư tưởng pháp lý khi
xét xử các vụ án, Thẩm phán phải tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về bản

án và quyết định của mình mà không bị phụ thuộc vào quan điểm ý kiến của

bất kì cá nhân, cơ quan, tổ chức nào, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau

và chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật để xem xét và quyết định về từng
vấn đề của vụ án”.

1.1.2. Hội thẩm nhân dân và nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật của Hội thẩm nhân dân

Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia (khoản 1 Điều

103 Hiến pháp 2013) trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn là một trong

các nguyên tắc mang tính Hiến định và trong các văn bản luật. Như tại Điều


40 Bộ luật tố tụng Hình sự quy định: “Hội thẩm được phân công xét xử vụ án
hình sự có nhiệm vụ quyền hạn nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa,
tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, tiến hành
các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội
đồng xét xử, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết

định của mình”; Điều 222 của Bộ luật hình sự: “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm
mới có quyền nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất
cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một,
12


Thẩm phán biểu quyết sau cùng”; Điều 49 của Bộ luật tố tụng dân sự quy
định: “Hội thẩm có nhiệm vụ quyền hạn nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên
tòa, tham gia Hội đồng xét xử các vụ án dân sự, tiến hành các hoạt động tố

tụng và ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Hội đồng xét xử, Điều 264 của Bộ luật tố tụng dân sự: “Chỉ có các
thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án, các thành viên của Hội

đồng xét xử phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa,

kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật để giải quyết tất
cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một,

Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa biểu quyết

sau cùng”; Điều 12, 13 của Luật tố tụng Hành chính quy định: “Việc xét xử

sơ thẩm vụ án hành chính có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét


xử theo thủ tục rút gọn. Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án, Hội

thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán; Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, ngiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dưới bất
kỳ hình thức nào”, Điều 191 của Luật tố tụng hành chính quy định: “Chỉ có

các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các
thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án

bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một, Hội thẩm nhân dân biểu

quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng”. Do đó, nếu việc xét xử của Tòa

án mà không có Hội thẩm tham gia thì không chỉ là vi hiến mà còn vi phạm
nghiêm trọng phạm pháp luật tố tụng.

Hội thẩm tham gia quá trình tố tụng theo quy định là sự tham gia với tư

cách là người tiến hành tố tụng cùng với Thẩm phán để giải quyết vụ án. Tuy
nhiên, giữa họ lại có sự độc lập trong quá trình xét xử. Tính độc lập của Hội
thẩm nhân dân thể hiện ở chỗ:

13


- Hội thẩm nhân dân phải chủ động tự mình nghiên cứu hồ sơ, phải tìm

hiểu, phân tích kỹ các chứng cứ, các tình tiết cụ thể của vụ án trong tất cả các

mối liên hệ của nó và dựa vào niềm tin nội tâm để đánh giá chúng mà không

được có bất kì sự lệ thuộc với chính các thành viên của Hội đồng xét xử hay
những kết luận của Viện kiểm sát đưa ra.

- Tại phiên tòa, Hội thẩm nhân dân phải chú ý lắng nghe những ý kiến

của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, phân tích, đánh

giá, tổng hợp các ý kiến khác nhau để làm căn cứ tham gia vào quy trình nghị
án.

- Khi nghị án, Bộ luật tố tụng hình sự quy định Thẩm phán phải là

người biểu quyết sau cùng để không ảnh hưởng đến tính độc lập của Hội

thẩm. Mặc dù việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nó mang tính
độc lập, nhưng không có ý nghĩa là biệt lập, đối lập với các hiện tượng tố tụng
cũng như các hiện tượng pháp lý khác.

Bên cạnh đó, khi thực hiện hoạt động xét xử - hoạt động gắn liền với

việc củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, không chỉ có Thẩm phán mà Hội
thẩm cũng phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật.

Tuân theo pháp luật ở đây có nghĩa là tuân theo cả luật nội dung và luật

hình thức, phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án chứ

không được tuỳ tiện, chủ quan trong việc áp dụng pháp luật. Trên cơ sở các

quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ đưa ra các phán quyết của mình về

việc phạm tội và hành vi phạm tội của bị cáo một cách chính xác, phù hợp với
diễn biến thực tế của vụ án đã xảy ra. Ngoài việc tuân theo pháp luật khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc bởi bất kỳ điều kiện nào.

Tóm lại, nguyên tắc Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật thể hiện quan điểm của nhà nước trong hoạt động xét xử, đề cao

trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm, theo đó chỉ có Thẩm
14


phán và Hội thẩm (Hội đồng xét xử) mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ
sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác
mà không chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào, bảo đảm chất lượng
hoạt động xét xử.

1.2. Nội dung Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật

1.2.1. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập

Thứ nhất, tính độc lập thể hiện giữa các chủ thể tham gia với Tòa án.

Mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được

thể hiện ở mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án và các đồng nghiệp


cùng Tòa án, quan hệ giữa Hội thẩm và Chánh án Tòa án nơi Hội thẩm tham
gia xét xử… Chánh án là người đứng đầu cơ quan, vừa sử dụng cán bộ đồng

thời cũng là người quản lí cán bộ trong đơn vị mình. Trong đó Hội thẩm và
Thẩm phán lại là người chịu sự quản lí của Chánh án và Tòa án cấp trên.

Thông qua công tác tổ chức, kiểm tra, xét xử như họp bàn bản án trước khi

xét xử, phân công Thẩm phán và Hội thẩm xét xử vụ án, Chánh án có tác
động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Mặc dù pháp luật đã

quy định khi hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp phúc thẩm không

được quy định trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp
nhận hoặc bác bỏ cũng như không quy định trước về điều khoản BLHS và
hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng những việc Tòa cấp trên

hủy án Tòa cấp dưới, cũng ảnh hưởng tới tính độc lập của Thẩm phán và Hội

thẩm. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm

của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và
giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét

xử công bằng, khách quan. Khi án bị hủy án xét xử sơ thẩm lại, hội đồng xét

xử cũng cần phải xem xét một cách khách quan nguyên nhân mà tòa án cấp
15



trên hủy, xem xét toàn diện các chứng cứ, thông tin có phù hợp với thực tế
khách quan hay không để xét xử lại đúng pháp luật, không phụ thuộc vào kết
quả bản án bị hủy. Nếu cấp trên hủy đúng cần xem xét để xét xử lại cho chính
xác, nếu cấp trên hủy sai thì phải bảo vệ chính kiến, quan điểm của hội đồng
xét xử, miễn sao bản án, quyết định phải có căn cứ và hợp pháp.

Chẳng hạn, trong quá trình xét xử, khi Thẩm phán điều khiển phiên tòa

trong việc xét hỏi, tranh luận, nghị án để đảm bảo hoạt động xét xử đi đúng

trọng tâm, xác định những việc cần làm để chứng minh tội phạm và không
được hạn chế việc xét hỏi của Hội thẩm nếu những câu hỏi đó nhằm làm rõ

các tình tiết khách quan của vụ án. Theo Điều 222 Bộ luật tố tụng Dân sự thì

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm
nhân dân có quyền hỏi tất cả các vấn đề mà mình cho là cần thiết để giải

quyết vụ án mà không phụ thuộc vào Thẩm phán. Để đảm bảo cho Thẩm phán

và Hội thẩm độc lập với nhau khi xét xử, Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự,

Điều Điều 236 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: Chỉ Thẩm phán và Hội

thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải
quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề

một. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý

kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa


vào hồ sơ vụ án… . Như vậy, rõ ràng là mỗi cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm

đều phải tự chủ và có chính kiến riêng của mình, dù đó là ý kiến thiểu số hay
đa số đều được ghi nhận. Chứ không phải trong trường hợp là ý kiến thiểu số
thì sẽ bị che lấp bởi quyết định của đa số. Quy định này góp phần khuyến
khích sự tự chủ và độc lập của mỗi thành viên Hội đồng xét xử. Thêm vào đó,

Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết định

của riêng mình. Chính trách nhiệm cá nhân này càng thực sự là một đảm bảo
cho Thẩm phán và Hội thẩm mạnh dạn có những quyết định độc lập. Cá nhân
16


của mỗi người khi tin tưởng ý kiến của mình, cho dù là thiểu số, là đúng pháp

luật thì mạnh dạn quyết định, không phải lệ thuộc vào ý kiến của đa số những
người khác. Bởi vì, nếu ý kiến của riêng mình là đúng thì không có lý do gì
phải e sợ trách nhiệm, cho dù bản án hoặc quyết định cuối cùng là theo ý kiến

của đa số. Những quy định trên đã loại trừ việc Thẩm phán lạm quyền, tác
động đến hoạt động xét xử của Hội thẩm.

Thứ hai, tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm còn thể hiện ở chỉ

đạo của cấp ủy Đảng đối với Tòa án.

Xuất phát từ Điều 4 Hiến pháp 2013, Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp,


trong đó có Tòa án thông qua cấp ủy. Đó là quan hệ chính trị giữa tổ chức
Đảng với cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đảng không chỉ đạo, xét xử từng
vụ án cụ thể mà đối với hoạt động của Tòa án nhân dân, Đảng có chủ trương

là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sự chỉ đạo của cấp ủy trong
cơ quan xét xử nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử thực hiện đúng tính

nghiêm minh, không ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của Thẩm phán và

Hội thẩm. Ý kiến của cấp ủy Đảng trong việc bổ nhiệm và tái bổ nhiệm Thẩm

phán cũng dựa trên những quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm và tái bổ nhiệm
Thẩm phán chứ không phải là yếu tố quy định. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng

không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Tuy
nhiên, chế độ đảng lãnh đạo Nhà nước, trong đó có các cơ quan, đơn vị, vị trí
của cấp ủy Đảng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán sẽ có những

ảnh hưởng nhất định đến sự độc lập của Thẩm phán khi có sự tác động của
cấp ủy Đảng. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng sự
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập xét xử.
Thứ ba, độc lập đối với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Là việc Thẩm phán và Hội thẩm trên cơ sở đánh giá tính chính xác của

các thông tin, kiểm tra lại tính xác thực, đúng đắn của kết quả điều tra, quyết
17



×