Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG của một số NGÂN HÀNG THƯƠNG mại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.81 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
BÁO CÁO THỰC TẬP
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
GVHD: Th.S VÕ ĐÌNH VINH
SVTT : LÊ THỊ NGỌC QUỲNH
Lớp K10.404.A
Mã số sinh viên: K10.404.0511
TP HỒ CHÍ MINH. NĂM 2014
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN













Tp.HCM, ngày…. tháng…. năm 2014
GVHD
MỤC LỤC
4
1 PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Các ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian tài chính có vai trò quan trọng


trong việc kết nối giữa khu vực tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế - ngày càng bị cạnh
tranh bởi các trung gian tài chính ngân hàng và các ngân hàng nước ngoài. Trong môi
trường nhiều cạnh tranh như hiện nay, hệ thống ngân hàng cần phải duy trì được sự ổn
định và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình. Thực tế trong thời gian vừa qua,
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã trải qua một cú sốc lớn. Cùng với sự suy
thoái của nền kinh tế, các ngân hàng bộc lộ nhiều yếu kém để từ một khu vực ăn nên làm
ra nhất của nền kinh tế trở thành mối quan tâm lo ngại hàng đầu khi nhiều ngân hàng
thua lỗ, nợ xấu tăng cao, ghi nhận sự biến động mạnh trong hoạt động của hệ thống ngân
hàng. Để có cái nhìn rõ nét hơn, bài báo cáo thực tập lựa chọn đề tài “Phân tích hiệu quả
hoạt động của một số ngân hàng thương mại Việt Nam” nhằm phân tích và đánh giá tình
hình hoạt động của một số ngân hàng trong giai đoạn 2008 – 2012.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là tính toán các tỷ số dựa trên số liệu, phân tích và đánh giá
hiệu quả của một số ngân hàng thương mại thông qua các tỷ số tài chính và mô hình hồi
qui tuyến tính.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Báo cáo tập trung vào hoạt động các ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2008 –
2012, bao gồm các ngân hàng thương mại sau:
1. Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam Vietinbank
2. Ngân hàng quốc tế VIB
3. Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội SHB
4. Ngân hàng TMCP Quân đội MB Bank
5. Ngân hàng TMCP Phát triển TP. Hồ Chí Minh HD Bank
6. Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam Techcombank
7. Ngân hàng TMCP Xuất Nhập khẩu Việt Nam Eximbank
8. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV
5
9. Ngân hàng TMCP Á Châu ACB
10. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Vietcombank
1.4 Phương pháp nghiên cứu

Để phù hợp với mục tiêu của báo cáo thực tập, phương pháp nghiên cứu được lựa
chọn là thu thập số liệu, phương pháp định tính với tính toán các tỷ số tài chính và phân
tích dựa vào hàm hồi quy tuyến tính.
1.5 Nguồn dữ liệu và phương pháp thu thập dữ liệu
Dữ liệu được sử dụng lấy từ Báo cáo tài chính, Báo cáo thường niên của một số
ngân hàng thương mại thông qua các trang web chính thức của ngân hàng.
6
2 PHẦN PHÂN TÍCH
2.1 Đánh giá hiệu quả thông qua các tỷ số tài chính
Hầu hết các nghiên cứu đo lường đầu ra của các ngân hàng sử dụng tập hợp các
số liệu như tổng tài sản, tổng dư nợ cho vay và tiền gửi của khách hàng và một số các
tiêu chí đầu ra khác của ngân hàng. Tuy nhiên, những số liệu này chưa thể đánh giá một
cách đầy đủ giá trị dịch vụ cũng như mức độ hoạt động của các ngân hàng. Để khắc phục
hạn chế trên, chúng ta sử dụng các dữ liệu được tính toán về các tiêu chí biên, chi phí và
lợi nhuận như một thước đó cho hiệu quả hoạt động ngân hàng. Ba loại tỷ số hoạt động
được sử dụng bao gồm các tỷ số liên quan đến tài sản, các tỷ số liên quan đến thu nhập
và các tỷ số liên quan đến vốn chủ sở hữu.
2.1.1 Các tỷ số liên quan đến tài sản hoạt động (Operating assets ratios)
Tỷ số Operating asset ratios là tỷ số thể hiện tỷ lệ các chỉ tiêu thu nhập, chi phí của
ngân hàng so với tổng tài sản hoạt động của ngân hàng. Tỷ số này có thể so sánh tỷ suất
lợi nhuận trên các khoản cho vay và các khoản tiền gửi. Tuy nhiên cấu trúc vốn khác
nhau giữa các ngân hàng có thể ảnh hưởng đến tính hiệu quả của tỷ số này. Bảng 1 (phụ
lục) trình bày các tỷ số này thông quatính toán các chỉ tiêu của một số ngân hàng thương
mại có quy mô vốn lớn ở Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2012.
Giai đoạn 2008 – 2012 là giai đoạn tương đối ngắn nhưng ghi nhận nhiều biến
động của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam. Từ giai đoạn này có thể nhận
thấy xu hướng hoạt động rõ nét của các ngân hàng thông qua các tỷ số được tính toán ở
phụ lục 1.
Biểu đồ 1.1 Trung bình tỷ lệ thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi trong giai
đoạn 2008 - 2012

Nguồn: tổng hợp từ báo cáo tài chính của các ngân hàng
Nhìn chung, thu nhập của hầu hết các ngân hàng chủ yếu có được từ hoạt động
cho vay tạo thu nhập từ lãi. Thu nhập phi lãi (thu nhập từ dịch vụ, các hoạt động khác )
chỉ chiếm một phần nhỏ. Điều này cho thấy hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
7
thương mại chưa đa dạng về loại
hình, dẫn đến sự thiếu đa dạng
trong các nguồn doanh thu.
Bảng 1.1 Tỷ lệ thu
nhập từ lãi và ngoài lãi của
các ngân hàng
Nguồn: Tính toán từ
báo cáo của các ngân hàng
thương mại
Một số ngân hàng có tỷ
lệ thu nhập phi lãi cao hơn thu
nhập từ lãi, bao gồm SHB và
HD Bank lần lượt trong năm
2008 và 2009. Tuy nhiên điều
này chỉ mang tính chất cá
biệt, không bền vững. Có thể
thấy các hoạt động kinh
doanh ngoài cho vay của ngân
hàng còn kém hiệu quả và bền
vững, chỉ đem lại một phần
nhỏ doanh thu, thậm chí có
năm còn bị lỗ.
Lãi gộp (gross margin)
thông thường tương quan chặt
chẽ với thu nhập từ lãi và chi phí

hoạt động. Các ngân hàng trong

Tỷ lệ thu nhập
từ lãi
Tỷ lệ thu
nhập ngoài
lãi
Vietin
2008 3.75% 0.79%
2009 3.29% 0.72%
2010 3.31% 0.75%
2011 4.39% 0.51%
2012 3.68% 0.71%
VIB
2008 2.39% 0.27%
2009 2.03% 0.81%
2010 2.27% 0.48%
2011 3.90% -0.22%
2012 4.55% 0.41%
SHB
2008 1.12% 2.21%
2009 2.35% 0.68%
2010 2.39% 0.53%
2011 2.69% 0.47%
2012 1.62% 0.92%
8
bảng tính ở phụ lục 1 có lãi gộp dao động trong phạm vi từ 2% đến 5%, đa số các ngân
hàng đạt khoảng trên 3%.
Chí phí dự phòng rủi ro tín dụng thể hiện một xu hướng chung đối với các ngân
hàng, thấp trong năm 2009, 2010 và tăng trở lại trong năm 2011 đến 2012. Điều này

cũng phù hợp với thực tế tình hình hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại
trong giai đoạn này. Khi các khoản cho vay trở nên rủi ro hơn, nợ xấu tăng nhanh với
con số lớn thì hoạt động dự phòng rủi ro tín dụng được quan tâm và chú ý hơn. Chí phí
dự phòng rủi ro tăng cho thấy sự thận trọng của các ngân hàng trong hoạt động tín dụng.
Ngoài ra, những ngân hàng có khi có lợi nhuận gộp cao nhất cũng ghi nhận mức
ROA (tỷ số lợi nhuân ròng/ tổng tài sản) cao nhất tương ứng, điều này đúng với trường
hợp của Vietinbank, Techcombank, Eximbank và ACB.
2.1.2 Các tỷ số liên quan đến thu nhập hoạt động (Operating income ratios)
Tỷ số thu nhập hoạt động (operating income ratios) là tỷ số thể hiện tỷ lệ các chỉ
tiêu liên quan đến doanh thu và chi phí so với lợi nhuân hoạt động (lợi nhuận trước thuế)
của ngân hàng. Các tỷ số này cũng bị ảnh hưởng bởi sự khác nhau trong cấu trúc vốn. Ba
tỷ số quan trọng là tỷ số thu nhập phi lãi, chi phí hoạt động và thu nhập ròng/lợi nhuận
gộp.
Lợi nhuận gộp của ngân hàng thương mại bao gồm thu nhập từ lãi và thu nhập
ngoài lãi.
Biểu đồ1.2 Trung bình tỷ lệ thu nhập từ lãi và thu nhập ngoài lãi của các ngân
hàng trong giai đoạn 2008 – 2012
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu tính toán ở phụ lục 2
Tỷ lệ của thu nhập phi lãi trong lãi gộp cho thấy mức độ đóng góp của các nguồn
thu nhập ngoài lãi của ngân hàng trong tổng lợi nhuận (gross margin). Từ biểu đồ cho
thấy, thu nhập ngoài lãi chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều so với thu nhập từ lãi. Đồng thời, các
ngân hàng thương mại Việt Nam có tỷ lệ thu nhập ngoài lãi thấp hơn so với nhiều nước
khác. Theo “Khảo sát về ngành ngân hàng của Việt Nam” của KPMG, một trong những
nguyên nhân chính của tình trạng này là do phân khúc bán lẻ ở Việt Nam được ước tỉnh
chỉ trong khoảng 15%. Trong khi đó tại các quốc gia đã phát triển, phân khúc dịch vụ
9
ngân hàng phát triển hơn nhiều. Các tài khoản bán lẻ là một trong những nguồn thu phí
dịch vụ chính như Cho vay mua nhà có thế chấp, Thẻ tín dụng và Tài khoản hàng ngày.
Tại Việt Nam, những loại hình sản phẩm này chưa phổ biến do thói quen dùng tiền mặt
của người dân và mức độ đa dạng hóa hiệu quả các loại hình sản phẩm của ngân hàng

chưa cao. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi này cũng cho thấy một xu hướng rõ rệt vào năm 2011
và năm 2012. Trong năm 2011, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng giảm rõ rệt so
với tỷ lệ thu nhập từ lãi, đồng thời giảm so với tỷ lệ của các năm 2008, 2009, 2010. Tuy
nhiên, năm 2012 lại cho thấy tỷ trọng thu nhập ngoài lãi tăng trở lại một cách đáng kể so
với thu nhập từ lãi, ngoại trừ trường hợp của ACB. Dù có tỷ lệ thấp song việc tỷ lệ thu
nhập ngoài lãi tăng trong năm 2012 là một tín hiệu khách quan. Cũng theo khảo sát của
KPMG đã đề cập ở trên, các ngân hàng chú trọng hơn đến triển khai cung cấp các dịch
vụ mới trong những năm tới. Nhìn chung, tỷ số này chỉ cho thấy một phần rất nhỏ trong
tổng doanh thu nhưng hầu hết các ngân hàng để đáp ứng yêu cầu về lợi nhuận và tính
hiệu quả đều sẽ chú trọng và quan tâm hơn đến việc nâng cao tỷ trọng thu nhập ngoài lãi.
Điều này là tất yếu để giảm sự phụ thuộc quá lớn vào hoạt động tín dụng, bù đắp sự sụt
giảm thu nhập từ lãi thời gian gần đây.
Một yếu tố khác là tỷ suất tổng chi phí trên tổng thu nhập hoạt động của các ngân
hàng ở mức quá cao (xem ở phụ lục 2), số liệu qua các năm cho thấy các ngân hàng
thường xuyên có mức chi phí chiếm trên 60% tổng thu nhập từ hoạt động. Dù các ngân
hàng đã có ý định cắt giảm chi phí nhưng chi phí hoạt động nói chung vẫn tăng mạnh
trong năm 2012. So với các ngân hàng trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương khác,
Việt Nam có tỷ lệ chi phí hoạt động so với thu nhập từ hoạt động cao nhất. Điều này cho
thấy sự kém hiệu quả trong việc kiểm soát chi phí nói riêng và hoạt động nói chung.
Bảng 1.2 Chi phí hoạt động so với thu nhập hoạt động năm 2012
Úc
Trung
Quốc
Singapore Thái Lan Việt Nam
Chi phí hoạt động
so với tổng thu nhập
từ hoạt động
42% 40% 38% 44% 49%
Nguồn: Số liệu của Ngân hàng Trung ương các nước và báo cáo thường niên được
công bố.

10
2.1.3 Các tỷ số liên quan đến vốn chủ sở hữu (Operating equity ratios)
Tỷ số hoạt động liên quan đến vốn chủ sở hữu là các tỷ số thể hiện tỷ lệ của các
tiêu chí liên quan đến doanh thu và chi phí so với vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Khác
với hai loại tỷ số trên, tỷ số hoạt động vốn chủ sở hữu không bị ảnh hưởng bởi cấu trúc
vốn và các loại hình kinh doanh của ngân hàngCác tỷ số tính toán được trình bày trong
phụ lục 3.
Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng có sự ổn định trong giai đoạn
2008 đến 2011 và giảm trong năm 2012, thu nhập sau thuế theo đó cũng giảm mạnh
trong năm 2012. Trong số các ngân hàng trong báo cáo, chỉ có MB Bank và HD Bank có
lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu tăng trong năm 2012. Một số ngân hàng có tỷ
lệ chi phí trên vốn chủ sở hữu cao trong khi tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu thấp, cho
thấy hoạt động của ngân hàng chưa hiệu quả về lợi nhuận như: VIB, HD Bank,
Techcombank.
Tỷ lệ lãi gộp trên vốn chủ sở hữu và tỷ lệ tổng chi phí trên vốn chủ sở hữu là các
chỉ số cho thấy mức độ rủi ro cao mà các ngân hàng có đòn bẩy tài chính cao phải đối
mặt. Các tỷ số này có thể chỉ ra tình trạng của một ngân hàng đang phát triển quá nhanh
vượt khả năng tài trợ vốn (overtrading) hoặc đang chưa sử dụng vốn hiệu quả (under-
trading). Các ngân hàng trong báo cáo có tỷ số lãi gộp trên vốn chủ sở hữu dưới 100%,
Vietinbank là ngân hàng có tỷ số này ở mức cao nhất, trong khi đó VIB, SHB và EIB có
xu hướng “under-trading” khi mà tỷ số này luôn ở mức thấp dưới 50%.
2.1.4 Các chỉ tiêu tài chính khác
2.1.4.1 Tỷ lệ nợ xấu/ Tổng dư nợ
Bảng 1.3 Tỷ lệ nợ xấu / Tổng dư nợ
2012 2011 2010 2009 2008
Vietinbank 1.47% 0.75% 0.66% 0.61% 1.81%
11
SHB 8.83% 2.23% 1.40% 2.79% 1.89%
MB Bank 1.86% 1.61% 1.35% 1.73% 1.92%
HD Bank 2.35% 2.11% 0.83% 1.10% 1.93%

Techcombank 2.70% 2.83% 2.29% 2.49%
EIB 1.32% 1.61% 1.42% 1.83% 4.71%
BIDV 2.92% 2.96% 2.71%
ACB 2.50% 0.89% 0.34% 0.41% 0.89%
Vietcombank 2.40% 2.03% 2.91% 2.47% 4.61%
Nguổn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng
Nợ xấu có xu hướng tăng nhanh từ năm 2008 gây nhiều khó khăn cho hoạt động
của ngân hàng. Do sự tăng trưởng tín dụng nóng và sự dễ dãi trong cho vay của các ngân
hàng, nợ xấu ngày càng trở nên căng thẳng và không được giải quyết một cách triệt để.
Đa số các ngân hàng trong báo cáo có tỷ lệ nợ xấu được công bố ở mức an toàn để đáp
ứng quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong khi đó Ngân hàng SHB năm
2012 có tỷ lệ nợ xấu rất cao, lên tới 8,53% tương đương 4.844 tỷ đồng do nhà băng này
phải gánh thêm nợ xấu sau khi hợp nhất với Habubank.
Biểu đồ 1.3 Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
12
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.1.4.2 Tổng dư nợ/ Tổng tài sản
Bảng 1.4 Tổng dư nợ/ Tổng tài sản
2012 2011 2010 2009 2008 TB
Vietinbank
66.20
%
63.73
%
63.69
%
66.93
%
62.38
%

64.59
%
SHB
48.74
%
41.07
%
47.76
%
46.70
%
43.48
%
45.55
%
MB Bank
42.09
%
41.86
%
41.31
%
39.22
%
33.81
%
39.66
%
HD Bank
40.07

%
30.76
%
34.10
%
43.03
%
64.61
%
42.51
%
Techcomban
k
37.94
%
35.15
%
35.22
%
45.47
%
38.45
%
13
EIB
44.03
%
40.67
%
47.55

%
58.64
%
44.01
%
46.98
%
BIDV
64.80
%
67.60
%
64.73
%
39.43
%
ACB
58.32
%
58.31
%
31.03
%
30.40
%
20.75
%
39.76
%
Vietcombank

58.19
%
57.11
%
57.50
%
55.43
%
50.79
%
55.80
%
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các ngân hàng
Các ngân hàng lớn như Vietinbank, BIDV, Vietcombank có tỷ lệ dư nợ so với tài
sản cao và ổn định so với các ngân hàng còn lại. Đây là các “ông lớn” trong ngành ngân
hàng tại Việt Nam, có uy tín khá tốt đối với các cá nhân và doanh nghiệp, đồng thời rủi
ro thấp hơn các ngân hàng ngoài quốc doanh khác. Do vậy hoạt động cho vay chiếm quy
mô lớn hơn và ổn định hơn. Trong năm 2012, tỷ lệ dư nợ/ tổng tài sản trung bình của các
ngân hàng trên trong là 51.15%, tỷ lệ dư nợ/tổng tài sản trung bình của toàn hệ thống là
57% thấp hơn một số quốc gia trong khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Bảng 1.5 Cơ cấu tài sản của ngân hàng trong khu vực châu Á Thái Bình Dương
Úc Trung
Quốc
Singapore Thái Lan Việt Nam
Cho vay và ứng
trước khánh hàng
75% 50% 61% 64% 57%
Tiền gửi tại và cho
vay các tổ chức tín
dụng khác

2% 3% 10% 8% 14%
Chứng khoán đầu

6% 19% 11% 15% 14%
Các tài sản khác 17% 28% 18% 13% 15%
100% 100% 100% 100% 100%
Nguồn: Báo cáo về ngành ngân hàng năm 2012 của KPMG
14
Dựa vào bảng số liệu 1.5, tỷ lệ cho vay và ứng trước cho khách hàng của Việt
Nam thuộc loại thấp nhất trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Chỉ có Trung Quốc
có tỷ lệ này thấp hơn và điều này được giải thích bởi số dư lớn (18%) của các ngân hàng
Trung quốc tại Ngân hàng Trung ương ảnh hưởng đến khả năng cho vay.
Mặt khác, hơn 60% dư nợ cho vay của các ngân hàng Việt Nam là các khoản vay
ngắn hạn. Điều kiện kinh tế khó khăn khiến cho các ngân hàng cẩn trọng hơn khi cho
vay dài hạn. Các khoản vay ngắn hạn sẽ giúp ngân hàng kiểm soát rủi ro thanh khoản tốt
hơn, khả năng thu hồi vốn cao hơn.
2.1.5 Đánh giá các tỷ số hoạt động và hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mặc dù các tỷ số trên được sử dụng nhiều trong đánh giá hiệu quả hoạt động của
ngân hàng, nhưng chúng cũng bộc lộ những trở ngại nhất định. Sự khác nhau giữa cấu
trúc vốn, các loại hình kinh doanh và hoạt động kế toán giữa các ngân hàng có thể ảnh
hưởng đến tính hiệu quả của tỷ số. Cấu trúc vốn khác nhau dẫn đến tỷ lệ vốn chủ sở hữu
trên tài sản của các ngân hàng cũng khác nhau. Ngân hàng có vốn chủ sở hữu cao hơn có
tỷ số hoạt động cao hơn. Bên cạnh đó, tỷ lệ các hoạt động kinh doanh khác nhau giữa
các ngân hàng (cho vay và các hoạt động kinh doanh khác) cũng ảnh hưởng đến việc
tính toán các tỷ số. Cùng với đó, các yếu tố kế toán như giá trị tài sản, khấu hao, dự
phòng rủi ro cũng có thể làm giảm độ tin cậy và chính xác của các tỷ số. Tuy vậy, sự
phối hợp giữa các tỷ số vẫn có thể là chỉ báo tốt việc đánh giá mức độ hoạt động của các
ngân hàng.
Từ năm 2008 đến 2012 có thể chia làm 2 giai đoạn phát triển của các ngân hàng.
Dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 nhưng giai đoạn 2008

– 2010 vẫn là giai đoạn phát triển nhanh chóng của các ngân hàng, mở rộng về quy mô,
số lượng chi nhánh, tăng trưởng tài sản và doanh thu với tỷ lệ cao, tăng trưởng tin dụng
và huy động luôn ở mức cao trên 20% (theo Báo cáo ngành Ngân hàng Việt Nam của
Vietcombank Securities, tháng 9-2011). Tuy vậy, hiệu quả thực sự lại không cao. Tỷ suất
thu nhập so với tài sản và vốn chủ sở hữu cao nhưng không ổn định trong trường hợp
của Vietcombank, Eximbank, Vietinbank, Techcombank. Một số ngân hàng với quy mô
nhỏ hơn như SHB, HD Bank, VIB có tỷ suất thấp. Đồng thời như đã phân tích ở phần
15
2.2, các ngân hàng có chi phí hoạt động so với tổng thu từ hoạt động quá cao. Từ năm
2008 đến nay, chi phí hoạt động vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả cùng với sự đi xuống
của toàn hệ thông ngân hàng dẫn đến ROA và ROE của các ngân hàng giảm mạnh trong
năm 2011 và 2012. Sự tác động của nền kinh tế suy thoái đã bộc lộ nhiều hạn chế trong
hoạt động ngân hàng, một trong số đó là thiếu tính hiệu quả bền vững.
16
2.2 Phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng thông qua mô hình hồi quy tuyến
tính
2.2.1 Công thức mô hình và ước lượng hàm chi phí dạng logarit
Theo Hunter và Timme (1986), bài báo cáo sẽ sử dụng hàm chi phí dạng logarit
để ước lượng hàm chi phí cho thấy được nhiều kết quả khái quát hơn và ít hạn chế hơn
so với hàm Cobb-Douglas
(1)
Trong đó:
- TC là tổng chi phí
- Q là các khoản cho vay
- WL, WK và WD lần lượt là giá đầu vào của nhân viên, vốn và các khoản tiền
gửi
Các số liệu đầu vào được sử dụng bao gồm nhân công, vốn và tiền gửi.
Chi phí cho nhân viên bao gồm lương và các lợi ích khác. Chi phí vốn bao gồm
khấu hao trụ sở, đất đai, thiết bị, cộng với các khoản phải trả tiền thuê hằng năm trừ cho
các khoản chuyển nhượng. Chi phí lãi bằng tổng chi phí trả lãi tiền gửi hàng năm và các

khoản vay mượn khác.
Giá của nhân công (WL) bằng lương trung bình của mỗi nhân viên, bằng tổng chi
phí hàng năm / tổng số nhân viên
Giá của vốn (WK) được tính bằng tổng chi phí vốn / tổng tài sản cố định
Giá của tiền gửi (WD) được tính bằng tổng chi phí trả lãi / các khoản tiền gửi
Để ước lượng hàm chi phí dạng logarit nêu trên, ta sẽ đơn giản hóa công thức (1)
bằng cách đặt các biến phụ như sau:
X ln(WL)
X1 ln(WK)
X2 ln(WD)
17
Y ln(TC)
X3 ln(Q)
X4
X5
X6
X7
X8
X9
ln(WL)*ln(WD
)
X10
ln(WK)*ln(WD
)
X11 ln(Q)*ln(WL)
X12 ln(Q)*ln(WK)
X13 ln(Q)*ln(WD)
Sử dụng Eview để ước lượng hàm hồi quy tuyến tính, với Y là biến phụ thuộc, các
biến còn lại là biến độc lập. Để thực hiện việc ước lượng công thức với các biến trên, bài
báo cáo sẽ tính toán các số liệu dựa trên báo cáo thường niên của các ngân hàng. Do hạn

18
chế về mặt dữ liệu, chỉ có 9 ngân hàng đáp ứng đủ các số liệu cho việc tính toán và ước
lượng, bao gồm các ngân hàng theo thứ tự sau:
1. Vietinbank
2. VIB Bank
3. SHB
4. MB Bank
5. Dong A Bank
6. Techcombank
7. Eximbank
8. ACB
9. Vietcombank
Số liệu tính toán các biến được trình bày trong phụ lục
Tiến hành ước lượng hàm hồi quy trên Eview ta được
19
Với giá trị X và Y là các biến phụ, ta ước lượng được các hệ số trong công thức như sau
Bảng 2.1 Ước lượng các hệ số
Hệ số Ước lượng t-satistic
-109.4734 -2.2992
12.73529 2.480781
-0.605029 -1.880979
7.969672 0.862670
-4.519899 -0.561822
5.873325 0.767273
0.326534 0.212978
-0.645473 -3.356511
1.400713 1.142282
-11.05600 -0.700713
0.185341 0.149915
-0.040389 -0.157679

-0.177021 -0.406520
20
0.506853 2.698433
-0.139415 -0.251062
Với R-square = 0.9041, ta có thể cho rằng với điều kiện các yếu tố khác không đổi, các
biến độc lập có trong mô hình hồi quy trên giải thích được khoảng 90.41% sự thay đổi
của biến phụ thuộc ln(TC). Tuy vậy, mô hình này có khiếm khuyết rất lớn khi hầu hết
các biến độc lập đều có P-value > .
2.2.2 Mô hình hồi quy tuyến tính với tỷ số ROA
ROA được sử dụng để phân tích đo lường hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng trung ương Châu Âu năm 2010 “Beyond ROE, how to
measure bank performance”, ROA được cho là phân tích hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng tốt hơn ROE vì tỷ số ROE còn tồn tại những hạn chế về lợi nhuận và hoạt
động của ngân hàng.
Nghiên cứu của Ahmad Almazari (2011) về hiệu quả hoạt động của bảy ngân
hàng thương mại của Jordan sử dụng ROA là biến phụ thuộc để đo lường hoạt động của
ngân hàng, các biến độc lập bao gồm quy mô tài sản ngân hàng, tỷ số quản lý tài sản và
tỷ số hiệu quả hoạt động. Kết quả chỉ ra ROA nghịch biến với quy mô tài sản, đồng biến
với tỷ số quản lý tài sản, đồng thời nghịch biến yếu hơn với tỷ số hiệu quả hoạt động.
Do vậy, báo cáo sử dụng ROA là một cách tiếp cận khác ngoài hàm chi phí ở
phần 2.1 để xây dựng mô hình hồi quy tuyến tính phân tích hoạt động của 10 ngân hàng
thương mại đã lựa chọn ban đầu. Các biến được sử dụng trong mô hình bao gồm:
- ROA là biến phụ thuộc
- TA: Tổng tài sản
- OE: Hiệu quả hoạt động (Tổng chi phí hoạt động/thu nhập từ lãi thuần)
- AM: Quản lý tài sản (Thu nhập hoạt động/Tổng tài sản)
Số liệu tính toán các biến được trình bày ở phụ lục 5.
Kết quả ước lượng hàm hồi quy như sau:
21
ROA = 0.008683428102 - 4.58462958e-06*TA - 0.0009803183671*OE +

0.3292989606*AM
Theo ước lượng hàm hồi quy, ROA nghịch biến với tổng tài sản và tỷ số hiệu quả hoạt
động, đồng biến với tỷ số quản lý tài sản. Điều này tương tự như kết quả nghiên cứu của
Ahmad Almazari (2011) đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, biến TA và OE có Prob > , do vậy
không phù hợp với mô hình. Mô hình có R-square = 0.2972, tức là các biến độc lập chỉ
giải thích được khoảng 29.72% sự thay đổi của ROA. Do đó, mô hình với ROA vẫn
chưa phải là mô hình tốt để phân tích hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt
Nam.
2.3 Một số kiến nghị về hoạt động của các ngân hàng thương mại
2.3.1 Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh
Doanh thu của các ngân hàng Việt Nam phần lớn đến từ hoạt động cho vay.
Thu nhập từ dịch vụ chỉ chiếm phần nhỏ. Trên thực tế, dù hầu hết các ngân hàng
trong nước đều có các dịch vụ hiện đại, song chưa thu hút nhiều khách hàng tham
gia. Nguyên nhân là do các ngân hàng chưa tạo được thương hiệu, nhất là các ngân
22
hàng nhỏ như VIB, SHB, HD Bank Chất lượng dịch vụ còn thấp, điển hình là dịch
vụ tại các máy rút tiền ATM của các ngân hàng thương xuyên gây khó khăn cho phần
lớn khách hàng, khi mà số lượng các máy ATM không đủ đáp ứng nhu cầu, thu phí
bảo trì nhưng hiệu quả bảo trì kém hay hiện tượng thiếu hụt tiền vào các dịp lễ. Ngoài
ra còn có lý do khách quan từ nền kinh tế chưa đủ độ lớn, vẫn nặng tính thanh toán
bằng tiền mặt phần nào hạn chế sự phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đa
dạng hóa các loại hình dịch vụ sẽ giúp đa dạng hóa các nguồn thu, giảm thiểu rủi ro
phụ thuộc vào hoạt động tín dụng. Để làm được điều này, các ngân hàng nên phát
triển các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, đầu tư và nâng tầm chất lượng các
dịch vụ sẵn có như Internet Banking, Home Banking, SMS Banking, Mobile
Banking, ví điện tử , chú trọng các dịch vụ tiền tệ ngắn hạn trên thị trường liên ngân
hàng như chiết khấu, tái chiết khấu
Đa dạng hóa sản phẩm là điểm mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân
hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tối đa hóa lợi nhuận ngân hàng. Điều
này đòi hỏi các ngân hàng phải tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công

nghệ cao, có đặc điểm nổi trội trên thị trường để tạo thế mạnh trong cạnh tranh.
2.3.2 Kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, xử lý nợ xấu trong hệ thống
Trong những năm qua, từ chính sách nới lỏng tiền tệ của Chính phủ, hệ thống
ngân hàng tăng nhanh về số lượng và quy mô tài sản. Hoạt động tín dụng phát triển
nóng. Tuy nhiên, một số ngân hàng có năng lực yếu kém, công tác quản trị ngân hàng
chưa được chú trọng, bộc lộ nhiều bất cập và rủi ro tài chính. Hệ lụy kéo theo là toàn
bộ hệ thống tài chính, tín dụng bị ảnh hưởng tiêu cực. Theo số liệu của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, từ năm 2008 đến nay, nợ xấu của các tổ chức tin dụng tại Việt
Nam có xu hướng tăng nhanh. Trung bình giai đoạn 2008 – 2011 dư nợ bình quân nợ
xấu khoảng 51%. Việc gia tăng nợ xấu làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận và
tính an toàn của các ngân hàng. Xử lý nợ xấu không hiệu quả khiến cho hoạt động
ngân hàng trì trệ. Hơn thế nữa, ảnh hưởng từ nền kinh tế mà điển hình là việc thị
trường bất động sản trầm lắng cũng là nguyên nhân chính gây ra nợ xấu tăng cao tại
các ngân hàng
23
Do đó, các ngân hàng nên kiểm soát hoạt động cho vay một cách chặt chẽ và
thống nhất. Theo đó, trước hết các ngân hàng cần chủ động trong việc xử lý nợ xấu
thông qua việc nâng cao chất lượng quản trị điều hành, kiểm toán nội bộ, phát triển
hệ thống quản trị rủi ro và các chiến lược phát triển kinh doanh, tăng cường minh
bạch và thận trọng trong nghiệp vụ cấp tín dụng, ảnh hưởng đến hoạt động ngân
hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng là mục tiêu nên hướng đến thời gian này, về lâu
dài sẽ giúp hoạt động ngân hàng trở nên hiệu quả và an toàn hơn. Bên cạnh đó, các
ngân hàng cần phân loại nợ xấu để có biện pháp xử lý riêng phù hợp. Nợ xấu ở các tổ
chức tín dụng chính là nợ không có khả năng chi trả phần lớn của các doanh nghiệp,
vì vậy cần có giải pháp cụ thể cho từng loại nợ xấu, từng loại doanh nghiệp để đảm
bảo xử lý có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
2.3.3 Tối thiểu hóa chi phí hoạt động
Các ngân hàng thương mại Việt Nam có chi phí hoạt động khá cao so với các
nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương (như đã phân tích ở phần 1). Điều này
phần nào làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng. Trong thời điểm khó khăn

như hiện nay, các ngân hàng đang tích cực cắt giảm các khoản chi phí bằng cách tiết
giảm tối đa các chi phí trong hoạt động, chi phí nhân sự, hạn chế chia cổ tức, lợi
nhuận Tuy nhiên, vấn đề cần được lưu tâm hơn nữa là việc nâng cao năng suất lao
động và chất lượng nhân viên, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực sự của hệ
thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần xem xét quy mô hoạt động tương
xứng với khả năng quản trị và điều hành của mình, điều chỉnh số lượng các chi nhánh
và phòng giao dịch phù hợp với tình hình nền kinh tế và yêu cầu phát triển bền vững,
tránh tình trạng duy trì các hoạt động không hiệu quả, làm tăng các chi phí phát sinh,
tạo gánh nặng cho toàn hệ thống. Ngoài ra, các ngân hàng cũng nên thận trọng hơn
đối với các hoạt động kinh doanh khác ngoài tín dụng. Các khoản lỗ từ các hoạt động
này cũng làm tăng đáng kể chi phí qua các năm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân
hàng.
24
3 KẾT LUẬN
25

×