Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Việt Ngữ Học Lập bài tập có sử dụng tư liệu về diễn ngôn chính trịvăn bản thuộc phong cách hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.49 KB, 35 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC PHẦN: VIỆT NGỮ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Mã học phần:LIN1103
Đề bài: Anh chị hãy chọn từ 3 đến 5 diễn ngơn chính trị/ văn bản thuộc
phong cách chính luận trong thực tế hoặc trên truyền hình/ radio của Việt Nam.
Sau đó, anh chị hãy thiết kế 10 bài tập về Việt ngữ học có sử dụng tư liệu về
diễn ngơn chính trị/ văn bản thuộc phong cách chính luận trên. Anh/chị hãy đề
xuất một số ý kiến về kỹ năng thiết kế bài tập có vận dụng kiến thức về Việt
ngữ học.
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Thị Phương Thùy
Sinh viên thực hiện:
Mã số sinh viên:
Khoa: Việt Nam học và tiếng Việt.

Hà Nội, 6/2022
1


MỤC LỤC:
I.PHẦN MỞ ĐẦU:

4

II.PHẦN NỘI DUNG:
4
1.Lý thuyết về phong cách chính luận:
4
1.1.Định nghĩa:


4
1.2. Q trình hiện đại hóa phong cách chính luận tiếng Việt:
4
1.3. Hiện tượng giao thoa phong cách:
5
2.Những văn bản thuộc phong cách chính luận:
5
2.1. Trích bài diễn thuyết của Phan Châu Trinh tại nhà hội Việt Nam ở
Sài Gịn, đêm 19-11-1925.
5
2.2. Lời kêu gọi Tồn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
19/12/1946.
6
2.3. Bài văn “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” trích trong Báo cáo
Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm
1951 của Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi từ năm 1951 đến năm 1976
của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay).
7
2.4. Trích: Bình Ngơ đại cáo - Nguyễn Trãi.
8
2.5. “Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” - Nguyễn An
Ninh đăng trên báo Chuông rè năm 1925.
11
3. Bài tập từ các văn bản chính luận:
13
3.1.Bài tập 1:
13
3.1.1. Đáp án:
14
3.1.2.Thao tác giải bài tập:

14
3.2.Bài tập 2:
15
3.2.1. Đáp án:
15
3.2.2.Thao tác giải bài tập:
15
3.3.Bài tập 3:
16
3.3.1.Đáp án:
16
3.3.2.Thao tác giải quyết bài tập:
17
3.4.Bài tập 4:
17
3.4.1.Đáp án:
18
3.4.2.Các thao tác giải quyết bài tập:
18
3.5.Bài tập số 5:
19
3.5.1.Đáp án:
19
3.5.2.Thao tác giải bài tập:
20
3.6.Bài tập số 6:
21

2



3.6.1.Đáp án:
21
3.6.2.Thao tác giải bài tập:
22
3.7.Bài tập 7:
23
3.7.1.Đáp án:
23
3.7.2.Các thao tác giải quyết bài tập:
24
3.8.Bài tập số 8:
25
3.8.1.Đáp án:
26
3.8.2.Thao tác giải quyết bài tập:
27
3.9.Bài tập 9:
29
3.9.1.Đáp án:
30
3.9.2.Thao tác giải bài tập:
31
3.10.Bài tập số 10:
32
3.10.1.Đáp án:
33
3.10.2.Các thao tác giải bài tập:
33
4.Đề xuất một số ý kiến về kỹ năng thiết kế bài tập có vận dụng kiến thức về

Việt ngữ học:
33
III. KẾT LUẬN:

34

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

34

3


I.

PHẦN MỞ ĐẦU:
Phong cách chính luận là phong cách được dùng để bày tỏ thái độ, quan

điểm của người viết (nói) về một vấn đề nào đó thuộc lĩnh vực chính trị, xã hội
nhằm lơi kéo người đọc (nghe) về phía mình, hành động theo mình. Trong bài
tiểu luận này để hiểu hơn về phong cách chính luận cũng như kiến thức về Việt
ngữ học tôi xin thiết kế một số bài tập và đề xuất một số ý kiến về kỹ năng thiết
kế dành cho người học tiếng Việt, giúp người học một cách hiệu quả nhất.
II.

PHẦN NỘI DUNG:
1. Lý thuyết về phong cách chính luận:

1.1.Định nghĩa:
Phong cách chính luận là phong cách được dùng để bày tỏ thái độ, quan

điểm của người viết (nói) về một vấn đề nào đó thuộc lĩnh vực chính trị, xã hội
nhằm lơi kéo người đọc (nghe) về phía mình, hành động theo mình.
1.2. Q trình hiện đại hóa phong cách chính luận tiếng Việt:
Phong cách chính luận tiếng Việt trải qua quá trình hiện đại hóa, thể hiện ở
các giai đoạn 1930-1945, 1945-1954, 1954-1975, 1986 đến nay.
Trong q trình hiện đại hóa đó, phong cách chính luận tiếng Việt có các đặc
điểm ngơn ngữ như sau: Thứ nhất, đó là ngơn ngữ giàu tính lý luận kết hợp với
biểu cảm. Thứ hai, văn bản chính luận có tính khúc chiết, giàu tính thuyết phục.
Thứ ba, ngơn ngữ có tính trong sáng và có tính thẩm mỹ cao. Thứ tư, văn bản
chính luận có tính trang trọng, đại chúng. Thứ năm, văn bản chính luận có một
số đặc điểm về cách dùng từ, ngữ: các từ hay được sử dụng thuộc lớp từ chính
trị, xã hội, các thuật ngữ khoa học đã được “đời sống” hóa, nhất là các từ HánViệt thơng dụng. Về mặt ngữ nghĩa, cú pháp, văn bản chính luận thiên về lối nói
hình ảnh chứ khơng dùng lối nói hình tượng, ít dùng kết cấu đảo, sử dụng nhiều

4


lối nói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính tương phản
và liên tưởng để tăng cường độ tập trung thông tin và hiệu quả bình giá, phán
xét.
1.3. Hiện tượng giao thoa phong cách:
Phong cách chính luận mang những đặc điểm lưỡng tính của hai phong cách
là phong cách khoa học và phong cách nghệ thuật.
Trong một số trường hợp, phong cách này có sự giao thoa với phong cách
báo chí, tạo nên thể loại chính luận báo chí.
2. Những văn bản thuộc phong cách chính luận:
2.1. Trích bài diễn thuyết của Phan Châu Trinh tại nhà hội Việt Nam ở Sài
Gòn, đêm 19-11-1925.
"Đã biết sống thì phải bênh vực nhau" ơng cha mình ngày xưa cũng đã hiểu đến.
Cho nên mới có câu: "Khơng ai bẻ đũa cả nắm" và "Nhiều tay làm nên bột".

Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đồn thể, biết cơng ích, cũng
góp gió làm bão, dụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi lơ láo, sợ sệt, ù lì
như ngày nay.
[..........]
Dầu trơi nổi, dẫu cực khổ thế nào mặc lịng, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất
ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm
như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại
mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý!
Chẳng những thế mà thôi, "một người làm quan một nhà có phước", dầu tham,
dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu rút rỉa của dân thế nào cũng khơng ai phẩm bình;
dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê
bai. Người ngồi thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ

5


ham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được. Quan đời xưa
đời nay của ta là thế đấy! Luân lý của bọn thượng lưu – tôi không gọi bọn ấy là
thượng lưu, tôi chỉ mượn hai chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thơi –
ở nước ta là thế đấy!
Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đỗ được bằng cử nhân, tiến sĩ, ngày nay
thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức ký lục thơng ngơn; có khi bồi bếp
dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn quan lại đã nói ở
trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy.
Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan. Nào lo
cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xi, dầu có ruộng, dầu bán
trâu cũng vui lịng, chỉ cầu được lấy chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi
trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi. Những kẻ như thế mà vẫn
không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi! Làng có
một nắm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, khơng có

một chút gì gọi là đạo đức là luân lý cả . Đó là nói người trong một làng đối với
nhau, chí như đối với dân kiều cư ký ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa . Ôi! một
dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được!
Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta khơng có là cũng vì thế.
Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân
Việt Nam phải có đồn thể đã. Mà muốn có đồn thể thì có chi hay hơn là
truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.”
2.2. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
19/12/1946.
Hỡi đồng bào tồn quốc!
Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa!
6


Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất
nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn nǎm!
Kháng chiến thắng lợi muôn nǎm!
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946
Hồ Chí Minh
2.3. Bài văn “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” trích trong Báo cáo
Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm
1951 của Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi từ năm 1951 đến năm 1976 của
Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay).
“Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết

7


thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của
dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang của thời đại Bà
Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải ghi
nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân
tộc anh hùng.
Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ
già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến
những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi,
ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngồi mặt
trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công
chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khun chồng
con đi tịng qn mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ
chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ
cơng nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp

một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng
cho Chính phủ... Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng
đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.
Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ
kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo
trong rương, trong hịm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín
đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền,
tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được
thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.”
2.4. Trích: Bình Ngơ đại cáo - Nguyễn Trãi.
“Từng nghe:
8


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham cơng nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lịng dân ốn hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
9


Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khố sạch khơng đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống cơn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ gố bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa
10


Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề khơng cùng sống
Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc qn thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đơng,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm cịn dành phía tả.”
2.5. “Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” - Nguyễn An
Ninh đăng trên báo Chng rè năm 1925.
Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho
mạch lạc bằng tiếng nước mình. Hình như đối với họ, việc sử dụng Pháp ngữ là
11


một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc, cũng như sử dụng nước suối Pe-ri-ê

(Perrier) và rượu khai vị biểu trưng cho nền văn minh châu Âu. Nhiều người An
Nam bị Tây hố hiện nay tưởng rằng khi cóp nhặt những cái tầm thường của
phong hoá châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là họ đã được đào tạo
theo kiểu Tây phương.
Thái độ mù tịt về văn hố châu Âu như thế khơng nên làm chúng ta ngạc nhiên.
Vì chỉ có những người đã hiểu biết vững một nền văn hố rồi mới có khả năng
thưởng thức một nền văn hoá ngoại bang. Những kiểu kiến trúc và trang tri lai
căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái
mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những
người An Nam bị Tây hoá chẳng có được một thứ văn minh nào. Việc từ bỏ văn
hố cha ơng và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống
nòi lo lắng.
Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố
quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam
hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú
hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học
của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ cịn là vấn đề thời gian. Bất
cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước
từ niềm hy vọng giải phóng giống nịi. [...] Vì thế, đối với người An Nam chúng
ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ hối sự tự do của mình...
Nhiều đồng bào chúng ta, để biện minh việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ, đã than phiền
rằng tiếng nước mình cịn nghèo nàn. Lời trách cứ này khơng có cơ sở nào cả.
Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và còn nghèo những từ An Nam
hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du
nghèo hay giàu?

12


Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm Trung Quốc sang nước mình,

mà lại khơng thể viết những tác phẩm tương tự.
Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?
Ở An Nam cũng như mọi nơi khác, đều có thể ứng dụng nguyên tắc này:
“Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ
để nói ra”. [...]
Chúng ta khơng thể tránh né châu Âu, vai trò hướng đạo của giới trí thức chúng
ta buộc họ phải biết ít nhất là một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu.
Nhưng những kiến thức thu thập được, họ không được giữ riêng cho mình.
Đồng bào của họ cũng phải được thơng phần nữa. Tuy nhiên, sự cần thiết phải
biết một ngôn ngữ châu Âu hồn tồn khơng kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ.
Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngơn ngữ
nước mình. [...]
(Theo Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Văn nghị luận đầu thế kỉ, Quyển năm, tập
1, NXB văn học, Hà Nội, 2003)
3. Bài tập từ các văn bản chính luận:
3.1.Bài tập 1:
Tìm thành ngữ trong đoạn trích thơng qua hình ảnh gợi ý sau:
a)

13


b)

c)

3.1.1. Đáp án:
a) “Không ai bẻ đũa cả nắm”.
b) “Nhiều tay làm nên bột”.
c) “Một người làm quan một nhà có phước”.

3.1.2.Thao tác giải bài tập:
Bước 1: Nhìn hình, đốn chữ và đọc lại đoạn văn: Bắt đầu suy luận và cảm
nhận về hình mà bạn cần lời giải.
Bước 2: Vận dụng kiến thức về thành ngữ:
14


Thành ngữ là ngữ cố định (tổ hợp từ cố định) vừa có tính hồn chỉnh về
nghĩa vừa có tính gợi hình, gợi cảm
Bước 3: Dựa vào ngữ cảnh của câu để đưa ra lời giải.
3.2.Bài tập 2:
Từ “đặng” trong câu sau là phương ngữ hay từ ngữ toàn dân. Nếu là
phương ngữ thì từ này là phương ngữ miền nào và ứng với từ nào trong
ngơn ngữ tồn dân. Từ đó anh/chị hãy nêu giá trị của phương ngữ trong
bài văn.
“Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, nào chạy xi, dầu có
ruộng, dầu bán trâu cũng vui lòng, chỉ cầu được lấy chức xã trưởng hoặc cai
tổng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thơi”.
3.2.1. Đáp án:
Từ “đặng” trong câu văn trên là phương ngữ.
Từ này chủ yếu sử dụng trong phương ngữ miền Nam.
Từ “đặng” ứng với từ được, chúng ta cũng có thể viết “được ngồi trên, được ăn
trước, được hống hách thì mới thơi”. Tuy nhiên việc sử dụng phương ngữ đã
làm tăng tính gợi hình, gợi cảm cho câu văn và thể hiện rõ quan điểm của tác
giả về quan liêu những người mua quan bán tước. Đồng thời nó thể hiện một sự
xỉa xói, mỉa mai dành cho những kẻ khơng có tri thức mà dùng tiền để mua
chức quyền này.
3.2.2.Thao tác giải bài tập:
Bước 1: Vận dụng kiến thức về phương ngữ để giải quyết bài tập:


15


Theo Hồng Thị Châu trong thì phương ngữ được hiểu là tiếng địa
phương. Nó là một thuật ngữ ngơn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngơn ngữ
tồn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngơn
ngữ tồn dân hay so với một phương ngữ khác.
Bước 2: Xác định phương ngữ thuộc miền nào:
Cách nhận diện phương ngữ: cơ sở ngữ âm, cơ sở từ vựng.
Bước 3: Xác định từ tương ứng trong ngơn ngữ tồn dân:
Ở bước này cần xác định thông qua ngữ cảnh sử dụng từ trong câu văn.
Sau đó xác định nét nghĩa gần nhất với phương ngữ đã cho phù hợp với hoàn
cảnh của câu văn.
Bước 4: Nêu giá trị của từ trong đoạn văn:
Đến bước này bạn cần đọc lại toàn đoạn văn để hiểu nội dung và từ đó
suy luận ra được với phương ngữ này nó mang lại giá trị gì cho người đọc cảm
nhận cũng như biểu thị luận điểm của tác giả.
3.3.Bài tập 3:
Xác định trường từ vựng trong đoạn văn sau:
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước”.
3.3.1.Đáp án:
Trường từ vựng về người: đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ.

16



Trường từ vựng về vũ khí: súng, gươm, cuốc, thuổng, gậy gộc.
3.3.2.Thao tác giải quyết bài tập:
Bước 1: Vận dụng kiến thức của trường từ vựng để giải quyết bài tập.
Trường từ vựng là tập hợp hàng loạt đơn vị từ vựng có sự liên kết với
nhau theo một tiêu chí nhất định, các trường từ vựng được hình thành trên mối
quan hệ về nghĩa một cách đa chiều.
Bước 2: Tìm những từ có liên kết với nhau về nghĩa theo một tiêu chí nhất
định:
Để làm được điều này bắt buộc người học phải hiểu nghĩa của từ cũng
như có tư duy rộng về phạm vi nghĩa chung của các từ. Người học cũng có thể
dựa vào hồn cảnh bài viết; ví dụ như trường từ vựng vũ khí ở đây được xác
định trong bài viết theo cách viết của tác giả. Nếu như ngoài thực tại sẽ chia
cuốc, thuổng ra làm từ vựng về công cụ lao động.
3.4.Bài tập 4:
Ghép các từ ở cột A với từ trái nghĩa của từ đó ở cột B:

Cột A

Cột B

Chiến tranh

Người trẻ

Hy sinh

Hịa bình

Đứng


Đàn bà

Đàn ơng

Tồn tại

Người già

Ngồi

Giữ gìn

Thất bại

Thắng lợi

Hủy hoại

17


Thống nhất

Chia rẽ

3.4.1.Đáp án:
1. Chiến tranh —> Hịa bình
2. Hy sinh —> Tồn tại
3. Đứng —> Ngồi
4. Đàn ông —> Đàn bà

5. Người già —> Người trẻ
6. Giữ gìn —> Hủy hoại
7. Thắng lợi —> Thất bại
8. Thống nhất —> Chia rẽ
3.4.2.Các thao tác giải quyết bài tập:
Bước 1: Vận dụng kiến thức về từ trái nghĩa để giải quyết bài tập:
Từ trái nghĩa là kết quả của một trong những biện pháp tổ chức từ vựng
theo sự đối lập. Từ trái nghĩa là những từ khác nhau về mặt ngữ âm, đối lập về ý
nghĩa biểu hiện khái niệm tương phản về logic nhưng tương liên lẫn nhau tạo
thành cặp trái nghĩa
Bước 2: Suy luận về nét nghĩa trái với từ đã cho:
Khi làm bước này cần có tư duy trái chiều bao quát về từ vựng. Đối với
dạng bài này người ra đề đã cho sẵn những từ trái nghĩa nên người làm cần đọc
để biết được đâu là từ trái nghĩa ứng với từ đã cho.
Bước 3: Nối từ với từ trái nghĩa của nó.

18


3.5.Bài tập số 5:
Hãy tìm những từ đồng nghĩa với những từ được in đậm và tìm những cặp
từ trái nghĩa có trong những câu sau:
a) “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở
nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược
đến miền xi, ai cũng một lịng nồng nàn u nước, ghét giặc.”
b) “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi,
nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
c) Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước.
3.5.1.Đáp án:

a) Đồng nghĩa với từ “nhi đồng” là thiếu nhi, trẻ thơ, trẻ con…
Những cặp từ trái nghĩa trong câu văn là:
Cụ già >< Trẻ thơ,
Miền ngược >< Miền xuôi
Yêu >< Ghét.
b)

Đồng nghĩa với từ “Tổ quốc” là: đất nước, quốc gia, giang sơn.

Đồng nghĩa với từ “khó khăn” là: khổ cực, cơ cực, gian lao, gian nan,...
Cặp từ trái nghĩa trong câu văn là:
Xưa >< Nay
c)

Cặp từ trái nghĩa có trong câu văn là:

Ngày nay >< Ngày trước

19


3.5.2.Thao tác giải bài tập:
Bước 1: Đọc kỹ yêu cầu đề bài:
Để làm được bài tập này cần đọc kỹ yêu cầu để tránh hiểu sai ý của người
ra đề. Trong câu này có hai u cầu là tìm từ đồng nghĩa với từ được bơi đậm và
tìm các cặp từ trái nghĩa trong câu văn.
Bước 2: Hiểu về kiến thức từ đồng nghĩa và trái nghĩa:
Hiện tượng đồng nghĩa ở phạm vi từ vựng là hiện tượng các đơn vị từ
vựng giống nhau ở nghĩa sở biểu. Từ đồng nghĩa là những từ giống nhau hoặc
gần nhau về nghĩa, có vỏ ngữ âm khác nhau, biểu thị các sắc thái khác nhau của

khái niệm. Đơn vị đồng nghĩa để chỉ những từ đồng nghĩa và ngữ đồng nghĩa.
Những từ, ngữ đồng nghĩa với nhau tạo nên loạt đồng nghĩa.
Từ trái nghĩa là kết quả của một trong những biện pháp tổ chức từ vựng
theo sự đối lập. Từ trái nghĩa là những từ khác nhau về mặt ngữ âm, đối lập về ý
nghĩa biểu hiện khái niệm tương phản về logic nhưng tương liên lẫn nhau tạo
thành cặp trái nghĩa. Ví dụ: nơng- sâu, rộng- hẹp, xấu- tốt, xấu- đẹp…
Bước 3: Suy luận về từ gần nghĩa với từ đồng nghĩa và cặp từ trái nghĩa
trong câu văn:
Bởi từ in đậm cần tìm từ đồng nghĩa đã được cho trước nên cần tìm
những từ có nghĩa gần giống với từ đã cho.
Cặp từ trái nghĩa đã có sẵn trong câu văn nên chỉ cần đọc kỹ là sẽ tìm ra kết quả.
3.6.Bài tập số 6:
Hãy chỉ ra và miêu tả những nguyên âm được sử dụng trong các từ in đậm
trong đoạn văn dưới đây:

20



×