ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
______________***_____________
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chủ đề:
Câu 1: Anh (chị) hãy nêu các đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam
trước đây. Kể từ Đổi mới (1986) đến nay, các đặc trưng đó có những biến
đổi như thế nào?
Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày các đặc điểm chính của tín ngưỡng sùng
bái con người ở Việt Nam.
Giảng viên:
Mã lớp học phần: VNS4054
Nhóm thực hiện:
Lớp:
Hà Nội - 2022
1
Mục lục:
I.Các đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam:
4
1.Các loại hình tổ chức ở nơng thơn Việt Nam:
4
1.1. Tổ chức theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc:
4
1.2. Tổ chức nơng thơn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng:
4
1.3. Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường - Hội:
5
1.4. Tổ chức nơng thơn theo truyền thống nam giới: Giáp
5
1.5. Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thơn và Xã:
6
2.Đặc trưng cơ bản của nơng thơn Việt Nam trước đây:
7
2.1.Tính cộng đồng:
7
2.1.1. Khái niệm:
7
2.1.2. Biểu hiện truyền thống của tính cộng đồng là cây đa - giếng
nước - sân đình:
7
2.1.3. Ưu điểm:
8
2.1.4. Nhược điểm:
9
2.1.5 Vận dụng tìm hiểu tính cộng đồng qua truyện ngắn “Làng” của
nhà văn Kim Lân:
10
2.2. Tính tự trị:
11
2.2.1 Khái niệm:
11
2.2.2. Biểu hiện:
11
a) Tính tự trị của làng thể hiện trong mối quan hệ giữa làng với
làng:
11
b) Tính tự trị của làng thể hiện trong mối quan hệ giữa làng với
nước:
12
2.2.3. Ưu điểm:
12
2.2.4. Nhược điểm:
13
3.Sự biến đổi của đặc trưng văn hóa nơng thơn Việt Nam từ Đổi mới (1986)
đến nay:
14
3.1. Sự biến đổi của tính cộng đồng làng xã trong bối cảnh hiện nay: 14
3.2. Sự biến đổi của tính bảo thủ:
15
3.3. Sự biến đổi của tính tự trị, tự quản:
16
3.4. Sự biến đổi của tính cục bộ địa phương:
17
4.Vận dụng so sánh làng cụ thể trước và sau đổi mới ( biến đổi khơng gian
văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ):
18
4.1. Khơng gian văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ trước đây:
19
4.2. Biến đổi trong khơng gian văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện
nay:
19
2
4.3 Những bất cập trong khơng gian văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay:
20
II. Các đặc điểm chính của tín ngưỡng sùng bái con người ở Việt Nam:
1. Khái niệm:
2. Nguồn gốc:
3. Biểu hiện:
3.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
3.2. Thờ tổ nghề:
3.3. Thờ vua tổ ( vua Hùng):
3.4. Tục thờ thành Hoàng làng:
3.5. Tục thờ Tứ bất tử:
4. Ý nghĩa:
21
21
21
22
22
23
23
24
25
27
III. Kết luận:
28
IV. Tài liệu tham khảo:
28
3
I.Các đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam:
1.Các loại hình tổ chức ở nơng thơn Việt Nam:
1.1. Tổ chức theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc:
Cách tổ chức đầu tiên mà chúng ta dễ nhận biết nhất chính là theo huyết
thống. Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành
đơn vị cơ sở là gia đình và đơn vị cấu thành là gia tộc.1 Đối với người Việt họ
rất coi trọng những khái niệm liên quan đến gia tộc như tộc trưởng, nhà thờ họ,
gia phả, giỗ họ,... điều này cho thấy gia tộc có vai trị trở thành một cộng đồng
gắn bó cịn lớn hơn cả gia tộc. Làng và gia tộc ở Việt Nam nhiều khi trong tâm
thức người Việt như đồng nhất với nhau. Lý giải cho nguyên nhân này là bởi vì
họ sống theo lối đại gia đình “tam đại đồng đường”, “tứ đại đồng đường”. Ví dụ
điển hình cho hiện tượng này là những tên làng cịn lại là nơi ở của một họ như
Đặng Xá, Ngô Xá, Đỗ Xá, Trần Xá,...
Ở những gia tộc này họ tạo nên một sức mạnh lớn của tinh thần đùm bọc
và yêu thương, giúp đỡ nhau về trí tuệ, tinh thần, họ dìu dắt nhau và làm chỗ dựa
cho nhau về chính trị như trong câu “ một người làm quan cả họ được nhờ”.
Quan hệ này là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian. Nói rộng ra nó có tính tơn
ti rất chi li và phân biệt rạch rịi tới 9 thế hệ được gọi là cửu tộc:
Kị/Cố
Cụ
Ơng
Cha
Tơi
Con
Cháu
Chắt
Chút
Mối quan hệ này rất ít gặp trên thế giới, nó cịn có tơn ti gián tiếp như con
chú, con bác, anh, em họ được quy định rất nghiêm ngặt như bé bằng củ khoai,
cứ vai mà gọi. Chính tính tơn ti này dẫn đến mặt trái của nó là óc gia trưởng. Tổ
chức nông thôn theo huyết thống đi theo hướng coi trọng vai trị của gia đình hạt
nhân, ni dưỡng tính tư hữu.
1.2. Tổ chức nơng thơn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng:
Cách tổ chức thứ hai thể hiện bước phát triển của làng xã Việt Nam chính
là tổ chức nơng thơn theo địa bàn cư trú. Khi con người sống gần gũi nhau hơn
thì khả năng họ liên kết ngày càng chặt chẽ với nhau là lẽ tất yếu chính điều này
đã xây dựng nên khái niệm làng, xóm. Khi cơng xã thị tộc tan rã và chuyển
thành cơng xã nơng thơn thì các thành viên trong làng khơng chỉ gắn bó bằng
quan hệ máu mủ mà còn bằng quan hệ sản xuất. 2 Nhưng quan hệ này không
giống với phương Tây. Trong khi ở phương Tây gia đình sống có quan hệ nhưng
liên kết rất lỏng lẻo, mang nhiều tính chất xã giao thì ở Việt Nam lại rất gắn bó
chặt chẽ với nhau như trong câu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Giải
1 (Trần Ngọc Thêm, 1999, Tr.88)
2 (Trần Ngọc Thêm, 1999, Tr.91)
4
thích cho sự liên kết này chính là họ phải liên kết với nhau để đối phó với tự
nhiên, đáp ứng nhu cầu cần nhiều người trong nông nghiệp trồng lúa nước.
Ngồi ra, để đối phó với mơi trường xã hội, cả làng phải hợp sức với nhau để
đối phó với trộm cắp, thú dữ.
Loại hình tổ chức này dựa trên quan hệ hàng ngang, theo khơng gian. Bởi
vì muốn giúp đỡ nhau lâu dài thì phải quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nên
đây là biểu hiện của tính dân chủ. Có thể nói đây là biểu hiện sơ khai của tính
dân chủ trong làng xã nhưng nó cũng kéo theo một số thói hư, tật xấu như dựa
dẫm, ỷ lại, đố kị và thói cào bằng.
1.3. Tổ chức nơng thơn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường - Hội:
Phần lớn cư dân sinh sống trong một làng đều làm nơng nghiệp tuy nhiên
cũng có những làng nổi bật với những nghề khác nhau và bởi tính liên kết chặt
chẽ của họ khiến hình thành nên nguyên tắc tổ chức thứ ba được gọi là phường.
Chúng ta có thể kể đến nhiều phường ở nông thôn như phường gốm làm sành
sứ, phường chài chuyên nghề đánh cá, phường vải làm nghề dệt vải,...
Bên cạnh đó họ cũng mở rộng ra tổ chức liên kết được gọi là Hội, đây là
cách tổ chức liên kết những người trong làng theo sở thích, thú vui hoặc là đẳng
cấp. Ví dụ như hội bô lão liên kết các cụ ông, hội tổ tơm, hội chọi gà… Phường
và hội nghe có vẻ rất gần nhau nhưng phường thường có quy mơ nhỏ hơn và nó
mang tính chun sâu hơn.
Tổ chức nơng thơn theo nghề nghiệp và sở thích là sự liên kết theo chiều
ngang, cho nên đặc trưng của nó chính là tính dân chủ, những người trong một
phương, hội thường có trách nhiệm tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.
1.4. Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp
Đây được cho là hình thức xuất hiện khá muộn. Giáp ở đây chỉ những
người đàn ơng, và mang tính chất “cha truyền con nối”, cha ở giáp nào thì con
cũng vào giáp ấy. Theo hình thức tổ chức này đứng đầu là ông cai giáp (câu
đương), giúp việc cho cai giáp là ông lềnh - lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba (từ chữ
lệnh mà ra). Trong nội bộ của loại hình này phân biệt ba lớp chủ yếu: ti ấu là chỉ
từ nhỏ đến 18 tuổi, đinh và lão. Niềm vinh dự bậc nhất của thành viên trong
phương thức tổ chức này chính là được phong lên hàng lão. Tùy vào quy định
của từng làng sẽ quy định độ tuổi lên lão khác nhau thưởng là 60 tuổi, nhưng
cũng có những làng quy định độ tuổi lên lão này sớm hơn. Cách tổ chức này tuy
ra đời muộn nhưng lại mang truyền thống trọng tuổi già. Sở dĩ có nguyên tắc
này vì cư dân nơng nghiệp sống phụ thuộc vào thiên nhiên, cần người có kinh
nghiệm lâu năm để khuyên răn, chi bảo mà những hiểu biết này chỉ có những
người giàu trải nghiệm như các lão mà thôi.
5
Giáp là một tổ chức có tính hai mặt, vì nó vừa tổ chức theo chiều dọc (lớp
tuổi), vừa tổ chức theo chiều ngang ( những người cùng làng). Vì thế, một mặt
nó mang tính tơn ti theo cấp bậc để lên được bậc cao nhất là lão làng, một mặt
mang tính dân chủ vì những thành viên cùng lứa tuổi sẽ có địa vị như nhau.
1.5. Tổ chức nơng thơn theo đơn vị hành chính: Thơn và Xã:
Về mặt hành chính, làng được gọi là XÃ (đơi khi một xã cũng có thể gồm
vài làng), xóm được gọi là THƠN (đơi khi một thơn cũng thể gồm vài xóm).
Nơng thơn Nam Bộ cịn có ấp (ấp là xã thơn lập ra ở nơi mới khai khẩn hoặc
thôn ở biệt lập).3
Ở đây, trong xã có sự phân biệt giữa dân chính cư và dân ngụ cư. Tức là
những người gốc của làng và những người di cư đến. Chính sự phân biệt này đã
cho thấy được cơ chế nhằm hạn chế người dân bỏ làng ra đi, cũng như hạn chế
khơng cho người làng ngồi vào sống. Nó thể hiện truyền thống gắn bó với nơi
“chơn nhau cắt rốn” với quê hương. Hơn nữa, việc này nhằm duy trì sự ổn định
của làng, thể hiện ở điều kiện cho phép dân ngụ cư chuyển thành dân chính cư
khi họ ở làng ba đời trở lên và phải có một ít tài sản dưới dạng ruộng đất.
Dân chính cư trong xã chia làm 5 hạng:
Thứ nhất, chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm;
Thứ hai, chức dịch gồm những người đang làm việc trong xã;
Thứ ba, lão gồm những người thuộc hạng lão trong các giáp;
Thứ tư, đinh gồm trai đinh trong các giáp;
Thứ năm, ti ấu là hạng trẻ con của các giáp.
Chính nhờ biết dựa vào giáp như một tổ chức truyền thống hoàn toàn tự
nguyện và rất ổn định (do mang tính cha truyền con nối) nên bộ máy hành chính
của các làng xã Việt Nam cổ truyền rất gọn nhẹ. Đứng đầu ban lý dịch này là lý
trưởng hay xã trưởng); dưới ông ta có phó lí (giúp việc), hương trưởng (lo việc
cơng ích) và trương tuần (hay xã tuần, lo việc an ninh tuần phòng). Phương tiện
quản lý chủ yếu của lý dịch chỉ có hai loại sổ: sổ đinh và sổ điền: một tay nắm
nhân lực (trai đinh), và một tay nắm kinh tế (ruộng đất). 4 Cách thức tổ chức bộ
máy hành chính xã thơn Việt Nam như vậy đã được hình thành dần dần như một
sản phẩm lịch sử của q trình phát triển văn hóa dân tộc.
Ta có thể thấy được sự phân biệt giữa dân chính cư và ngụ cư trong tác
phẩm “Đảo của dân ngụ cư” của nhà văn Đỗ Phước Tiến được nhà văn Nguyễn
Quang Lập chuyển thể thành kịch bản điện ảnh. Bộ phim cho thấy được, ở
3 (Trần Ngọc Thêm, 1999, Tr.94)
4 (Trần Ngọc Thêm, 1999, Tr.95)
6
những nơi càng khắc nghiệt, càng bị trói chặt bằng những luật lệ, thì sự phản
kháng càng dữ dội và mất kiểm soát. Đảo của dân ngụ cư giống như cuốn phim
về những bí bách của cả một xã hội thu nhỏ trong một căn nhà. Chẳng có một
hịn đảo nào trong phim, mà chính sự giam cầm của những con người đa sắc tộc,
giai cấp tại Đêm Trắng chính là hòn đảo biệt lập. Đảo của những kẻ ngụ cư tìm
nơi an trú, bán sức bán mình để kiếm miếng cơm, tự gom cho mình chút ít ỏi đê
mê để rồi lại rời đi vào một ngày nào đó mà khơng thể nào hạnh phúc. 5 Từ đó,
cho thấy được cuộc sống bấp bênh, bị khinh miệt của dân ngụ cư.
2.Đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam trước đây:
2.1.Tính cộng đồng:
2.1.1. Khái niệm:
Tác giả Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa “Tính cộng đồng là sự liên kết các
thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại”.6
Theo cách hiểu này, mỗi người trong cộng đồng đều hướng tới và vì
người khác và kết quả của việc này dẫn tới có sự liên kết trong làng. Đây được
cho là tính cộng đồng làng, cấp độ nhóm lớn. Theo quan niệm này thì tính cộng
đồng chính là đặc trưng tâm lý của một nhóm. 7 Nhờ những đặc điểm tâm lý
chung của một nhóm mà những hoạt động của nhóm được thực hiện tốt hơn và
hiệu quả hơn.
2.1.2. Biểu hiện truyền thống của tính cộng đồng là cây đa - giếng nước sân đình:
Mỗi chúng ta đều sinh ra và lớn lên từ làng, bởi vậy những hình ảnh như
cây đa, bến nước, sân đình đều quá quen thuộc trong tâm thức mỗi người. Chúng
gợi lên những ký ức thân thương và gần gũi nhất trong mỗi con người. Bên cạnh
gia trị về mặt tinh thần, cây đa, bến nước sân đình cịn là 3 biểu tượng bao trùm
làng quê Bắc bộ, khắc họa rõ nét nếp sinh hoạt của làng quê từ ngàn năm nay. 8
Đình làng: thời xưa, làng nào cũng có một cái đình là biểu tượng tập trung
nhất của làng về mọi lĩnh vực. Đình là trung tâm hành chính, là nơi tổ chức hội
họp, thu thuế, xử tội…Đình là trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các lễ hội, ăn
uống, biểu diễn các hình thức nghệ thuật (tuồng, chèo…). Đình cịn là trung tâm
về tơn giáo, là nơi thờ Thành Hồng làng. Thành Hồng làng là người khai lập
ra nơi đó, là người bảo trợ của dân làng, và được dân làng suy tơn. Đình cịn là
5 (Phúc Du, 2017).
6 (Trần Ngọc Thêm, 2001, Tr.191)
7 (Lê Văn Hào, 2004, Tr.12)
8 (Quỳnh Thư, 2018).
7
vết tích cịn lại từ thời nhà dài, nhà làng, nhà rông. Làng thôn Việt Nam được tổ
chức theo hang Giáp, nên đình trở thành nơi lui tới của nam giới. Có thể nói
Đình là biểu tượng của tính cộng đồng cao.
Giếng nước là nơi giặt giũ, nói chuyện và giao tiếp của phụ nữ.
Cây đa theo quan niệm phương Đơng là nơi hội tụ thần thánh, hội tụ khí
“thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo bồ đề”. Gốc đa là nơi nghỉ chân, tránh nóng
của khác qua đường, là nơi giao tiếp của làng với bên ngồi.
Có thể thấy không gian cố kết cộng đồng thời xưa luôn được đề cao bởi
hình ảnh cây đa - giếng nước - sân đình. Đây khơng chỉ là khơng gian truyền
thống làng xã mà cịn là nét văn hóa đẹp một thời của nơng thơn Việt Nam.
2.1.3. Ưu điểm:
Tính cộng đồng có một số ưu điểm như sau:
- Tinh thần đồn kết, tương trợ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau:
Cuộc sống của người Việt ln phải gắn kết và gắn bó với nhau vì họ
sống phụ thuộc vào tự nhiên. Chỉ có kết hợp lại họ mới có thể vượt qua được
những thách thức lớn từ thiên nhiên này. Từ đó, hình thành nên nét đặc trưng
của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng. Tính cộng đồng chú trọng sự đồng nhất
đồng nhất (giống nhau- “cùng hội cùng thuyền”, “cùng cảnh ngộ”) cho nên
người Việt Nam ln sẵn sàng đồn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi
người trong cộng đồng như anh chị em trong nhà: “tay đứt ruột xót”, “ chị ngã
em nâng”, “lá lành đùm lá rách”.
Đặc trưng văn hóa gốc nơng nghiệp là trọng tình. Trong quan hệ cũng như
ứng xử với môi trường tự nhiên, xã hội đều lấy cái tình làm trọng. Con người
Việt Nam có tinh thần yêu nhà, yêu làng, yêu nước (bởi lối sống định cư, quần
tụ); sống trọng tình nghĩa (vì phải dựa vào nhau, tương trợ, chia sẻ nhau trong
cuộc sống và trong lao động.
Tính tập thể, hịa đồng, nếp sống dân chủ, bình đẳng:
Do đồng nhất (giống nhau) cho nên người Việt Nam ln có tính tập thể
rất cao, gắn bó với tập thể, hịa đồng vào cuộc sống chung của tập thể. Sự đồng
nhất (giống nhau) cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ - bình đẳng
bộc lộ trong ngun tắc tổ chức nơng thơn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp,
theo Giáp.
Tính cần cù, chịu khó, chịu khổ:
Đây cũng bắt nguồn từ sự phụ thuộc vào tự nhiên. Cần cù trong lao động
(lấy cần cù để bù lại những khó khăn, cản trở của điều kiện tự nhiên, của
8
phương thức sản xuất nông nghiệp cổ truyền); giỏi chịu đựng gian khổ (vì điều
kiện tự nhiên khơng phải lúc nào cũng thuận lợi; hạn hán, lũ lụt dễ xảy ra, con
người dễ gặp bất trắc, hiện nay ta tâm lý “sống chung với lũ”)...
Như vậy, ở một mặt nào đó ta thấy chính tính cộng đồng đã tạo ra được
những đức tính siêng năng, cần cù, đồn kết của người Việt.
2.1.4. Nhược điểm:
Tuy dù tính cộng đồng mang lại những ưu điểm nhất định, nhưng bên
cạnh đó chính đặc trưng này đã làm thành nhược điểm, những phẩm chất của
con người Việt Nam. Chẳng hạn, nền nông nghiệp lúa nước là đặc trưng văn hoá
của ta, nhưng cũng từ đó hình thành tâm lý tiểu nơng (sản xuất nhỏ, manh mún,
ít có tầm nhìn xa, bảo thủ); lối sống coi trọng tình nghĩa là mặt tốt, nhưng cũng
từ đó nảy sinh mặt trái là tính tùy tiện, ít trọng lý, ít trọng ngun tắc, xuề xồ,
hồ cả làng… Vì thế bên cạnh những mặt tích cực, tính cộng đồng cịn có mặt
hạn chế sau:
Sự thủ tiêu vai trị cá nhân:
Hầu như người việt khơng có thói quen xưng tơi trong xã hội, và trong
một tập thể luôn lấy ý kiến số đơng làm trọng từ đó làm giảm đi vai trò của cá
nhân. Cách giải quyết xung đột theo lối hòa cả làng là hết sức phổ biến. Điều
này khác hẳn với truyền thống văn hóa phương Tây, nơi con người được rèn
luyện ý thức về cá nhân từ khi còn nhỏ, đến tuổi thành niên, con người đã hồn
tồn sống tách biệt khỏi gia đình; chính vì vậy mà khi về già người phương Tây
thường cơ đơn, cịn cụ già Việt Nam thì sum vầy trong tình cảm của đàn con
cháu.
Thói dựa dẫm, ỷ lại; tư tưởng cầu an, cả nể:
Chính sự đồng nhất trong tập thể cũng làm cho một cá nhân luôn ỷ lại vào
tập thể, tư tưởng cầu an và ỷ lại: nước trơi thì bèo trơi, nước nổi thì thuyền nổi.
Tệ hại hơn nữa là tình trạng “cha chung khơng ai khóc, lắm sãi khơng ai đóng
cửa chùa….”. Tính cộng đồng q cao làm con người ta cảm thấy nó khơng q
coi trong với bản thân mỗi người từ đó làm xã hội khơng thể phát triển. Cùng
với thói dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng cầu an (an phận thủ thường) và cả nể, làm gì
cũng sợ rút dây động rừng nên có việc gì thường chủ trương đóng cửa bảo
nhau…
Thói cào bằng, đố kị:
Nhược điểm này thể hiện ở việc không muốn cho ai hơn mình, khi thấy
người ta hơn mình là bắt đầu đố kị và nói xấu: xấu đều hơn tốt lỏi; khôn độc
không bằng ngốc đàn; chết một đống còn hơn sống một người… Để cho tất cả
đều “như nhau”, một thời, đã có khơng ít những cơ quan, xí nghiệp điềm nhiên
9
treo cao khẩu hiệu: Tất cả dàn hàng ngang cùng tiến. Vì vậy, nó tạo nên một xã
hội khơng thể phát triển và khơng khuyến khích sự phát triển và luôn bằng bằng
nhau.
Những hạn chế trên đều xuất phát từ tính cộng đồng. Từ đó khái niệm
“giá trị” trở nên hết sức tương đối, khẳng định đặc điểm của tính chủ quan trong
lối tư duy nơng nghiệp.
2.1.5 Vận dụng tìm hiểu tính cộng đồng qua truyện ngắn “Làng” của nhà
văn Kim Lân:
Văn học cổ xưa ít đề cập đến thân phận cá nhân, chủ yếu đề cao tính cộng
đồng. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dường
như hình tượng tập thể được tơ đậm và lấn át hình ảnh cá nhân. Sau hịa bình
thống nhất, những bi kịch về thân phận cá nhân đã được đề cập đến nhiều hơn.
Cũng như vậy truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân cho ta thấy những biểu
hiện rõ nét về tính cộng đồng này.
Nhân vật chính của truyện là ông Hai, ông là người dân của làng chợ Dầu,
lúc nào cũng khoe khoang hãnh diện về làng của mình. Khi phải xa làng đến nơi
tản cư ông đã mang theo nỗi nhớ thương, trông ngóng về ngơi làng của mình.
Ơng nhớ da diết những ngày cùng người dân làng vác gậy đi tập, những hố, ụ,
hào lắm cơng trình chống giặc khơng kể xiết. Tới khi ông phải nghe tin dữ rằng
làng của mình theo Tây, ông không dám tin nhưng vẫn mặc cảm và tủi hổ về
làng của mình. Ơng lúc này cảm thấy bế tắc chỉ ru rú ở trong nhà, ám ảnh nỗi
xấu hổ và nhục nhã nhưng cuối cùng ông đã gạt phắt đi “Làng thì yêu thật,
nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nút thắt của câu chuyện được gỡ khi ông
nhận được tin cải chính và ông sung sướng ngay cả khi nhà mình bị Tây đốt vui
mừng đi kể cho người dân trong lang răng “ Tây nó đốt nhà tơi rồi, đốt nhẵn”.
Qua câu chuyện này có thể thấy được tình u làng, u nước của người
nơng dân Việt Nam ngày trước. Bên cạnh đó cịn thể hiện được tính cộng đồng
khi người dân cùng nhau đào hào, ụ chống quân xâm lược. Hay khi nghe làng
theo Tây cảm giác đau đớn và lúc đó phải đặt tình yêu nước lên trên. Có thể nói
qua những tác phẩm này giúp chúng ta hiểu một cách chân thực hơn về tính
cộng đồng trong văn hóa làng xã của người Việt trước đây.
2.2. Tính tự trị:
2.2.1 Khái niệm:
Tính tự trị là một đặc điểm lớn của làng xã Việt Nam truyền thống, đó là
“tự điều chỉnh-tự điều khiển của làng xã trong quá trình vận động của kinh tế xã
10
hội. Tự điều chỉnh, tự điều khiển là ít chịu sự can thiệp trực tiếp của các cấp
chính quyền bên trên, là sự vận hành đa tuyến của xã hội dân sự”9.
Như vậy, có thể nói tính tự trị ở đây của làng xã Việt Nam là sự tồn tại
một cách biệt lập giữa các làng, đồng thời cũng là sự độc lập giữa làng với trung
ương và chính quyền.
2.2.2. Biểu hiện:
a) Tính tự trị của làng thể hiện trong mối quan hệ giữa làng với làng:
Về địa vực:
Hầu hết ở nông thôn Việt Nam trước đây mỗi làng đều có phạm vi của
làng rất rõ ràng. Làng nào cũng có cột mốc ranh giới lãnh thổ rõ ràng thường là
hình tượng lũy tre và cổng làng. Nếu vì một lý do nào đó mà dẫn tới sự thay đổi
về ranh giới này có thể dẫn đến những cuộc tranh giành lãnh thổ đẫm máu.
Ngồi ra, địa vực cịn thể hiện ở “dân chính cư” và “dân ngụ cư” như tơi đã đề
cập ở trên. Có một sự phân biệt lớn giữa dân chính của làng và những người di
cư từ làng khác đến. Tất nhiên họ có thể được trở thành dân chính cư với một số
điều kiện nhất định nhưng vẫn rất khó khăn.
Về văn hóa tín ngưỡng:
Trong đặc trưng văn hóa ở nơng thơn Việt Nam ln có câu “Trống làng
nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Đúng như vậy, đình là nơi sinh
hoạt văn hóa của cả làng vừa mang tính cộng đồng, hơn nữa mỗi làng có một
ngơi đình thờ một vị thành hồng điều này thể hiện tính tự trị. Bên cạnh đó, mỗi
làng có những tính cách và lễ hội khác nhau được thể hiện trong các câu tục ngữ
như “Chua ngoa là đất Kẻ Đình, dài váy Đốc Tín, cậy mình Kẻ Siêu”, hay Văn
chương Xuân Mỹ, lý sự Thủy Khê”,...
Về lệ tục của làng:
Điều này thể hiện rất rõ qua hương ước làng. Mỗi làng đều có một hương
ước và những quy định riêng. Nhiều khi hương ước của làng này không giống
với làng khác là điều rất bình thường. Mặt khác, trải qua một thời gian hương
ước của làng sẽ khơng cịn phù hợp và được sửa đổi nhưng nhiều khi làng xã
khơng trình báo lên chính quyền cấp trên. Điều này càng làm tăng tính khác biệt
của các lệ tục làng xã.
b) Tính tự trị của làng thể hiện trong mối quan hệ giữa làng với nước:
Qua tính chất quản lý bộ máy làng xã:
Mỗi làng xã có hai cơ quan quản lý. Một là cơ quan nhà nước, đứng đầu
là các xã quan (xã trưởng, sau này là các lý dịch: lý trưởng, phó lý, hương thân,
hương hào, khán thủ, hương trưởng) và thứ hai là hội đồng kỳ mục đứng đầu là
9 (Phan Đại Doãn, 2004, Tr.87)
11
các tiên thứ chỉ thường là quan lại về hưu, người cao tuổi. Nhưng thực tế cho
thấy các lý dịch không bao giờ được nắm quyền tối hậu trong mọi việc của làng.
Vai trò đứng đầu thuộc về tiên chỉ, thứ chỉ hay hương chủ. Hay hội đồng chức
dịch chỉ đóng vai trị là bộ phận trung gian giữa làng xã và nhà nước. Như vậy,
tính tự trị thể hiện rất rõ trong bộ máy quản lý làng xã, một khi bộ máy này cịn
mạnh mẽ thì khơng thể xóa bỏ bộ máy mang tính tự trị này.
Qua hương ước:
Người xưa thường có câu, “phép vua thua lệ làng”, ở đây hương ước ra
đời chính là văn bản hóa lệ làng. Khi lệ làng được đặt ra và tạo ra những cộng
đồng và chính sách riêng trong làng gây nên một nỗi lo lớn đối với chính quyền
nhà nước. Lúc này nhà nước thỏa hiệp với làng xã để các làng xã khơng nên
khốn ước riêng mà nên thực hiện theo luật nhà nước. Ở đây ta thấy được sự can
thiệp hai mặt của nhà nước, vừa ngăn cản vừa lợi dụng hương ước để can thiệp
vào làng xã. Thường thì hương ước thi hành theo ngun tắc khơng trái với luật
nhà nước. Nhưng đơi khi vẫn xảy ra tình trạng lệ làng được coi trọng hơn luật
nhà nước. Người phạm tội sẽ bị nhà nước xử theo luật nước đồng thời làng sẽ xử
theo lệ làng. Có thể thấy hương ước ra đời là kết quả của sự thỏa hiệp giữa tính
tự trị của làng xã và tính áp chế của chính quyền nhà nước. Nó thể hiện rõ tính
tự trị của làng xã đối với nhà nước.
2.2.3. Ưu điểm:
Tác động tích cực nhất mà tính tự trị mang đến đó chính là sự cố kết, đồn
kết chặt chẽ mà khó có thế lực nào có thể phá vỡ. Nó làm nên sức sống lâu bền
của làng. Điều này thể hiện rõ khi dân ta đánh giặc ngoại xâm các đơ thị nhanh
chóng rơi vào tay giặc nhưng làng thì khơng. Như giáo sư Trần Quốc Vượng đã
nói “1000 năm Bắc thuộc, ta giành lại được độc lập là do ta mất nước nhưng
khơng mất làng”. Có thể nói mỗi làng là một pháo đài kiên cố chống giặc ngoại
xâm.
Hơn nữa, làng là nơi lưu giữ và góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa
dân tộc. Bởi vì mỗi làng lại có một nét văn hóa, cá tính đặc sắc riêng biệt. Nó
khơng bị xóa bỏ bởi văn hóa làng khác hay chính quyền cấp cao.
Như vậy, với tính tự trị của mình, làng xã là nơi bảo lưu tốt nhất những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta như truyền thống yêu nước, chống
giặc, hiếu học hay nhân nghĩa,...
2.2.4. Nhược điểm:
Bên cạnh đó, tính tự trị cũng mang đến những hạn chế nhất định, đầu tiên
đó là cơng cụ để chính quyền nhà nước bóc lột nơng dân. Trong thời kỳ phong
kiến làng là công cụ để thu cống phú, thuế má, binh dịch. Đến thời Pháp thuộc,
12
khi đặt nền đô hộ nước ta, chúng đã lợi dụng bộ máy và cơ chế quản lý cũ của
làng xã để vơ vét tiền của của nhân dân.
Thứ hai, tính tự trị của làng xã ln có xu hướng làm cho làng xã hoạt
động độc lập hoàn toàn, xa rời quỹ đạo quản lý của nhà nước. Tuy dù trong thời
chiến nó trở thành pháo đài kiên cố để chống ngoại xâm nhưng khi đến thời bình
nó sẽ làm nhà nước khó khăn trong việc quản lý của mình.
Thứ ba, chính tính tự trị là nguồn gốc của chủ nghĩa địa phương và cục
bộ. Nó hình thành “tâm lý làng”,”giá trị làng” và chỉ cho rằng làng mình là hơn
cả. Nó được thể hiện trong các câu như “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn”,... Xâu xa hơn nhiều khi nó cũng gây những xung đột khơng đáng
có giữa các làng chỉ để bảo vệ lợi ích của làng mình. Ngồi ra, tính cục bộ này
nó làm nổi bật lên tình trạng các chức sắc khai man để thu lợi về túi của mình.
Những điều này gây ra nhiều nhũng nhiễu trong làng xã.
Cuối cùng, làng xã có thể làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc nhưng
nhiều khi vẫn cịn những hủ tục mang tính “thăm căn cố đế” khơng dễ dàng xóa
bỏ vì nhà nước khơng thể can thiệp vào. Như những hủ tục như bắt vợ, trọng
nam khinh nữ, đông con nhiều của,.. mà đến nay nhà nước vẫn rất khó khăn để
xóa bỏ được hết những hủ tục này.
Trong suốt thời gian dài, Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận tính tự trị của
làng xã và phát huy tối đa vai trị của nó trong tổ chức bộ máy chính quyền. 10
Tính tự trị là một trong những đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam, nó vừa có
tính tích cực và chứa đựng cả những yếu tố tiêu cực nhưng khơng thể phủ nhận
rằng, tính tự trị góp phần khơng nhỏ tạo nên sự gắn kết chặt chẽ của làng xã và
giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa đặc trưng riêng của
mỗi làng Việt.
3.Sự biến đổi của đặc trưng văn hóa nơng thơn Việt Nam từ Đổi mới
(1986) đến nay:
3.1. Sự biến đổi của tính cộng đồng làng xã trong bối cảnh hiện nay:
Lịch sử đã chứng minh rằng ưu điểm của tính cộng đồng là dễ quy tụ
được một tập thể đồn kết, gắn bó để đạt được mục tiêu chung. Nó xuất phát từ
bản tính ngun thủy của con người. Con người từ khi cịn “ăn lơng ở lỗ” đã biết
kết hợp lại với nhau thành một cộng đồng để cùng nhau vây quanh những con
thú lớn như trâu, bò, kể cả sư tử để khống chế, và đem lại nguồn thức ăn cho
một cộng đồng người. 11 Cũng từ đó mà dần dần hình thành các mơ hình xã hội
từ dạng sơ khai cho đến phức tạp và phát triển cao như ngày nay. Cũng nhờ chủ
10 (Vũ Duy Mền & Phan Đăng Thuận, 2022)
11 (Yuval, 2014, Tr52-57)
13
nghĩa tập thể mà dân tộc Việt Nam ta có thể bảo vệ và xây dựng đất nước từ thời
kỳ các vua Hùng cho đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Sau thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp của nhà nước bị xóa bỏ thì văn
hóa làng xã và chủ nghĩa tập thể có những thay đổi tích cực. Văn hóa làng xã trở
thành một trong những tiêu chí hàng đầu để xác định và phân biệt diện mạo của
làng này với làng khác. Từ đây làng trở thành chủ thể của văn hóa thơng qua văn
hóa làng chúng ta có thể khám phá ra văn hóa chung của cả lang. Đây cũng là
yếu tố then chốt để phân biệt làng này với làng khác nhằm khẳng định những nét
văn hóa riêng của “người làng mình”.
Mặt khác, trong tính cộng đồng của làng xã hiện nay thường rất coi trọng
học vấn, dạy bảo con cháu trong làng, biết ăn ở có nghĩa tình làng xóm. Đây là
một việc làm cần phát huy để bảo vệ những đặc điểm tích cực của làng xã.
Bên cạnh đó, hiện nay khi xã hội chuyển sang kinh tế thị trường, vai trị
của gia tộc bị phá vỡ thay vào đó là vai trị quan trọng của gia đình hạt nhân và
kinh tế của gia đình hạt nhân. Tính cộng đồng dần mất dần về vai trò kinh tế,
những hợp tác xã nông nghiệp dần chuyển thành kinh tế hộ gia đình và trang trại
theo hướng hiện đại.
Trước đây, quan hệ dòng tộc trong làng xã là mối quan hệ theo hàng dọc
với tính tơn ti trật tự nghiêm ngặt, khép kín. Cho đến nay vẫn có tác động vơ
cùng quan trọng đến cách ứng xử của cộng đồng làng xã. Nhà thờ họ, giỗ họ là
những nơi, những lúc các thành viên trong gia tộc có dịp suy ngẫm sâu sắc về
bản thân mình, tưởng nhớ đến cơng ơn, lời dạy của các bậc cha ơng để giữ gìn,
kế tục và phát triển gia phong.
Khi xét về điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sơng nước, nơng
nghiệp trồng lúa nước...) đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa vật chất
và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam. Xã hội nông
nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo
dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy
lưỡng hợp, một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý,
ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ
thích nghi.
Như vậy, tính cộng đồng làng xã hiện nay đã có những sự biến đổi tích
cực phù hợp với xã hội hiện đại, song nó vẫn đóng một vai trị quan trọng trong
văn hóa làng xã, kinh tế ở làng, giáo dục truyền thống cho thế hệ sau và tơ đậm
đặc điểm của văn hóa làng xã Việt Nam.
14
3.2. Sự biến đổi của tính bảo thủ:
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở nơng thơn thì ruộng đất
manh mún, môi trường sinh thái ngày càng suy giảm, giá nông sản không ổn
định, thu nhập và đời sống nông dân thấp và tăng rất chậm so với thành thị, tình
trạng thiếu đất, thiếu việc làm ngày càng nhiều... Chính hiện tượng này đã và
đang là “áp lực”, thách thức lớn “đè nặng” lên tâm lý người dân ở nông dân. Với
những tác động mạnh của các quy luật kinh tế thị trường thì vẫn tồn tại một bộ
phận dân cư trong đó có nơng dân có tâm lý “sính ngoại”, có lối sống thực dụng,
coi nhẹ các giá trị văn hóa truyền thống.
Trong truyền thống, đặc điểm tâm lý người nông dân là yêu quê hương
đất nước, gắn bó với lũy tre làng, trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, người nông dân vừa phải cày cấy, vừa phải chống chọi với thiên nhiên và
chống giặc ngoại xuân dù hoàn cảnh nào họ vẫn bám trụ q cha đất tổ đồn kết
gắn bó cộng đồng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, tình nghĩa thủy chung đã trở
thành lẽ sống của người nông dân. Hiện nay, tác phong, lối sống công nghiệp,
hiện đại đang trở thành lối sống phổ biến trong lớp thanh niên nông dân được
tiếp xúc với xã hội bên ngoài, được học tập có hệ thống niềm tin vào lý tưởng,
bộ mặt của làng xã Việt Nam đã những chuyển đổi tích cực.
Tuy nhiên hoàn cảnh xã hội thay đổi đã làm nảy sinh và nuôi dưỡng tư
duy manh mún, tản mạn (thiếu khả năng khái qt tổng hợp) của người nơng
dân. Chính vì vậy mà họ chỉ thấy lợi trước mắt, khơng thấy lợi lâu dài, chỉ thấy
lợi ích cá nhân, khơng thấy lợi ích tập thể... Thói “lười biếng” suy nghĩ và tính
tốn, tính ỷ lại và bảo thủ, sự sùng bái kinh nghiệm và “coi thường” lớp trẻ là
sản phẩm lâu dài của nền kinh tế tiểu nông mà dù muốn hay khơng người nơng
dân vẫn đang cịn lưu giữ.
Trong nền kinh tế tiểu nông, “Lão nông tri điền”, “sống lâu lên lão làng”,
“đất lề quê thói”, “phép vua thua lệ làng” đã trở thành thói quen ứng xử phổ
biến. Hơn nữa, sống trong chế độ phong kiến dưới sự thống trị của chế độ đẳng
cấp, tôn ti, trật tự Nho giáo, người nông dân coi lớp trẻ như là loại “trứng khôn
hơn vịt”, “khôn ba năm dại một giờ thiếu ý thức kỷ luật lao động và “thừa” tính
đố kỵ, ganh ghét, cục bộ, bản vị địa phương cũng là một đặc điểm tâm lý nổi bật
của nông dân. Người nông dân (tư hữu nhỏ) sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên
“nắng mưa bất thường” và “tùy hứng” cá nhân đã trở thành thói quen phổ biến ở
làng xã Việt Nam.
15
3.3. Sự biến đổi của tính tự trị, tự quản:
Nếu như trước đây, lũy tre làng vẫn được coi như một biểu tượng khơng
thể thiếu của làng xã thì hiện nay, làng xã khơng cịn được bao bọc khép kín mà
là một đơn vị dân cư mở. Mỗi xã là một đơn vị hành chính cấp nhỏ nhất trong
bốn cấp của nhà nước. Lũy tre làng khơng cịn là “bức tường” để ngăn cách giữa
các làng với nhau, vì vậy nó dần bị thay thế bởi những cơng trình hiện đại khác.
Với tác động của tồn cầu hóa và đơ thị hóa, cổng làng với những giá trị
truyền thống dần biến mất thay vào đó là những cổng làng hồnh tráng, phơ
trương, nhiều khi đó là sự “chạy đua” của các làng với nhau. Khác với chức
năng xây dựng để kiểm soát người ra vào làng trước đây. Hiện nay cổng làng là
một chiếc cổng mọi người có thể tự do đi lại.
Hương ước là lệ làng được văn bản hóa, quy định chặt chẽ về cơ cấu tổ
chức, yêu cầu công khai, minh bạch về mọi mặt đời sống của người dân ở nông
thôn. Hiện nay hương ước vẫn được soạn thảo và đọc ở đình làng nhưng những
điều khoản khơng cịn phù hợp sẽ được sửa đổi. Khác với sự đóng cửa, khép kín
của làng xã truyền thống, làng xã hiện nay nói chung là mở, là của nông dân,
công dân, cán bộ và các thành phần xã hội khác, bình đẳng dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của chính quyền nhân dân. Chính vì sự thay đổi ấy nên hương
ước cũng phải đổi mới. Hương ước của làng xã hiện đại phải kế thừa quy tắc:
phù hợp với pháp luật, vận hành theo pháp luật Nhà nước, nhưng lại có những
biện pháp hữu hiệu, cụ thể phù hợp với từng địa phương, phát huy tính tự quản,
bình đẳng, dân chủ của nhân dân. Và một thực tế hiện nay cho thấy nông dân
vẫn chưa mất đi thói quen sống với tập quán, với lệ làng, nên hiệu lực thực tế
của pháp luật Nhà nước ở nơng thơn chưa cao. Vậy nên hương ước vẫn có vai
trị, thậm chí giữ vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội ở
nông thôn. Như vậy, hương ước với tư cách là một công cụ quản lý của cộng
đồng dân cư đã phát huy được vai trò quyền lực của Nhà nước. Thế nhưng, các
hương ước khơng cịn thể hiện được đặc trưng của các làng mà khá giống nhau,
thậm chí chỉ thay đổi tên làng.
Đình làng cũng như tục thờ Thành hồng làng là đặc trưng của làng quê
Việt Nam. Tuy nhiên tục thờ Thành hoàng làng từng bị gián đoạn do chiến tranh
kéo dài. Hiện tại, tín ngưỡng thờ Thành hồng làng khơng cịn bị bó hẹp ở phạm
vi “thánh làng nào làng ấy thờ” mà mở rộng ra cho cả người dân làng ngồi
được tham gia. Thế nhưng, chính vì thế mà hiện nay nảy sinh một số vấn đề
phức tạp như “bn thần bán thánh’, thương mại hóa văn hóa, xây dựng các
16
cơng trình nhằm trục lợi lơi kéo khách du lịch. Một số nơi cịn tái tạo sự tích
thần Thành hồng làng sai lệch “râu ông nọ cắm cằm bà kia” gây ảnh hưởng đến
truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Việc tổ chức lễ hội ngày nay ở các làng
cũng bị biến đổi khá rõ. Cộng đồng làng ủy thác cho ban tổ chức gồm các thành
viên có uy tín và tâm huyết với cộng đồng thực hiện chứ khơng chọn các vị
trưởng thượng, cao niên, người có vai vế. Việc thực hành nghi lễ cũng có thay
đổi phù hợp với cuộc sống đương đại bớt rườm rà và bổ sung thêm các hoạt
động mới mẻ.
Nhìn chung, tuy các làng cần có sự thay đổi phù hợp với lối sống mới
trong thời kỳ đổi mới, hiện đại hóa nhưng vẫn cần giữ lại những nét đẹp văn hóa
đặc sắc của dân tộc. Q trình mở cửa có sự xâm nhập của nền văn hóa ngoại lai
làm cho văn hóa truyền thống có thể bị mai một. Điều này đặt ra thách thức
trong việc bảo vệ và phát triển các giá trị truyền thống của làng Việt.
3.4. Sự biến đổi của tính cục bộ địa phương:
Do hồn cảnh lịch sử quy định, ai cũng có thể có tư tưởng cục bộ địa
phương với những mức độ khác nhau. Chúng ta xuất thân từ làng quê, chịu ảnh
hưởng tư tưởng nông dân của nền sản xuất nhỏ, tự túc, tự cấp lâu đời, khơng
quen với tầm nhìn xa, trơng rộng, mặc dầu có học tập nhiều, rèn luyện nhiều
cũng khó mà gột rửa hết tư tưởng cục bộ địa phương.
Chủ nghĩa cục bộ địa phương còn thể hiện ở thái độ khơng quan tâm đến
lợi ích chung, chỉ nhăm nhăm tìm cách mang lợi cho địa phương mình, cơ quan
mình, dịng họ mình, cho dù việc làm đó khơng hợp lý. Nó cịn được thể hiện
trong cách nghĩ “một người làm quan cả họ được nhờ”. Khi dòng họ, địa
phương có người được “làm to” tìm mọi cách “chăm lo” cho họ hàng, dịng tộc,
địa phương, làm ảnh hưởng khơng tốt tới quyền, lợi ích chính đáng của số đơng.
Đây là minh chứng rõ nhất cho thấy tư tưởng cục bộ địa phương ăn sâu, ngấm
lâu trong tiềm thức, lời nói và hành động của khơng ít cán bộ, thậm chí cả người
dân ở vùng sâu, vùng xa.
Như vậy, văn hóa làng – xã chính là hệ thống những giá trị hình thành qua
bao đời trong tồn bộ các hoạt động đó, và đến lượt mình, nó cũng chính là cơng
cụ, là phương tiện tổ chức và duy trì tồn bộ các hoạt động này. Nó đi vào ký ức
người Việt Nam bằng hàng loạt những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi và
thân thương.
17
Có thể nhận thấy rằng, trong bối cảnh hiện nay, sức sống tiềm tàng của
văn hóa làng xã đang từng ngày được hồi sinh và phát triển phù hợp với nguyện
vọng chính đáng của mỗi người dân nói riêng và cả cộng đồng dân tộc nói
chung. Sức sống bền bỉ của văn hóa làng xã là dịng chảy khơng bao giờ cạn
trong tâm thức của mỗi con người.
Nói tóm lại, làng – xã Việt Nam có sức mạnh dẻo dai, bền vững đó là nhờ
văn hóa làng, văn hóa làng vẫn tồn tại đến ngày nay với sự ngưng kết đậm đà
biểu hiện ở phong tục tập quán, kho tàng văn hóa dân gian, tín ngưỡng, tơn giáo.
Văn hóa làng – xã cịn có một cơ sở vật chất là đình, chùa, miếu, lũy tre, giếng
nước, cây đa… đã tạo nên một tổng thể văn hóa làng – xã vững chắc, hòa quyện
vào nhau.
4.Vận dụng so sánh làng cụ thể trước và sau đổi mới ( biến đổi không
gian văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ):
Vùng đồng bằng Bắc Bộ là nơi diễn ra các hoạt động sinh sống và sản
xuất của người dân trồng lúa nước, đồng thời cũng là khơng gian sinh hoạt, giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa. Văn hóa làng vùng này được hình thành và
phát triển trong suốt chiều dài lịch sử với vai trò to lớn là việc hun đúc tâm hồn
Việt, và các giá trị đạo đức, nhân văn. Mặc dù vậy, qua một thời gian phát triển
cùng với công cuộc Đổi mới làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đã có nhiều thay
đổi, và có những hạn chế không phù hợp với việc xây dựng nông thôn mới hiện
nay ở nước ta.
4.1. Khơng gian văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ trước đây:
Văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều đặc trưng trong đó nổi
bật ba đặc trưng như: tính cộng đồng, tính tự trị và tính dung hợp trong tư duy.
Trước đây, đặc tính xã hội nổi trội của làng Việt truyền thống ở đồng bằng Bắc
Bộ là tính tự quản, hướng nội. Điều này cho ta thấy rõ hệ quả của cơ chế phép
vua - lệ làng trong xã hội phong kiến. Xã hội được vận hành theo hương ước
khiến cho các làng ở đồng bằng Bắc Bộ trở nên độc lập, tự chủ, khép kín trong
tổ chức các vấn đề kinh tế, xã hội, ít chi phối bởi chính quyền. Chính đây là cơ
sở tạo nên sự khép kín của khơng gian văn hóa làng, nó hướng vào chiều sâu
nhiều hơn với các vấn đề nội bộ trong làng.
Không gian cảnh quan làng được xác định bởi địa hạt gồm cổng làng và
lũy tre bao bọc, với những biểu tượng: cây đa, bến nước, sân đình. Khơng gian
cư trú chủ yếu là mơ hình nhà ở truyền thống, trên diện tích đất rộng rãi và gắn
với chăn ni quy mô nhỏ.
18
Làng trong khơng gian văn hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ luôn đề cao các
vấn đề gắn kết nội bộ. Việc thờ Thành hoàng làng trong phương thức tâm linh
đã đề cao quan điểm “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”.
Trong các quan hệ gia đình dịng họ là sự gắn bó, đùm bọc, chia sẻ và với láng
giềng là sự thân hữu mật thiết.
Có thể nói, cảnh quan, khơng gian cư trú, những quy ước về ứng xử xã
hội, kể cả tín ngưỡng, phong tục, tập quán sản xuất, với yêu cầu tuân thủ rất cao,
đã tạo nên một tôn ti trật tự, khơng chỉ ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ, sự kiểm
sốt hành vi mà cịn tạo nên một khơng gian văn hóa làng xã đồng bằng Bắc Bộ
đầy tinh thần tự lập, tinh thần cộng đồng với “đất lề quê thói” và sắc thái của
“người làng”. 12
4.2. Biến đổi trong không gian văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện
nay:
Trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới, với tư duy chuyển dịch theo
hướng công nghiệp - thương mại - dịch vụ và hiện đại hóa nơng thơn kéo theo
khơng gian văn hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ cùng có nhiều biến đổi.
Hiện nay, các cơ quan chức năng địa phương đã quan tâm đến phục dựng trùng
tu các thiết chế cảnh quan làng xã như đình, chùa, miếu,... Những cổng làng
ngày xưa cịn lại rất ít, và rất nhiều cổng làng được xây mới mang nét kiến trúc
cổ của làng xưa, đơn giản hơn những hầu như đều cao to, hồnh tráng hơn mang
tính biểu tượng và mục đích là tạo điểm nhấn văn hóa. Hơn nữa, bên cạnh không
gian truyền thống đã xuất hiện các khu chức năng mới như trung tâm văn hóa thể thao các thơn.
Có thể thấy, khơng gian làng xã khơng cịn khép kín và có xu hướng đơ
thị hóa ngày càng rõ rệt. Trong lõi của làng, nhà chia lô xây dựng các nhà cao
tầng khác hẳn truyền thống. Bên cạnh đó làng xã được mở rộng bởi các tuyến
đường liên thôn. Và nhà ở kết hợp với sản xuất thủ công, làm dịch vụ, thương
mại, và đáp ứng sản xuất kinh tế tập trung. Qua xây dựng nông thôn mới, các
làng xã đồng bằng Bắc Bộ với phong trào “ 5 không, 3 sạch” đã xây dựng nếp
sống gia đình văn hóa, tích cực vệ sinh nhà cửa, đường làng ngõ xóm.
Trên phương diện tinh thần, những giá trị truyền thống như tinh thần yêu
nước, “cố kết cộng đồng”, nghĩa tình, thiện lương được tiếp tục bảo tồn, phát
huy thuần phong mỹ tục. Các lễ hội truyền thống được tổ chức với quy mô lớn
hơn thu hút khách thập phương. Các hoạt động văn hóa, thể thao quan tâm tới
sức khỏe cũng được coi trọng như hoạt động dưỡng sinh, câu lạc bộ,... đã góp
phần tạo nên sự phong phú của khơng gian văn hóa làng hiện nay.
12 (Nguyễn Thị Tuyến, 2021)
19
Trong văn hóa mưu sinh, với việc mở rộng các mối quan hệ theo xu
hướng cởi mở, thơng thống, cùng có lợi trong sự phát triển kinh tế cũng mang
đến sự cởi mở trong các mối quan hệ và tầm nhìn của làng. Cùng với sự phát
triển của khoa học, cơng nghệ nhiều nơng dân đã tham gia mơ hình chuyển đổi
từ trồng lúa sang chuyên canh sản xuất hàng hóa có giá trị.
Như vậy, có thể thấy cư dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đã chuyển đổi từ
tâm lý tiểu nông, tư duy duy cục bộ, kinh nghiệm, làm ăn nhỏ lẻ sang mưu cầu
sản xuất hàng hóa, từ trong kinh doanh, trọng tình sang trọng thực, trọng lý.13 Từ
lối sống khép kín trong đơn vị tụ cư truyền thống sang hội nhập cộng đồng khu
vực, quốc gia và thế giới. Cư dân làng hiện nay nâng cao nhận thức về dân chủ,
bình đẳng, về quyền lợi và nghĩa vụ cơng dân, hình thành lối sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật và các tiêu chuẩn khoa học.
4.3 Những bất cập trong khơng gian văn hóa làng vùng đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay:
Bên cạnh những biến đổi tích cực như trên thì thực tế bức tranh khơng
gian văn hóa làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ cịn khơng ít những bất cập:
Đầu tiên, là những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt ở những
vùng bị lấy nhiều diện tích đất cho các khu cơng nghiệp hay các vùng chưa triển
khai dự án đã khiến cho một phần nhỏ lực lượng lao động nông thôn rời quê tìm
việc làm ở các thành phố và trung tâm cơng nghiệp, thậm chí là lao động xuất
khẩu. Tâm lý bám làng bị phá vỡ, sự cố kết cộng đồng vốn chặt chẽ trong các
làng nay cũng bị biến đổi. Khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn là một thực tế
dẫn tới sự phân biệt giữa lối sống của các thế hệ cũng như các nhóm xã hội dân
cư. Lối suy nghĩ và hành xử vun vén tư lợi và chạy theo nhu cầu sống theo cá
nhân tăng cao cũng tạo ra những biến đổi trong mối quan hệ gia đình ở làng.
Thứ hai, Mơ hình cư trú kiểu tam tứ đại đồng đường cịn rất ít. Việc tách
hộ khiến đất thổ cư, chia thành nhiều sở hữu cho con cháu hoặc nhượng quyền
sử dụng khiến mật độ cư trú trở nên dày đặc, không đồng nhất tiềm ẩn sự phức
tạp xã hội ở làng hiện nay.
Cuối cùng, việc trùng tu các cơng trình văn hóa, tín ngưỡng theo hướng
hiện đại làm cho khơng ít cơng trình mất đi bản sắc. Hiện tượng xây dựng nhà ở
phạm vi các hành lang an tồn giao thơng, đê điều và chiếm dụng đất canh tác
khá phổ biến khiến cho diện tích ao hồ, cây xanh bị suy giảm, đồng ruộng ngày
càng thu hẹp, mơi trường trở nên ơ nhiễm.
Nhìn chung, q trình đổi mới, hội nhập quốc tế, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đang tác động trực tiếp đến nơng thơn làm thay đổi diện mạo, biến đổi
13 (Nguyễn Thị Tuyến, 2021)
20