Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Chương 4 vấn đề chung quan hệ với khách hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.99 KB, 8 trang )

Chương 4
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư trong quan hệ với khách hàng
1.

Những vấn đề chung

1.1.

Quan hệ giữa luật sư và khách hàng

Trong lịch sử hình thành và phát triển nghề luật sư trên thế giới cũng như ở Việt Nam, sứ mệnh
nghề nghiệp, mục đích và kỹ năng hành nghề đều khởi nguồn từ nhu cầu của khách hàng, những
người yếu thế để đấu tranh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm từ các chủ thể quyền
lực, tố tụng và chủ thể khác. Do đó, nói tới vai trị của Luật sư trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho khách hàng là nói tới những tác động, ảnh hưởng của Luật sư trong tiến trình tố tụng và
trong đời sống xã hội thông qua chức năng cao quý của nghề nghiệp, góp phần vào q trình dân
chủ hóa hoạt động tư pháp, tạo lập công bằng xã hội. Thông qua hoạt động nghề nghiệp, Luật sư
không chỉ thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, mà cịn bảo vệ pháp luật,
cơng lý như là các đại lượng phản ánh niềm tin của người dân vào những quyền cơ bản, nhân
phẩm và giá trị của con người.
Tuy nhiên, ở đây cũng phải làm rõ một vấn đề tưởng chừng như đơn giản nhưng chưa nhiều Luật
sư quan tâm đến, đó là tình trạng một số khách hàng không thể nhận biết một cách đầy đủ về khả
năng của Luật sư, bao gồm trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp. Trong đa số
trường hợp, khách hàng tự tìm đến Luật sư (qua giới thiệu của bạn bè, qua tìm hiểu trên các
phương tiện thông tin đại chúng...) và hết sức tin tưởng vào Luật sư. Trong khi đó, u cầu của
khách hàng khơng giống nhau cho tất cả các vụ việc, chưa kể tư cách tham gia tố tụng của họ là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan... Một Luật sư liêm chính cần phải chia sẻ cho khách hàng biết mức độ khả năng
chuyên môn của mình, mà khơng phải bất cứ việc gì đều nhận tư vấn, bào chữa hoặc bảo vệ
quyền lợi. Trong thực tiễn xét xử hình sự, có những Luật sư có khả năng chuyên môn và kinh
nghiệm trong các vụ án đặc thù nhất định (tội phạm về kinh tế, tham nhũng, xâm phạm sở


hữu...), nhưng có thể lại rất ít kinh nghiệm trong các vụ án liên quan đến người chưa thành niên
phạm tội, về án ma túy, về sở hữu cơng nghiệp...
Trong lĩnh vực tư vấn, có nhiều Luật sư có hiểu biết và khả năng hành nghề chuyên sâu trong các
lĩnh vực thương mại, kinh tế, dân sự, nhưng các lĩnh vực M&A, bảo hộ sở hữu trí tuệ, thương
mại có yếu tố nước ngồi, khơng phải Luật sư nào cũng đủ khả năng để cung cấp dịch vụ cho
khách hàng. Nói cách khác, Luật sư phải biết từ chối những vụ việc vượt quá khả năng và kinh
nghiệm của mình. Điều này khơng phải lúc nào cũng dễ dàng đối với các Luật sư, nhất là một số
Luật sư trẻ mới bước vào nghề. Trong một Tổ chức hành nghề luật sư, cũng nên phân loại vụ
việc cho những Luật sư có kiến thức và kỹ năng hành nghề khác nhau, mới có thể tích lũy kinh
nghiệm và đáp ứng được nhu cầu chính đáng của khách hàng. Về phương diện đạo đức nghề
nghiệp, Luật sư không nên tạo ra ảo tưởng cho khách hàng là mình có thể giải quyết vụ việc một
cách tốt hơn các Luật sư khác, hoặc gián tiếp thông báo cho khách hàng mình có mối liên hệ nào
đó với những người tiến hành tố tụng, đặt khách hàng vào tình thế phải nhờ mình làm Luật sư
mà khơng phải nhờ người khác có khả năng thật sự.


Nhận biết rõ khách hàng của Luật sư là ai là một khía cạnh cần quan tâm trong khi tiếp xúc với
khách hàng. Thật ra, trong vụ án hình sự, pháp luật tố tụng cho phép người bị tạm giữ, bị can
được nhờ và Luật sư được tham gia bào chữa từ giai đoạn tạm giữ, khởi tố điều tra (khởi tố bị
can). Tuy nhiên, trong thực tế đã xảy ra một số trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng có thể làm
“khó dễ” đối với Luật sư. Mặt khác, phải thừa nhận trong thực tiễn đời sống, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo cũng là một con người, có những mối quan hệ khác nhau (trong gia đình, xã hội, đơn
vị cơng tác...), nên khi xảy ra vụ việc bị tạm giữ, bị bắt tạm giam, người đến nhờ Luật sư có thể
chỉ là bạn bè, người “quen đặc biệt” nào đó... về mặt pháp lý, pháp luật về Luật sư và pháp luật
về tố tụng hình sự khơng phân biệt bắt buộc đích danh người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới có
quyền nhờ Luật sư và quy chế hoạt động của Đoàn Luật sư cũng khơng cấm gia đình, thân nhân
của họ đến liên hệ nhờ Luật sư
bào chữa, nhất là trong điều kiện bị can, bị cáo bị tạm giữ hoặc tạm giam. Do đó, khi tiếp xúc với
một người đến liên hệ nhờ bào chữa, Luật sư cẩn tìm hiểu mối liên hệ của người này với đương
sự, nhận biết chính xác mối quan hệ đó để có ứng xử cho đúng mực. Điểu này hết sức quan

trọng, vì thực tế đã xảy ra trường hợp là một bị can bị bắt tạm giam, người đến nhờ Luật sư có
“quan hệ tình cảm” mà không phải là vợ của bị can, dẫn đến việc than phiền của gia đình, cũng
như tranh chấp nhau trong việc giành “suất thăm nuôi định kỳ” trong trại tạm giam giữa hai
người này. Ngồi ra, có trường hợp người đến nhờ Luật sư là người môi giới, móc nối theo đơn
đặt hàng hoặc “ăn chia” trên tỷ lệ thỏa thuận thù lao của khách hàng nên Luật sư cần hết sức cẩn
trọng đối với các đối tượng loại này.
Trong thực tế, có một số trường hợp khách hàng nhầm lẫn tư cách, quyền và nghĩa vụ của Luật
sư trong đời sống với trong quá trình tham gia tố tụng, là do nhận thức và cách hiểu chưa đúng
về thực hiện chức năng xã hội và vai trò, vị thế của Luật sư, nên đã đòi hỏi, yêu cầu Luật sư tiến
hành những công việc chưa đúng, chưa phù hợp với quy định của pháp luật. 
Việc đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng và tiến hành
thu thập tài liệu, đổ vật, tình tiết liên quan đến vụ án... là quyền của người bào chữa, hồn tồn
khơng phải là nghĩa vụ buộc Luật sư phải làm. Trong quá trình hành nghề, Luật sư phải xác định
rõ những kỹ năng, quy tắc và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, muốn yêu cầu thay đổi người tiến
hành tố tụng thì phải làm rõ họ đã không vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Luật sư phải
căn cứ vào các quy định của pháp luật để cân nhắc thực hiện các quyền của mình, hồn tồn
khống thể coi các u cầu của bị can A là nghĩa vụ bắt buộc Luật sư phải làm, nếu khơng làm thì
gây hậu quả thiệt hại cho bị can A. Các yêu cầu khởi kiện những người tiến hành tố tụng nói trên
là khơng phù hợp với pháp luật, khơng có căn cứ.
Trong q trình hành nghê và xử lý mối quan hệ giữa Luật sư và khách hàng, pháp luật không
thể đồng nhất và yêu cầu Luật sư phải bảo vệ quyền lợi cho khách hàng bằng mọi giá, nên cùng
với việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng, Điểu 3 Luật luật sư năm 2006 đã
quy định rõ: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân
chủ của công dân, quên, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”. Điểu này có nghĩa là pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho Luật sư hành nghề bảo
đảm các nguyên tắc, pháp luật, trình tự và khơng thể buộc Luật sư phải luôn đáp ứng các yêu cầu


khơng hợp lý, khơng chính đáng của thân chủ. Chính giới hạn này phân biệt tư cách của Luật sư

với chính khách hàng của Luật sư.
Thực tiễn cho thấy, mối quan hệ giữa Luật sư và khách hàng có thể nhận diện trên ba phạm vi
sau đây:
Thứ nhất, quan hệ trong phạm vi tham gia tư vấn, hỗ trợ về pháp lý, tham gia tố tụng và cung cấp
các dịch vụ pháp lý khác bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Đây là mối quan hệ cơ bản, phát
sinh trách nhiệm pháp lý của Luật sư trước pháp luật và trước khách hàng. Luật sư sau khi đã
nhận trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, tùy theo tính chất của vụ việc, phải
có kế hoạch và bước đi cẩn thiết để tiến hành các công việc phục vụ cho việc tư vấn, hỗ trợ về
pháp lý cho khách hàng.
Thứ hai, quan hệ với tư cách con người với nhau trong đời sống xã hội. Nhận biết mối quan hệ
này một cách đúng đắn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh ứng xử hành vi của Luật sư
với khách hàng. Trong giao tiếp công việc, dần dần đã hình thành mối quan hệ tình cảm chân
chính nảy sinh một cách tự nhiên giữa Luật sư và khách hàng, trong đó thể hiện sự tin cậy, tôn
trọng lẫn nhau và cùng chung ước vọng làm tất cả những gì tốt nhất cho khách hàng trên cơ sở
pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Trong thực tiễn, nhiều khách hàng muốn Luật sư chia
sẻ sự quan tâm đến số phận của họ “mọi lúc, mọi nơi” bằng cách mời Luật sư tham dự những
cuộc gặp nào đó, mời ăn uống, tiệc tùng, vui chơi thể thao... Trên thế giới, báo chí có đề cập đến
một số trường hợp từ mối quan hệ thâm giao nói trên, Luật sư có quan hệ tình cảm hoặc đi đến
hơn nhân với khách hàng. Điều đó cho thấy, xử lý mối quan hệ với khách hàng ngoài phạm vi
công việc là một vấn đề hết sức nhạy cảm, cần có giới hạn nhất định, để người Luật sư vừa giữ
được những chuẩn mực nghề nghiệp, vừa có thể chia sẻ những bức xúc, quan tâm của khách
hàng một cách tận tâm và chu đáo.
Thứ ba, quan hệ về tài sản giữa Luật sư và khách hàng. Ở đây, cẩn phân biệt mối quan hệ này
với thỏa thuận về thù lao với khách hàng. Trong thực tế, đã có nhiều trường hợp, xuất phát từ
những lý do và nguyên nhân khác nhau, đã có việc Luật sư có quan hệ tài sản với khách hàng
(như vay mượn tiền, hùn vốn làm ăn, được tặng cổ phiếu sáng lập, ưu đãi trong công ty...). Đạo
đức nghề nghiệp Luật sư không cho phép Luật sư chạy theo lợi ích vật chất, coi đó là mục tiêu
duy nhất của hành nghề Luật sư và không được tham gia các hoạt động kinh doanh mà có thể
ảnh hưởng đến uy tín và thanh danh của nghề luật sư. Luật sư cũng không được sử dụng tiền, tài
sản của khách hàng trong khi hành nghề; không được soạn thảo hợp đồng tặng cho tài sản của

khách hàng cho chính Luật sư hoặc cho những người thân thích của Luật sư; khơng được nhận
tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác từ người khác để thực hiện hoặc không thực hiện vụ
việc, nếu việc đó có thể gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng...
1.2.
Sự cần thiết quy định quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp điều chỉnh mối quan
hệ giữa luật sư và khách hàng
về mặt pháp lý, thực chất quan hệ cung cấp dịch vụ pháp lý giữa Luật sư với khách hàng trong
đời sống và trong tố tụng là quan hệ mang tính dịch vụ. Tuy nhiên, như đã được nhấn mạnh
trong Chương II về hành nghề Luật sư, Luật sư hành nghề không chỉ quan tâm đến tính “dịch
vụ” hay thù lao của khách hàng và những lợi ích vật chất, tinh thần, mà cịn phải quan tâm đến


yếu tố “phục vụ”, không để yếu tố dịch vụ lấn át tính chất phục vụ của nghề nghiệp Luật sư. Đó
chính là giá trị cốt lõi tạo ra vị thế và hình ảnh “hiệp sĩ” trong trái tim cơng chúng. Những yếu tố
phi vật chất, phi dịch vụ còn thể hiện trong hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người
nghèo, các đối tượng thuộc diện chính sách, bào chữa theo chỉ định của Tòa án hoặc tham gia với
tư cách là Luật sư của tổ chức, cơ quan, chính quyền, từng bước phủ kín nhu cầu cung cấp dịch
vụ pháp lý cho đông đảo các tầng lớp nhân dân. Ý nghĩa, tính chất trong việc phục vụ cho lợi ích
cộng đồng, giúp lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, hòa giải các xung đột về lợi ích giữa các cá
nhân và chủ thể xã hội khác, nâng cao vị thế của người Luật sư như một cầu nối chuyển tải pháp
luật là những vấn đề thuộc về quan niệm, nhận thức liên quan đến chức năng xã hội của Luật sư.
Xác định ranh giới điều chỉnh pháp luật đối với các loại quan hệ xã hội nào tùy thuộc vào mức
độ điển hình, phổ biến của quan hệ xã hội cần điều chỉnh và bản thân đối tượng điều chỉnh. Nói
tới phạm vi điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động Luật sư là nói tới ranh giới của việc Nhà nước
sử dụng pháp luật nhằm can thiệp công khai và tác động đến các quan hệ nảy sinh trong quá trình
hoạt động hành nghề của Luật sư. Xác định ranh giới này là một công việc khó khăn, vì phụ
thuộc vào nhu cầu điều chỉnh và tính cấp thiết của phương thức điều chỉnh. Vì vậy, cần xem xét
đến phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp luật về Luật sư là các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình hoạt động của Luật sư.
Hiện nay, về mặt lý luận, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý chưa có được sự thống nhất trong

việc phân loại các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động của Luật sư. Trong hoạt
động xây dựng pháp luật, hệ thống hóa pháp luật và áp dụng pháp luật, một số cơ quan chưa có
sự nhất quán về quan niệm và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về Luật sư, chưa định hình rõ nét
địa vị pháp lý của Luật sư là một chủ thể tư pháp độc lập hoạt động nghề nghiệp trong lĩnh vực
tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân và tổ chức. Ngun nhân của tình trạng trên là quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về Luật sư phụ thuộc vào sự tham gia của các chủ thể tư pháp trong các quan hệ xã hội
và mức độ quan tâm của Đảng và Nhà nước về xây dựng pháp luật liên quan đến hoạt động của
Luật sư. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về Luật sư gồm các nhóm quan hệ như sau:
Nhóm quan hệ phát sinh giữa các Luật sư với nhau tạo thành tổ chức xã hội - nghề
nghiệp và tổ chức hành nghề, trong đó bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh về điều kiện,
tư cách, phạm vi hành nghề, quyền và nghĩa vụ của Luật sư, tổ chức hành nghề và tổ chức xã hội
nghề nghiệp, thù lao và xử lý vi phạm...
Nhóm quan hệ phát sinh giữa Luật sư với khách hàng, bao gồm các quy phạm pháp luật
điều chỉnh về cách thức tiếp cận và thỏa thuận giữa Luật sư và khách hàng, thù lao, các điều cấm
và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong quan hệ với khách hàng được pháp lý hóa.
Nhóm quan hệ phát sinh giữa Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có
thẩm quyền khác trong hoạt động nghề nghiệp, bao gồm các quy phạm pháp luật của nhiều
ngành luật khác nhau điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong
tố tụng (hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động...); các quy phạm xác định quyền và nghĩa
vụ của bị can, bị cáo, đương sự liên quan đến quá trình tố tụng với Luật sư và với các cơ quan
tiến hành tố tụng.


Nhóm quan hệ phát sinh về mặt quản lý nhà nước và sự tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp Luật sư, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh từ
mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và Tổ chức
hành nghề luật sư.
Như vậy, pháp luật về Luật sư cần được hiểu trên hai bình diện:
Một là, xét ở phạm vi rộng thì pháp luật về Luật sư được hiểu là toàn bộ các yếu tố và chế định

pháp luật liên quan, không bị giới hạn bởi ngành hay phân ngành luật nào. Đối với các quan hệ
xã hội có Luật sư tham gia nhưng chưa có một ngành luật nào điều chỉnh trực tiếp thì do pháp
luật về Luật sư điểu chỉnh, còn các quan hệ khác đã có ngành luật điều chỉnh “gián tiếp” hoặc cụ
thể hóa chế định về Luật sư thì cần được hồn thiện, khơng san sẻ, chia cắt, biệt lập chúng. Có
thể nêu ra ví dụ thuyết phục
là các ngành luật thương mại, kinh tế đều được hoàn thiện trên cơ sở và điều kiện đã có Bộ luật
Dân sự và các nghĩa vụ dân sự cũng phát sinh trong quản lý hành chính, trong tố tụng hình sự,
dân sự, thương mại, kinh tế...
Hai là, xét ở phạm vi hẹp, pháp luật về Luật sư là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý, quyền và nghĩa vụ của Luật sư, tổ chức, hoạt động và cơ
chế quản lý đối với Luật sư. Như vậy, cho dù xét trên phạm vi rộng hay hẹp thì các yếu tố cấu
thành nên pháp luật về Luật sư bao gồm các nguyên tắc, định hướng cơ bản về phát triển nghề
luật sư ở Việt Nam; các quy phạm pháp luật thực định điều chỉnh trực tiếp hoạt động của Luật sư
trong các phạm vi hành nghề theo quy định; và các thiết chế pháp lý liên quan hỗ trợ về quản lý,
giám sát, xử lý vi phạm. Có thể nhận thấy “hạt nhân” cơ bản là các quy phạm pháp luật được
hình thành từ nhiều ngành, phân ngành và chế định pháp luật khác nhau. Nguồn của pháp luật về
Luật sư không chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật trong nước được quy định trong Hiến pháp,
Luật luật sư và các văn bản dưới luật, mà cịn có các quy phạm pháp luật trong các điều ước quốc
tế song phương hoặc đa phương mà Việt Nam tham gia ký kết, cũng như sự chuyển hóa của một
số quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư thành điều cấm của pháp luật.
Từ những điểm phân tích nêu trên, có thể coi pháp luật về Luật sư là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động nghề nghiệp giữa
Luật sư với khách hàng, các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có thẩm quyền khác, về việc
quản lý nhà nước và sự tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư do Nhà nước đặt ra,
thừa nhận và bảo đảm thi hành.
Liên quan đến mối quan hệ với khách hàng, pháp luật đã minh định tính tự nguyện trong giao
dịch, thỏa thuận, quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của khách hàng, cũng như của Luật sư, kể
cả vấn đề' thù lao tư vấn, bào chữa, bảo vệ quyền lợi. Từ chỗ quan niệm về' nhận thức bản chất
mối quan hệ với khách hàng, pháp luật về' Luật sư đã điều chỉnh về' mặt pháp lý mối quan hệ
này tại Luật Luật sư năm 2006, cụ thể:

Điều 24. Nhận và thực hiện vụ, việc của khách hàng
1.
Luật sư tôn trọng sự lựa chọn Luật sư của khách hàng; chỉ nhận vụ, việc theo khả năng
của mình và thực hiện vụ, việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng.


2.
Khi nhận vụ, việc, Luật sư thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
nghề' nghiệp của Luật sư trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
3.
Luật sư không chuyển giao vụ, việc mà mình đã đảm nhận cho Luật sư khác làm thay, trừ
trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng.
Điều 25. Bí mật thơng tin
1.
Luật sư khơng được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về' khách hàng mà mình biết được trong
khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định
khác.
2.
Luật sư khơng được sử dụng thơng tin về' vụ, việc, về' khách hàng mà mình biết được
trong khi hành nghề' vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3.
Tổ chức hành nghề Luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành
nghề' không tiết lộ thơng tin về' vụ, việc, về khách hàng của mình.
Các quy định nói trên của Luật Luật sư đã điều chỉnh tổng quát các nguyên tắc và hành vi ứng xử
chung của Luật sư khi nhận và thực hiện vụ, việc của khách hàng trên cơ sở tôn trọng sự lựa
chọn Luật sư của khách hàng; chỉ nhận vụ, việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ, việc
trong phạm vi yêu cầu của khách hàng. Khuôn khổ pháp lý này là nền tảng để Luật sư biết được
những giới hạn mà pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa Luật sư với khách hàng, trong đó có
một nghĩa vụ, đổng thời là một bổn phận đạo đức rất quan trọng là phải thông báo cho khách

hàng về' quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề' nghiệp của Luật sư trong việc thực hiện dịch vụ
pháp lý cho khách hàng; khơng chuyển giao vụ, việc mà mình đã đảm nhận cho Luật sư khác
làm thay, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc trường hợp bất khả kháng.
Vậy câu hỏi đặt ra là vì sao pháp luật về Luật sư đã quy định về mối quan hệ với khách hàng mà
vẫn cần xây dựng các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư trong mối quan hệ với
khách hàng? Khi đề cập vấn đề này, cần quan niệm nói tới phạm vi của các quy tắc đạo đức là
nói đến những chuẩn mực ứng xử mang tính khuyến cáo, định hướng và phản ánh tính mục đích
trong hoạt động nghề nghiệp Luật sư, tạo ra khoảng không gian rộng rãi cho việc lựa chọn ứng
xử trong từng hành vi của Luật sư áp dụng cho một tình huống cụ thể.
Trên thế giới, cũng như trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vấn đề xây dựng và ban
hành Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư đang còn nhiều ý kiến và cách tiếp cận
khác nhau, cách hiểu về “tính pháp lý” của Bộ Quy tắc cũng chưa có được sự thống nhất. Theo
một kết quả nghiên cứu, cách thức xác định “mơ hình” của quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư
rất khác nhau trên thế giới: Một số nước có Bộ Quy tắc ứng xử của Luật sư (code of conduct of
lawyers), một số nước khác có quy định về đạo đức nghề nghiệp Luật sư (lawyers professional
ethics). Tuy nhiên, nội dung vẫn chủ yếu tập trung vào các quy tắc ứng xử của Luật sư trong khi
hành nghề và trong quan hệ xã hội. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp ở các nước khác nhau do các
cơ quan khác nhau ban hành, có thể do Hiệp hội Luật sư (như ở Australia, Singapore...) hoặc do
Đoàn Luật sư thông qua như ở Canada. Cộng đồng châu Âu đã thông qua Bộ luật về đạo đức
nghề nghiệp Luật sư và được coi là Phụ lục I trong “Nội quy và niên giám luật sư tại Tòa án


Paris” năm 1998 , cịn ở Hoa Kỳ, Đồn Luật sư từng bang có thể ban hành Quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp riêng của mình.
Ở đây, cần đề cập mối quan hệ giữa pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp Luật sư xuất phát
từ nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật với nhu cầu điều chỉnh hoạt động Luật sư bằng các tiêu
chuẩn chung, tiêu chuẩn đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Nhu cầu này có mối liên hệ mật thiết
với việc xử lý quan hệ giữa yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước với phát huy tính tự quản của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp Luật sư. Biểu hiện của tính tự quản khơng chỉ là tạo ra tư thế độc
lập và phương thức hành nghề tự do, mà cịn là tính “tự điều tiết” hoạt động nghề nghiệp và đạo

đức nghề nghiệp của Luật sư. Có ý kiến lo ngại việc phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư và đề cao vai trò của Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp sẽ làm
cho hoạt động Luật sư xa rời việc quản lý của Nhà nước hoặc thiếu tin tưởng vào khả năng tự
quản của đội ngũ Luật sư. Ý kiến này không phản ánh đặc điểm của nghề luật sư là một nghề
luật, trong đó bắt buộc phải có những tiêu chuẩn, quy tắc làm khuôn mẫu cho việc ứng xử trong
hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống. Sức mạnh nội tại của đội ngũ Luật sư chỉ có thể phát
huy trong điều kiện tăng cường tính kết nối và tự làm trong sạch đội ngũ của mình thơng qua các
việc xây dựng và duy trì các tiêu chuẩn cao về mặt đạo đức và kỷ luật.
Mặt khác, hiện nay cùng với chiến lược cải cách tư pháp và yêu cầu phát triển nhanh chóng đội
ngũ Luật sư, nếu khơng chặt chẽ về tiêu chuẩn “đầu vào”, trau dồi phẩm chất cá nhân, uy tín và
đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật và quy tắc đạo đức thì
chắc chắn hoạt động Luật sư sẽ gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Trong một số trường hợp,
việc hành nghề của Luật sư còn thiếu những chuẩn mực để đánh giá và xử lý khi có vi phạm,
đồng thời Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp do Hội đồng Luật sư toàn quốc ban hành năm
2011 cũng chưa phản ánh hết những đặc điểm của hoạt động Luật sư phù hợp với điều kiện Việt
Nam hiện nay. Nhu cầu xây dựng và hoàn thiện Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp đã
trở nên cấp thiết, dẫn đến việc Hội đồng Luật sư tồn quốc đã thơng qua và ban hành Bộ Quy tắc
Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp mới vào tháng 11/2019, hướng đến việc tạo lập sức mạnh nội tại
của đội ngũ Luật sư Việt Nam.
1.3.

Các quy tắc điều chỉnh mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng

Bộ Quy tắc đạo đức gồm Lời nói đầu, 06 chương và 32 quy tắc, trong đó Chương II (Quan hệ
với khách hàng) là một chương rất quan trọng, điều chỉnh trực tiếp, phổ biến và thường xuyên
đối với hoạt động hành nghề Luật sư.
Luật sư là hoạt động nghề nghiệp cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng trên các lĩnh vực tố
tụng, tư vấn, đại diện ngoài tố tụng, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Công việc hành nghề
của Luật sư luôn gắn với khách hàng và là quan hệ thường xuyên, phổ biến nhất trong các quan
hệ liên quan đến nghề nghiệp Luật sư. Do đó, quan hệ giữa Luật sư với khách hàng là quan hệ cơ
bản nhất trong hoạt động nghề nghiệp Luật sư.

Từ ý nghĩa đó, Bộ Quy tắc đã dành ra một chương (Chương II) được thiết kế thành 04 mục với
12 quy tắc (từ Quy tắc 5 đến Quy tắc 16), đã được rà soát, bổ sung những nội dung còn thiếu,
loại bỏ những quy tắc đã được pháp luật quy định, thể hiện sự ngắn gọn, cô đọng, súc tích hơn.
Chương này quy định những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trong quan hệ giữa Luật sư với


khách hàng, làm khuôn mẫu cho mỗi Luật sư ứng xử, rèn luyện, tu dưỡng để giữ gìn uy tín đội
ngũ Luật sư và tôn vinh nghề nghiệp Luật sư.
Chương II được chia thành 4 mục nhỏ:
Mục 1 (từ Quy tắc 5 đến Quy tắc 9): là những quy tắc cơ bản trong quan hệ giữa Luật sư
với khách hàng, những việc Luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng.
Mục 2 (Quy tắc 10 và Quy tắc 11): là những quy tắc về ứng xử cụ thể của Luật sư khi
tiếp nhận vụ việc của khách hàng, những trường hợp Luật sư phải từ chối tiếp nhận vụ việc;
Mục 3 (từ Quy tắc 12 đến Quy tắc 15): Quy định về ứng xử của Luật sư khi thực hiện vụ
việc của khách hàng; các trường hợp Luật sư có quyền từ chối hoặc phải từ chối tiếp tục thực
hiện vụ việc của khách hàng; ứng xử của Luật sư khi đơn phương chấm dứt thực hiện vụ việc đã
nhận của khách hàng và giải quyết khi có xung đột lợi ích trong q trình nhận, thực hiện vụ việc
của khách hàng.
việc.

Mục 4 (Quy tắc 16): Quy định về ứng xử của Luật sư với khách hàng khi kết thúc vụ

Sở dĩ Bộ Quy tắc chia Chương II thành 04 mục nhỏ là trên cơ sở tham khảo Bộ Quy tắc của Liên
đoàn Luật sư Nhật Bản và căn cứ vào thực tế quan hệ giữa Luật sư với khách hàng trải qua 03
giai đoạn: Nhận vụ việc, thực hiện vụ việc, kết thúc vụ việc để xác định các quy tắc ứng xử của
Luật sư trong từng giai đoạn, tránh bị trùng lặp và dễ áp dụng trong quá trình thực hiện. Những
vấn đề chung của mối quan hệ giữa Luật sư với khách hàng được đưa vào Mục 1. “Những quy
tắc cơ bản”. Phần ứng xử cịn lại có những quy tắc tương ứng với nội dung và tính chất của từng
giai đoạn.
Trong Chương II, vấn đề xung đột lợi ích là vấn đề được đại đa số Luật sư quan tâm. Vì vậy, Bộ

Quy tắc đã thể hiện cụ thể trong Quy tắc 15.1 định nghĩa về xung đột lợi ích, bảo đảm tính khái
quát, khắc phục được sự liệt kê cụ thể về xung đột lợi ích mà trong thực tế kỹ thuật lập pháp
không thể liệt kê hết. Khi giải quyết các trường hợp xung đột về lợi ích nhằm bảo đảm một cách
tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, vẫn cần tôn trọng quyền tự định đoạt của
khách hàng trong việc chọn lựa Luật sư bảo vệ cho mình. Vì vậy, Bộ Quy tắc mới có quy định
một số trường hợp xung đột về lợi ích nhưng khách hàng vẫn tự nguyện chấp nhận bằng văn bản
thì sẽ khơng cịn là điều cấm đối với Luật sư trong các trường hợp có xung đột về lợi ích. Tất
nhiên, sự chấp thuận của khách hàng không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp.



×