Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa. Liên hệ thực tiễn với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.69 KB, 38 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

-----*-----

BÀI TIỂU LUẬN THAY THẾ
THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa. Liên hệ
thực tiễn với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Ngành
Lớp
Giáo viên hướng
dẫn

:
:
:
:
:

Hà Nội, ngày 14 tháng 03 năm 2023


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu

4
5

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6

5. Phương pháp nghiên cứu

7

6. Ý nghĩa khoa học và thực thiễn của đề tài

7

7. Kết cấu của bài tiểu luận

7

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ SẢN XUẤT HÀNG HỐ

8
1. Hàng hố và sản xuất hàng hố
8
1.1. Hàng hố
8
1.2. Sản xuất hàng hoá
8
1.2.1. Sơ lược về sản xuất hàng hoá
9
1.2.2. Khái niệm về sản xuất hàng hoá
10
2. Điều kiện ra đời sản xuất hàng hố
10
2.1. Phân cơng lao động xã hội
10
2.1.1. Biểu hiện của phân công lao động xã hội
10
2.1.2. Cơ sở của phân công lao động xã hội
11
2.1.3. Vai trị của phân cơng lao động xã hội
11
2.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người
sản xuất
11
3. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
13
3.1. Những đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hoá
13
3.1.1. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua bán
13

3.1.2. Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính
tư nhân, vừa mang tính xã hội
13
3.2. Nhận xét về đặc trưng của sản xuất hàng hoá
13
4. Ưu thế và nhược điểm của sản xuất hàng hoá
14

2


(222000172) - HOÀNG THỊ HƯƠNG GIANG – GDTH D2022CLC

CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá tại Việt Nam
1.1.Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá tại Việt
Nam trước thời kỳ đổi mới (1975 – 1986)
1.2.Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá tại Việt
Nam sau thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hoá ở Việt Nam hiện nay
3. Thực trạng nền sản xuất hàng hoá ở Việt Nam hiện nay
3.1.Ưu thế của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay
3.2.Hạn chế của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay
4. Phương hướng phát triển nền sản xuất hàng hoá của Việt Nam
hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

16

16
16
19
21
23
28
30
32
34
35

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, q trình phát triển
quá độ của xã hội cùng với công nghệ tiên tiến vượt bậc. Cơng nghệ sản xuất hàng
hóa với chất lượng và số lượng không ngừng thay đổi. Đã bao giờ chúng ta tự hỏi
làm sao có được những vật dụng xung quanh từ đồ ăn, đồ dùng thường ngày cho
đến nhà cửa, đất đai, xe cộ,…? Thực chất, để sở hữu trong tay bất cứ loại đồ vật
nào, con người ta đều phải thơng qua q trình trao đổi và mua bán. Và trong q
trình đó, tất cả những sự vật trên được gọi là hàng hóa.
Xã hội lồi người nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng từ thuở sơ khai đã
hình thành một loại hình kinh tế được gọi là kinh tế tự nhiên – sản xuất tự cung tự
cấp. Trong nền kinh tế này, sản phẩm làm ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của người
trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lực lượng
lao động phát triển thấp, phân cơng lao động kém phát triển. Có lẽ bởi vậy mà nhu
cầu sử dụng và tiêu dùng của con người bị bo hẹp, giới hạn một cách đáng kể. Khi
nền kinh tế sản xuất hàng hóa được hình thành để rồi thay thế cho nền kinh tế tập

trung quan liêu bao cấp, đất nước ta đã có những sự phát triển lớn dần trong công
cuộc công nghệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập tồn cầu. Kể từ khi sản xuất hàng
hóa ra đời, nhu cầu và nguyện vọng của con người ngày càng được đáp ứng một
cách đầy đủ và chất lượng hơn. Sản xuất hàng hóa là một q trình tạo ra sản phẩm
hàng hóa nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Một quốc gia
có thể phát triển mạnh mẽ trước tiên phải là một quốc gia có nên móng vững chắc.
Để có bức nền vững chắc ấy, đất nước đó cần phải đảm bảo thỏa mãn và cân bằng
những nhu cầu của người dân, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước và xu
hướng chung của thế giới, thời đại. Với thực tiễn như vậy, ta nhận thấy được tính
cấp thiết và vai trị then chốt của sản xuất hàng hóa trong sự nghiệp phát triển nền
kinh tế nước nhà. Đồng thời, đó cũng là lý do tại sao em chọn đề tài “Điều kiện ra
đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa, từ đó liên hệ thực tiễn với nền


kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam” làm vấn đề trọng
tâm phân tích và nghiên cứu trong bài tiểu luận này.

2. Tình hình nghiên cứu
Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa là một chủ đề
quan trọng trong lĩnh vực kinh tế học, nghiên cứu về quá trình sản xuất và phân
phối hàng hóa trong nền kinh tế. Các nhà kinh tế học đã nghiên cứu và phát triển
các lý thuyết về sản xuất hàng hóa từ rất lâu.
Trong lịch sử, Adam Smith là một trong những nhà kinh tế học đầu tiên
nghiên cứu về sản xuất hàng hóa và đặt ra các khái niệm quan trọng như chun
mơn hóa, phân chia lao động và tiết kiệm thời gian. Sau đó, các nhà kinh tế học
khác như David Ricardo, Karl Marx, John Stuart Mill và Alfred Marshall đã tiếp
tục phát triển các lý thuyết về sản xuất hàng hóa. Hiện nay, nghiên cứu về sản xuất
hàng hóa tiếp tục được thực hiện trong các trường đại học và viện nghiên cứu trên
toàn thế giới. Các chủ đề nghiên cứu thường liên quan đến quy trình sản xuất, quản
lý sản xuất, tăng cường năng suất và hiệu quả sản xuất, tác động của công nghệ và

đổi mới vào sản xuất hàng hóa, và ảnh hưởng của chính sách kinh tế đến quá trình
sản xuất.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt
Nam, nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
cũng được quan tâm và đầu tư. Các nhà nghiên cứu và các tổ chức nghiên cứu
đang tập trung vào các chủ đề như tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh
nghiệp sản xuất hàng hóa, quản lý sản xuất và tăng cường hiệu quả, và tác động
của chính sách kinh tế đến sản xuất hàng hóa.
Đại hội Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế với đường
lối mới của Đảng để phát triển đất nước. Từ đó ta xây dựng và phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Cho tới nay, sau hơn mười năm đổi mới, ta đã
gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Bên cạnh đó vẫn cịn có khá nhiều những
mặt cần điều chỉnh. Nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản


xuất hàng hóa là một lĩnh vực quan trọng trong kinh tế học, giúp các nhà quản lý
và nhà lãnh đạo hiểu rõ hơn về quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa trong nền
kinh tế, từ đó đưa ra các quyết định kinh tế hiệu quả.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Nắm vững những lý luận cơ bản của kinh tế chính trị Mác-Lênin về điều kiện
ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa.
Biết vận dụng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
Kinh tế Chính trị Mác-Lênin vào việc phân tích sự vận dụng trong sản xuất hàng
hoá ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của kinh tế chính trị Mác – Lênin về sản xuất hàng hoá

và hàng hoá
- Phân tích điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa.
- Phân tích các đặc trưng của q trình sản xuất và phân phối hàng hóa trong nền
kinh tế, từ đó đưa ra các chiến lược phát triển sản xuất và phân phối hàng hóa
hiệu quả ở nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.
-

Nghiên cứu các ưu thế và hạn chế của quá trình sản xuất và phân phối
hàng hóa trong nền kinh tế, do đó đưa ra các giải pháp để tăng cường sức
cạnh tranh và giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp tại nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất
hàng hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về sản xuất hàng hoà và thực tiễn nhà nước về nền kinh tế hàng hoá thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam


5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các nguyên
lý, phạm trù cơ bản của kinh tế chính trị Mác-Lênin để xem xét, đánh giá vấn đề.
- Phương pháp chung: phương pháp logic – lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân
tích tổng hợp,…
- Phương pháp cụ thể: sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thấp tài
liệu, phân tích, sắp xếp,…để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Bài tiểu luận về đề tài này là cơng trình nghiên cứu, được tổng hợp một cách
cô đọng về quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về sản xuất hàng hoá: điều

kiện ra đời, đặc trung và ưu thế của sản xuất hàng hoá và phần mở rộng là thực
tiễn với thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, kết quả nghiên
cứu có thể góp phần phản ánh thực trạng kinh tế hàng hoá Việt Nam và đưa ra giải
pháp nâng cao sản xuất hàng hoá trong nền thị trường định hướng Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam.
7. Kết cấu của bài tiểu luận
Ngoài phần mục lục, mở đầu và tài liệu tham khảo của tiểu luận, nội dung bài
tiểu luận gồm 2 chương chính:
Chương I: Quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất hàng hoá
Chương II: Sự vận dụng nền sản xuất hàng hoá ở Việt Nam hiện nay.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ SẢN XUẤT HÀNG HỐ
1. Hàng hố và sản xuất hàng hố
1.1.

Hàng hố
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó của

con người thơng qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực
phẩm... hoặc ở dạng vơ hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch
vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ...
Hàng hoá là phạm trù lịch sử, sản phẩm của lao động chỉ mang hình thái
hàng hố khi được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Hàng hố có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
1.2.


Sản xuất hàng hoá
Thực tế nền kinh tế thế giới cho thấy khơng nước nào mà nền kinh tế

hàng hố hay kinh tế thị trường lại vận động hoàn toàn dưới dự điều khiển
“vơ hình” của các quy luật kinh tế khác quan. Mà chúng đều vận động theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của các doanh nghiệp và nhà nước và với mức
độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc điều kiện lịch sử của mỗi nước.
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ
chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá.
Điều kiện ra đời trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội có hai
hình thức kinh tế rõ rệt là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hố.
Kinh tế tự nhiên là hình thức sản uất mà sản phẩm lao động chỉ dựng để
thoả mãn nhu cầu của người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Đó là kiểu
sản xuất tự cấp tự túc - kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là
nhằm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.
Kinh tế hàng hoá là mơ hình kinh tế trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế
được thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, vận động


theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế hàng hoá ra đời và
tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội.
1.2.1. Sơ lược về sản xuất hàng hoá:
Thực chất, sản xuất hàng hoá đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh
tế - xã hội. Vào thời điểm của các hình thái xã hội trước Chủ nghĩa tư bản,
sản xuất hàng hoá chưa phát triển. Khởi nguồn là nền kinh tế tự nhiên - nền
kinh tế tự cung tự cấp, sau đó xuất hiện sự chun mơn hố. Đến thời kỳ Tư
bản chủ nghĩa, nó đã phát triển tới đỉnh cao nhất, trở thành quan hệ thống trị,
phổ biến trong xã hội.
Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác bắt đầu
từ hàng hố. Bởi vì, một mặt, sản xuất tư bản chủ nghĩa, trước hết là sản xuất

hàng hoá đã phát triển cao, trong đó hàng hố là "tế bào kinh tế của xã hội tư
sản". Muốn nghiên cứu "một cơ thể đã phát triển" thì phải bắt đầu từ "tế bào
của cơ thể đó". Mặt khác, "Sản xuất hàng hố và một nền lưu thơng hàng hố
phát triển, thương mại, đó là những tiền đề lịch sử của sự xuất hiện của tư
bản". Vì vậy, để hiểu được tư bản cũng như phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa phải bắt đầu từ hàng hoá và lịch sử vận động của nó. Đây cũng là
phương pháp nghiên cứu khoa học, vừa mang tính lơgic, vừa mang tính lịch
sử.
Mãi cho đến xã hội Xã hội Chủ nghĩa, sản xuất hàng hố vẫn cịn quy
luận giá trị, hay quy luật kinh tế của sản xuất hàng hố vẫn cịn quy luật giá
trị, hay quy luật kinh tế của sản xuất hàng hố vẫn hoạt động, mặc dù mục
đích của sản xuất Xã hội Chủ nghĩa là nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và văn
hoá của mọi thành viên trong xã hội, chứ khơng phải để bn bán nhằm mục
đích là thu lợi nhuận. Đặc điểm của sản xuất hàng hố Xã hội Chủ nghĩa là nó
khơng dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người. Tính ưu việt của sản xuất
hàng hoá là tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội, là sản phẩm của lịch
sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế và là
phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc.


1.2.2. Khái niệm về sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hố là sản xuất ra những sản phẩm để có thể đưa ra thị
trường nhằm mục đích bn bán. Nói cách khác, sản xuất hàng hoá là một
cách thức tổ chức sản xuất mà trong đó các sản phẩm làm ra dùng để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận hoặc đa số bộ phận người dân sử dụng,
chứ khơng phải để đáp ứng cho chính người trực tiếp sản xuất ra hàng hố.
Đây là hình thức tổ chức sản xuất phổ biến trên thế giới, đồng thời là cơ
sở tồn tại và phát triển của nền kinh tế và xã hội lồi người.
Sản xuất hàng hố ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển
của xã hội lồi người, đưa lồi người thốt khỏi tình trạng “mơng muội”, xố

bỏ nền kinh tế tự nhiê, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao
hiệu quả kinh tế của xã hội.

2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hố
Sản xuất hàng hố khơng ra đời đồng thời với sự xu hiện của xã hội lồi
người. Để nền kinh tế hàng hố có thể hình thành và phát triển, C.Mác cho
tằng cần hội đủ hai điều kiện sau đây:
2.1.

Phân công lao động xã hội
Là sự phân chia lao động trong xã hội vào các ngành nghề khác nhau

trong đó mỗi người chỉ sản xuất ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định.
2.1.1. Biểu hiện của phân công lao động xã hội
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu. Khi có phân cơng lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một
vài thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống địi hỏi họ phải có
nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc
phải trao đổi với nhau. Phân công lao động xã hội, chun mơn hóa sản xuất
đồng thời làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng
nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.


2.1.2. Cơ sở của phân công lao động xã hội
Khi diễn ra phân công lao động xã hội sẽ xuất hiện những nhóm người,
những khu vực chuyên sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nhất định,
trong khi nhu cầu của cuộc sống lại rất đa dạng nên tất yếu dẫn đến nhu cầu
trao đổi.
2.1.3. Vai trò của phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội chính là điều kiện cần cho sản xuất hàng hố

ra đời. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chun mơn hố lao động, do đó
dẫn đến chun mơn hoá sản xuất.
Làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân cơng lao
động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một vaid thứ sản
phẩm nhất định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ
phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Phân công lao động xã hội cịn góp phần làm cho năng suất lao động xã
hội tăng lên, từ đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dự được mang đi trao đổi,
làm nảy sinh nhu cầu trao đổi.
Như vậy, có thể nói, phân cơng lao động xã hội chính là cơ sở, là tiền đề,
là điều kiện cần của quá trình sản xuất, trao đổi hàng hoá.

2.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Tuy nhiên, phân công lao động mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ
để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại. Chính vì vậy, muốn sản xuất hàng hố
ra đời và tồn tại cần phải có điều kiện thứ hai, đó là phải có sự tách biệt tương
đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là những
người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Từ
đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế hoặc do họ
chi phối, người này muốn tiêu dùng lao động của người khác cần phải thông
qua trao đổi, mua bán.


Cơ sở của sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất
Trong lịch sử:
Sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.
C.Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và

không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá”.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất:
Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi các nhân và kết quả là sản phẩm
làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Nói cách khác, chính là quan hệ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất đọc lập, đối
lập với nhau. Tuy nhiên, họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội
nên họ phụ thuộc lẫn nhau về cả sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua việc mua
– bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hố.
Do sự tách rời, chia cắt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư
liệu sản xuất quy định. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về
quyền sở hữu mà còn khác biệt ở quyền sử dụng những khối lượng tư liệu sản
xuất khác nhau của cùng một chủ thể sở hữu. Khi sự tách biệt về kinh tế giữa
những chủ thể tồn tại trong điều kiện có sự phân cơng lao động thì việc trao
dổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phỉa đảm bảo được lợi ích của
họ. Điều đó chỉ có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có
đi có lại. Tức là trao đổi hàng hoám sản phẩm của lao động trở thành hàng
hoá.
Như vậy, hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho
những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt
kinh tế giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau.
Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua trao đổi,
mua bán sản phẩm của nhau. Phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương
đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là hai điều kiện cần và đủ để


hình thành sản xuất và trao đổi hàng hố. Nếu một trong hai điều kiện này
mất đi, sản xuất và trao đổi hàng hố sẽ khơng tồn tại, khơng mang hình thái
hàng hố.


3. Đặc trưng của sản xuất hàng hố
3.1.

Đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hoá

3.1.1. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua bán
Trong lịch sử loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất
tự cung, tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức
kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong thời kỳ
công xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế
độ phong kiến...
Ngược lại, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩ m
được sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
3.1.2. Lao động của người sản xuất hàng hố vừa mang tính tư nhân, vừa
mang tính xã hội
Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản
phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội.
Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất
hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế
nào là cơng việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân
đó có thể phù hợp hoặc khơng phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu
thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao
động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng
hóa.
3.2.

Nhận xét về đặc trưng của sản xuất hàng hoá

Sản xuất hàng hoá được ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc (tự cung tự cấp)

và thay thế nó trong suất cả q trình lịch sử lâu dài đầy biến động. Ở các xã


hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá là sản xuất giản đơn chỉ giữ vai
trò tuỳ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hố giản đơn đã tạo khả năng
phát triển ực lượng sản xuất thiết lập các mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị
kinh tế trước đó vốn tách biệt nhau. Quan hệ hàng hố phát triển nhanh chóng
ở thời kỳ chế độ phong kiến tan rã và góp phần thúc đẩy q trình đó diễn ra
mạnh mẽ hơn.
Trong đó, hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất
hàng hoá là sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Dưới chủ nghĩa tư bản quan
hệ hàng hoá thâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã
hội, hàng hoá trở thành tế bào của nền sản xuất xã hội. Nó mang đặc điểm dựa
trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động trên cơ sở bóc lột lao động
làm th dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa. Đặc điểm
của sản xuất hàng hố xã hội là khơng dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột
người và nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành
viên xã hội trên cơ sở sản xuất hinh doanh.

4. Ưu thế của sản xuất hàng hoá
Vốn dĩ nền kinh tế sang xuất hàng hoá là bước cải tiến mới, là sự phát
triển vượt bậc so với nền kinh tế tự cung tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hoá
mang những ưu thế vượt trội.
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân cơng lao động xã
hội, chun mơn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự
nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng
vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có

tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho
chun mơn hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các
vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, nó phá vỡ tính tự cấp tự túc,
bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao
động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ


hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó cịn
khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng còn bị
giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia
đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ
sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho
việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có
của sản xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh...
buộc người sản xuất hàng hóa phải ln ln năng động, nhạy bén, biết tính
tốn, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho
chi phí sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày
càng cao hơn.
Thứ tư: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở
rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước...
không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng
được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh mặt
tích cực, sản xuất hàng hố cũng có những mặt trái của nó như phân hố giàu
– nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ần những khả năng khủng
hoảng, phá hoại môi trường sinh thái – xã hội,…



CHƯƠNG II: NỀN KINH TẾ SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
TẠI VIỆT NAM

1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa tại Việt Nam
Nền sản xuất hàng hố ở Việt Nam qua các thời kỳ không ngừng đổi
mới, nâng cao, phát triển để ngày một hoàn thiện và thích nghi với thời đại.
1.1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa tại nước ta trước thời
kỳ đổi mới (1975 – 1986)
Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, trình độ lao
động, năng suất sản xuất thấp, chỉ có một số người ở tầng lớp trên mới được
sở hữu tư liệu lao động, các chính sách bế quan ở một số triều đại ban hành
làm kìm hãm sự lưu thơng hành hoá. Ở thời kỳ này, nền sản xuất hàng hoá ở
nước ta chỉ mới xuất hiện, chưa phát triển.
Ở thời kỳ trước đổi mới, cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao
cấp kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất hàng hố. Biến hình thức tiền
lương thành lương hiện vật, khơng có động lực sản xuất, khơng có cạnh tranh
và lưu thơng thị trường. Sự nhận thức sai lầm của nước ta thời kỳ này đã
khiến nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, sức sản xuất hàng hố tuột dốc khơng
phanh.
Việt Nam thời kỳ bao cấp chủ yếu gồm các ngành đó là nơng nghiệp,
cơng nghiệp và thương nghiệp. Công nghiệp được chia thành công nghiệp
nặng (điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ,…); công nghiệp hóa chất;
cơng nghiệp nhẹ, cơng nghiệp thực phẩm (thuốc lá, đường mật, rượu bia, đồ
hộp,…). Lực lượng lao động gồm công nhân, nông dân và lao động tri thức.
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp. Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô,
mang tính cục bộ, khơng triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khn khổ cơ
chế kế hoạch hố tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế cơng
hữu, tập trung, bao cấp và đóng cửa.



Đây là giai đoạn nền kinh tế chịu sự thống trị tuyệt đối của chế độ sở
hữu công cộng, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với các đặc
trưng nổi bật là quan liêu - bao cấp. Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường
bị phủ nhận. Do tính kém hiệu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
dưới áp lực của thực tiễn, trong thời kỳ cuối thập niên 1970, đầu thập niên
1980, trong nền kinh tế diễn ra những cải cách cục bộ theo hướng bước đầu
thừa nhận thị trường là một công cụ bổ sung cho kế hoạch, chủ yếu để tổ chức
hoạt động kinh doanh ở cấp vi mô Với sự thừa nhận này, thị trường không bị
coi là đối lập với chủ nghĩa xã hội và có thể chấp nhận được trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm 1979, Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV): Nghị quyết về lưu thông phân phối, mở đường áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần” trong các doanh
nghiệp nông nghiệp, cho phép doanh nghiệp nông nghiệp vươn ra thị trường
tự do với phần vượt ra ngoài kế hoạch pháp lệnh. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV khẳng định sản xuất Xã hội Chủ nghĩa tức là nền kinh tế dựa vào
hai thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (trong công và thương nghiệp) và
tập thể (trong công nghiệp với hợp tác xã cấp cao làm nòng cốt). Các nước đi
theo con đường chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam với mục đích là xây
dựng chế độ cơng hữu, xóa bỏ chế độ tư hữu.
Tuy đây là sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng, mang
tính đột phá, song vẫn chưa đủ để tạo ra một bước ngoặt căn bản trong quan
điểm lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế Xã
hội Chủ nghĩa. Thị trường chỉ được coi là công cụ bổ sung. Công cụ chủ yếu
để quản lý, điều hành và tổ chức kinh tế vẫn là kế hoạch pháp lệnh với các chỉ
tiêu định lượng cụ thể giao xuống từng doanh nghiệp (xí nghiệp quốc doanh
và hợp tác xã). Về thực chất, đó là những cải tiến, cải cách thể chế cục bộ
trong khuôn khổ cơ chế cũ (kế hoạch hoá tập trung) và nhằm duy trì, củng cố
hệ thống kinh tế vận hành thơng qua cơ chế đó.



Nhà nước giảm dần số mặt hàng cung cấp định lượng, thu hẹp dần chế
độ hai giá. Năm 1985, dưới áp lực lạm phát mạnh, tiến hành đổi tiền. Các
bước “tiến ra” thị trường này gây “sốc” mạnh trong xã hội do giá của ngày
càng nhiều hàng hoá chuyển thành giá thị trường trong khi giá các sản phẩm
đầu vào như lương (giá lao động) và lãi suất, tỷ giá (giá vốn) và giá một số
mặt hàng thiết yếu (gạo, chất đốt, thịt, v.v.) vẫn là phi thị trường. Nền kinh tế
lâm vào rối loạn, khủng hoảng. Nguyên nhân không phải do áp dụng các quan
hệ giá trị - thị trường mà do áp dụng chúng thiếu đồng bộ, không hệ thống và
thiếu triệt để.
Trong nhận thức lý luận, vẫn chưa thừa nhận những thay đổi mang
tính cấu trúc của nền kinh tế mà thiếu chúng, khơng thể có nền móng cho sự
tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường. Trên thực tế, chưa thừa nhận tính
tất yếu của kinh tế đa thành phần, đa sở hữu, của sở hữu tư nhân và các lợi ích
hợp pháp được hưởng từ các quyền tài sản (phủ nhận nguyên tắc phân phối
dựa vào nguồn vốn đóng góp). Khơng thừa nhận quyền tự chủ kinh doanh, tự
chịu trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp. Nền kinh tế vận hành theo
nguyên tắc "hiện vật", phủ nhận thị trường, giá cả và cạnh tranh thị trường.
Tiếp tục duy trì mơ hình tự cung - tự cấp kiểu Xô viết: xây dựng nền kinh tế
tự bảo đảm, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, hướng nội, phụ thuộc vào
nguồn tài trợ quốc tế (từ các nước Xã hội Chủ nghĩa).
Với quan niệm rằng sản xuất hàng hóa khơng tồn tại trong chế độ
cơng hữu hay không tồn tại trong chế độ xã hội, các quốc gia đi theo con
đường chủ nghĩa xã hội (trong đó có Việt Nam) áp dụng cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, phủ nhận sự tồn tại của sản xuất hàng hóa, phủ nhận sự tồn
tại của thành phần kinh tế tư nhân. Vì thế, trong thời kỳ bao cấp ở Việt nam,
sản xuất hàng hóa chỉ mang tính hình thức, có sự phân cơng lao động nhưng
khơng có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
Rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu
sản xuất quan trọng khơng được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.



Trước những đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế
thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền
kinh tế Xã hội Chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu;
coi thị trường chỉ là một công cụ thiết yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa
nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở
hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng.
Như vậy, các cơ chế chính sách trong thời kỳ bao cấp của Việt Nam
không phù hợp với quy luật sản xuất hàng hóa, thậm chí đi ngược lại với quy
luật của sản xuất hàng hóa.
1.2.

Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa tại nước ta sau
thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội

dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Đại hội Đảng VI đề ra đường lối đổi mới, trong đó, nhấn mạnh yêu cầu
đổi mới tư duy. Tư tưởng coi việc “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền
tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý” (sau tính kế hoạch), địi hỏi
“sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí
với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để
tái sản xuất mở rộng”, v.v. được ghi trong Báo cáo Chính trị của Đại hội là đột
phá quan trọng về tư tưởng và đường lối phát triển kinh tế của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội VI đột phá mạnh và căn bản trong tư duy lý luận bằng việc đề
ra đường lối đổi mới, trong đó, phê phán và từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp, coi sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá khơng phải là sản
phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, thừa nhận sự tồn tại khách quan của


“nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” trên con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội (cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Hội nghị giữa kỳ Đại hội VII).
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI (1986), Việt Nam đã quyết
định xóa bỏ cơ chế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Vào năm 1991,
Đại hội Đảng VII, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh khẳng định đường lối “Phát triển
một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ
nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ đạo... Xố bỏ triệt để cơ chế quản
lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.”
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất được thể hiện
rất rõ trong thời kỳ Việt Nam đổi mới. Việt Nam thừa nhận sự xuất hiện của
tư hữu. Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản
xuất cũng được thể hiện rõ ràng. Đó là quyết định chiến lược, kế hoạch sản
xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc đề
nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh quản ký quan trọng trong
cơng ty; quyết định góp vốn, tăng giảm của công ty tại doanh nghiệp khác;
quyết định tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu, giải thể công ty; quy định quy chế
quản lý nội bộ, tổ chức, quản lý điều hành doanh nghiệp tuân thủ đúng quy
định của pháp luật,… Mở cửa kinh tế và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế,
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất

cả các nước, biến nền kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế
giới và khu vực. Mở rộng cơ hội phát triển cho đông đảo nhân dân thuộc tất
cả các tầng lớp trên cả nước. Lợi ích do đổi mới mang lại được phân phối
rộng khắp và tương đối bình đẳng trong xã hội. Nhân dân ngày càng có nhiều
cơ hội việc làm, tiếp thu tri thức mới và nâng cao trình độ văn hố và năng
lực hành động. Quá trình đổi mới giúp nhận thức đầy đủ hơn, đi đến khẳng



×