I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiếu của đề tài:
Dân tộc là vấn đề mang tính chất thời sự đối với tất cả các quốc gia trên
thế giới. Vấn đề dân tộc ln mang tính lý luận và tính thực tiễn sâu sắc. Đặc
biệt trong bối cảnh hiện nay, vấn đề dân tộc đang có những diễn biến phức tạp
đối với mỗi một quốc gia và cả toàn cầu. Dân tộc, sắc tộc, tôn giáo là vấn đề
nhạy cảm mà thế lực thù địch ln tìm cách lợi dụng nhằm chống phá sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta và chia rẽ
khối đại đoàn kết của dân tộc ta.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh
sống (trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số) và có sự cư trú đan xen trên nhiều
địa bàn của Tổ quốc. Anh em các dân tộc Việt Nam có truyền thống đồn kết,
ln kề vai sát cánh trong q trình dựng nước và giữ nước. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc và đã đề ra chủ
trương, chính sách dân tộc với ngun tắc nhất qn: các dân tộc “bình đẳng,
đồn kết, tương trợ nhau cùng phát triển”. Chính sách của Đảng được đồng
bào các dân tộc ủng hộ, đón nhận và ra sức thực hiện, tạo động lực to lớn, góp
phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ và những
thành tựu to lớn của cách mạng XHCN. Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu
cầu của cơng cuộc đổi mới tồn diện, đồng bộ đất nước và hội nhập quốc tế
với những thời cơ và thách thức đan xen, việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân
tộc có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh. Bởi vì
vậy, mà bản thân em đã chọn đề tài chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ
lên XHCN ở Việt Nam để có thể học thêm và nghiên cứu kỹ hơn. Đồng thời
cũng làm đề tài tiểu luận kết thúc phần Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục tiêu:
1
Nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách dân tộc mà Đảng và Nhà nước ta
trong thời kỳ quá độ, để ta có thể đi sâu vào vấn đề này một cách kỹ lưỡng, cụ
thể hơn. Trong quá trình, thực hiện phát triển chính sách dân tộc, cịn nhiều
thứ vẫn bất trắc và cần phải thay đổi để làm tốt hơn.
3. Nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc.
- Làm rõ thực trạng, thực hiện chính sách dân tộc ở việt nam
- Thành tựu và thách thức cần vượt qua.
4. Kết cấu:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1 – Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc
Chương 2 – Thực trạng, thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam
Chương 3 – Thành tựu và thách thức cần vượt qua
2
II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và
thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta ngay từ khi thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc
và xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt, là con cháu một nhà, thương yêu
đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc. Người còn
khẳng định: “Đồn kết, đồn kết đại đồn kết. Thành cơng, thành công, đại
thành công”. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và nhà nước coi việc giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy
sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
1. Khái niệm dân tộc
Hiện nay, khái niệm dân tộc đựoc sử dụng trong các văn kiện chính trị,
văn bản pháp luật hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng được hiểu theo
hai nghĩa khác nhau: Theo nghĩa thứ nhất, “dân tộc” được hiểu là “tộc người”.
Với nghĩa này, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng người có các đặc
trưng cơ bản về ngơn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác về cộng đồng có tính bền
vững qua sự phát triển lâu dài của lịch sử. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Tày,
dân tộc Si La, dân tộc Ba Na, dân tộc Chăm... Hiểu theo nghĩa này, kết cấu
dân cư của một quốc gia có thể bao gồm nhiều dân tộc (tộc người) khác nhau,
trong đó có những dân tộc chiếm đa số trong thành phần dân cư và có những
dân tộc thiểu số.
3
Theo nghĩa thứ hai, dân tộc được hiểu là quốc gia dân tộc. Ví dụ như:
dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Đức... Theo nghĩa này, dân tộc
là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng chính trị - xã hội được hợp thành bởi
những tộc người khác nhau trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định. Như
vậy, khái niệm dân tộc ở đây được hiểu đồng nghĩa với quốc gia đa tộc người,
và cũng đồng nghĩa với nhà nước thống nhất của các tộc người trên một lãnh
thổ có chủ quyền quốc gia. Theo nghĩa này, dân cư của dân tộc này được
phân biệt với dân cư của dân tộc khác bởi yếu tố quốc tịch. Do đó, một tộc
người có thể có ở những quốc gia dân tộc khác nhau theo sự di cư của tộc
người đó. Ví dụ: trong kết cấu dân cư của dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung
Hoa đều có tộc người H’Mông và tộc người Dao.
2. Quan điểm của Đảng và nhà nước về dân tộc
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, xuyên suốt
mọi thời kỳ cách mạng là: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau
cùng phát triển”, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “Nhà
nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định“Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ;
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
3.Những định hướng cơ bản trong chính sách dân tộc của nước ta
giai đoạn hiện nay
- Phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi tồn diện cả về chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phịng.
- Phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và nội lực vươn lên của các địa
phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi; khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại
vào Nhà nước.
4
- Thực hiện chính sách ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải chú ý
những đặc điểm tự nhiên, lịch sử, xã hội, phong tục, tập quán của từng vùng,
từng dân tộc
- Đồng bào các dân tộc là chủ thể quyết định trong tổ chức thực hiện
chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương mình. Khắc phục tình trạng
bao biện, làm thay, áp đặt mà khơng tơn trọng tính tự chủ, phong tục, tập qn
truyền thống của đồng bào các dân tộc
4. Pháp luật về dân tộc – sự thể chế hóa chính sách dân tộc
Pháp luật về dân tộc là sự thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng
về vấn đề dân tộc để nó thực sự đi vào cuộc sống. Pháp luật về dân tộc có vai
trị quan trọng, là cơng cụ để quản lý nhà nước trong lĩnh vực dân tộc. Công
tác dân tộc là nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Mỗi tổ chức
trong hệ thống chính trị, tùy theo địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình mà có phương thức khác nhau để thực hiện cơng tác dân tộc. Bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, quản lý nhà nước về dân tộc
bằng những biện pháp, cơng cụ khác nhau, trong đó pháp luật là cơng cụ quan
trọng nhất.
Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta mang tính tồn diện, tổng
hợp, qn xuyến tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân
tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia.
Việc thực hiện chính sách dân tộc tạo ra sự bình đẳng, đặt nền móng
cho đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam, góp
phần xây dựng, hồn thiện nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền con người,
tiến tới xóa bỏ sự chênh lệch về kinh tế văn hóa xã hội giữa các dân tộc, vùng
miền.
5
6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG, THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM
1. Nhận thức mới, tư duy mới về vấn đề dân tộc của Đảng
Vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc có vai trị và vị trí đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Có thể khẳng
định, chính sách dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực
hiện nhất qn theo ngun tắc: bình đẳng, đồn kết, tương trợ trên tinh thần
tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau, hướng tới mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Nội dung của chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
- Chính sách về phát triển kinh tế vùng các dân tộc thiểu số nhằm phát
huy tiềm năng, thế mạnh của vùng đồng bào các dân tộc, gắn với kế hoạch
phát triển chung của cả nước, đưa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cùng cả
nước tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Chính sách xã hội tập trung vào các vấn đề giáo dục - đào tạo, văn
hóa, y tế... nhằm nâng cao năng lực, thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, tạo tiền đề và các cơ hội để các dân tộc có đầy đủ các điều kiện tham gia
q trình phát triển, trên cơ sở đó không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của đồng bào.
- Chính sách liên quan đến quốc phịng - an ninh, nhằm củng cố các địa
bàn chiến lược, giải quyết tốt vấn đề đoàn kết dân tộc và quan hệ dân tộc
trong mối liên hệ tộc người, giữa các tộc người và liên quốc gia trong xu thế
toàn cầu hóa.
Nhìn tổng thể cả ba chính sách trên, xét về mục tiêu, chính sách dân tộc
của Đảng đều nhằm khai thác mọi tiềm năng của đất nước để phục vụ đời
7
sống nhân các dân tộc, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch, xóa đói,
giảm nghèo, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, thể hiện ngun tắc cơ bản: bình đẳng, đồn kết, tơn trọng giúp
nhau cùng phát triển. Các nội dung đó có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau, hợp thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển. Bình đẳng dân tợc là nền tảng thực hiện đồn kết dân
tộc; có đồn kết, thương u, tơn trọng giúp đỡ nhau thì mới thực hiện được
bình đẳng dân tộc. Nhìn lại thời kỳ đổi mới, có thể khái lược ở những nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ
bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt
Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc
thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Trong những
năm qua tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc thiểu sớ đặc biệt khó
khăn, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, như tình trạng thiếu lương
thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ
sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản
xuất, đất ở và vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
nhất là ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khmer ở Tây Nam
Bộ. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên
giới. Tất cả công việc này đều được xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết dân
tộc.
8
Thứ ba, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các
vùng dân tộc thiểu số. Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta
vẫn cịn tình trạng phát triển không đều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng
phát triển là một tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Đảng và
Nhà nước ta coi trọng tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc
là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở; kiên quyết khắc
phục tình trạng quan liêu, xa dân của một số cán bộ; thực hiện tốt công tác
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ. Đẩy
mạnh phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng thế trận
quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tại chỗ
để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch; tăng
cường công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội, khơng để
xảy ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền
núi. Tiếp tục xây dựng, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp quốc phòng ở
vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Thứ tư, đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, tạo
điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và
giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phịng ở địa phương. Thơng qua các chính sách, biện
pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự
cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
2. Chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Từ chủ trương của Đảng về vấn đề dân tộc, xác định rõ phát triển vùng
dân tộc thiểu số và miền núi phải gắn với những vấn đề đổi mới cơ cấu kinh
9
tế và tổ chức sản xuất theo hướng chuyển sang sản xuất hàng hóa phù hợp với
đặc điểm kinh tế của từng vùng, tiểu vùng, dân tộc; gắn phát triển kinh tế - xã
hội với giải quyết vấn đề dân tộc và quốc phòng - an ninh. Với mục tiêu thu
hẹp khoảng cách về phát triển giữa các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, phần
lớn các chương trình của Nhà nước tập trung vào hỗ trợ sinh kế và tạo cơ hội
xóa đói, giảm nghèo, như: Chương trình 143 (Chương trình xóa đói, giảm
nghèo và tạo việc làm giai đoạn 2001 - 2005, được phê duyệt theo Quyết định
số 143/2001/QĐ-TTg, ngày 27-9-2001, của Thủ tướng Chính phủ); Chương
trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn
miền núi và vùng sâu, vùng xa, được phê duyệt theo Quyết định số
135/1998/QĐ-TTg, ngày 31-7-1998, của Thủ tướng Chính phủ); Chương
trình 134 (một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh
hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, theo Quyết
định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20-7-2004, của Thủ tướng Chính phủ);
Chương trình phân bổ đất rừng và trồng rừng; các chính sách về giáo dục, y
tế,... Trong giai đoạn 2011 - 2018, có 205 chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế
- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi được ban hành. Tính riêng giai
đoạn 2016 - 2018, theo Báo cáo số 426/BC-CP, ngày 4-10-2018, của Chính
phủ, “Đánh giá 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số và miền núi”, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành 41 chương trình, chính sách, trong đó có 15 chính sách trực tiếp cho
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và 36 chính sách chung có
ưu tiên cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Nội dung các chính sách giai đoạn
2016 - 2018 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giảm nghèo; phát triển sản xuất
trong nông, lâm nghiệp, thủy sản; phát triển giáo dục - đào tạo, văn hóa, như:
Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, phát triển sản xuất và ổn
định đời sống cho người dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo vùng đặc biệt khó
khăn; ổn định cuộc sống cho người dân tộc thiểu số di cư tự phát; phát triển
kinh tế - xã hội cho các dân tộc thiểu số rất ít người; phát triển nguồn nhân
10
lực các dân tộc thiểu số, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc thiểu số;
tuyên truyền và phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số…
Tính đến tháng 10-2020, có 118 chính sách đang có hiệu lực triển khai
thực hiện ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có 54 chính
sách trực tiếp cho các đồng bào dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và
miền núi, 64 chính sách chung có ưu tiên cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Ngồi những chính sách tác động trực tiếp đến vùng dân tộc thiểu số và miền
núi, hiện nay cịn 21 chương trình mục tiêu có nội dung gián tiếp tác động đến
vùng này.
Có thể nói, cho đến nay, hệ thống chính sách dân tộc được ban hành
khá đầy đủ, bao phủ toàn diện các lĩnh vực, nhằm hỗ trợ đồng bào các dân tộc
thiểu số phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững; phát triển giáo dục - đào tạo,
y tế, văn hóa; phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ
sở vững mạnh. Các chương trình đã đem lại những hiệu quả tích cực về đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta. Từ năm
2003 đến năm 2020, Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư, hỗ trợ kinh phí
nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi,
với tổng kinh phí: giai đoạn 2003 - 2008 là khoảng 250.000 tỷ đồng, giai đoạn
2011 - 2015 là 690.000 tỷ đồng, giai đoạn 2016 - 2020 là 998.000 tỷ đồng.
Nguồn lực đầu tư đó được tập trung vào xây dựng hàng vạn cơng trình kết cấu
hạ tầng (đường giao thơng, cơng trình thủy lợi, hệ thống điện, cơng trình nước
sạch, trường học, lớp học, trạm y tế, nhà văn hóa, trung tâm cụm xã...); hỗ trợ
phát triển kinh tế - xã hội cho dân tộc thiểu số rất ít người; hỗ trợ nhà ở, đất ở,
đất sản xuất, nước sinh hoạt, hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất... cho hàng
trăm nghìn hộ đồng bào các dân tộc thiểu số.
Nhờ vậy, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã có sự phát triển mạnh
mẽ hơn, phong phú và đa dạng hơn, đời sống vật chất và tinh thần của người
11
dân được cải thiện rõ rệt so với trước thời kỳ đổi mới, trên tất cả các phương
diện: ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe, nghe, nhìn. Tỷ lệ hộ
nghèo ở các xã, thơn, bản đặc biệt khó khăn giảm trung bình 3,5%/năm.
Tuy nhiên, so với sự phát triển của đất nước nói chung, vùng đồng bào
dân tộc thiếu số vẫn là vùng chậm phát triển nhất. Điều đó cho thấy, việc
hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta vẫn cịn những khó
khăn, bất cập. Các nguyên nhân khách quan và chủ quan là: Một số chính
sách thiếu tính cụ thể, khả thi, chưa phù hợp với thực tiễn. Bộ máy tổ chức
thực hiện còn thiếu đồng bộ, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu. Thực tế cho
thấy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc không đồng đều
nhau. Ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, có nhiều khó khăn trong việc
tiếp nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ nên đã bỏ lỡ
nhiều cơ hội để vươn lên, chưa sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Chính sách dân
tộc hiện nay vẫn chủ yếu là các chính sách hỗ trợ trực tiếp, chưa có nhiều
chính sách đầu tư, hỗ trợ có điều kiện, với mục đích cung cấp kỹ năng, tự tạo
sinh kế bền vững cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Bởi vậy, trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều người vẫn còn mang tư tưởng ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, khơng muốn vươn lên để thốt nghèo.
12
CHƯƠNG III: THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC CẦN VƯỢT QUA
1. Những khó khăn, thách thức cần vượt qua
Bên cạnh một số thành tựu đặt được, còn nhiều yếu kém cũng như
thách thức đặt ra cho công tác dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, hệ thống chính sách vùng dân tộc và miền núi so với giai
đoạn trước có nhiều ưu điểm, nhưng cịn bộc lộ khơng ít hạn chế, như chưa
bảo đảm gắn kết thống nhất giữa chính sách phát triển dân tộc - tộc người với
chính sách phát triển vùng; thời gian thực hiện chính sách ngắn, thiếu tính
chiến lược; trình tự thủ tục xây dựng và trình một số đề án mất nhiều thời
gian; hầu hết các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ; chính sách đầu tư
chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, do vậy hiệu quả chưa thực sự bền vững;
nhiều chính sách phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến định mức khơng
cịn phù hợp với thực tế; có chính sách do huy động nhiều nguồn vốn, khi cấp
vốn không đồng bộ dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện; việc bố trí
vốn đối ứng của các địa phương gặp khó khăn do đa số các địa phương vùng
dân tộc và miền núi đều phải nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương.
Việc xây dựng một số chính sách thiếu thực tế, chưa phù hợp với địa
bàn vùng dân tộc và miền núi. Tổ chức thực hiện chính sách cịn nhiều yếu
kém, phân cơng chủ trì chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa hợp lý; việc phối hợp
giữa các bộ, ngành có lĩnh vực chưa chặt chẽ, chỉ đạo có mặt cịn chồng chéo.
Việc lồng ghép các chính sách trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi còn
nhiều khó khăn, bất cập. Cơng tác kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực
hiện chính sách cịn hạn chế. Chỉ đạo, thực hiện chính sách ở một số địa
phương cịn lúng túng. Cơng tác lập kế hoạch, rà sốt đối tượng thụ hưởng
trong việc thực hiện một số chính sách chưa sát với thực tế,...
13
Thứ hai, ở vùng dân tộc và miền núi, kinh tế chậm phát triển so với
tiềm năng của vùng và phát triển chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động chuyển dịch chậm. Mức độ thương phẩm hóa của nông sản còn thấp;
sản phẩm sản xuất ra chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, sức cạnh tranh và
hiệu quả kinh tế thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu và yếu kém: Hiện
còn 535/1.848 xã có đường đến trung tâm xã chỉ đi được trong mùa khơ;
14.093 thơn, bản chưa có đường ơ-tơ; 204/1.848 xã chưa có điện lưới quốc
gia đến trung tâm xã và trên 8.100 thôn, bản chưa được sử dụng điện lưới
quốc gia; 304 xã đặc biệt khó khăn chưa đủ lớp học kiên cố; 15.930 thơn, bản
chưa có nhà trẻ, mẫu giáo; 758 xã chưa có nhà văn hóa;...
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều vùng dân tộc và miền núi
cao nhất cả nước; tình trạng tái nghèo phổ biến ở nhiều nơi. Năm 2016, tỷ lệ
hộ nghèo khu vực miền núi Tây Bắc là 34,52%, miền núi Đông Bắc: 20,74%;
Tây Nguyên: 17,14%; các tỉnh Bắc Trung Bộ: 12,5%. Kết quả giảm nghèo
thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục và
nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thấp: 21% số người trong độ tuổi đi
học không biết đọc, biết viết chữ phổ thông; số người trong độ tuổi lao động
chưa qua đào tạo chiếm 89,5%, riêng số người trong độ tuổi lao động là người
dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo chiếm 94,2% (tỷ lệ này ở đồng bào dân tộc
Mông là 98,7%; Khmer: 97,7%; Thái: 94,6%; Mường: 93,3%); chất lượng
đào tạo nghề thấp.
2. Những thành tựu quan trọng trong thực thi chính sách dân tộc
Cơng tác dân tộc thời gian qua đã góp phần tích cực làm thay đổi rõ nét
diện mạo nông thôn vùng dân tộc và miền núi, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc ngày càng được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế các lĩnh vực của đời
sớng. Qua đó, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên từng
bước, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt.
14
Theo báo cáo của các địa phương vùng dân tộc và miền núi, chỉ tiêu
giảm tỷ lệ hộ nghèo đều đạt và vượt, bình quân khoảng 3% - 4%/năm, cụ thể
là: Các tỉnh vùng Đông Bắc giảm 3,62%; Tây Bắc giảm 4,47%; Tây Nguyên
giảm 3,04%; đồng bằng sông Cửu Long giảm 2,15%. Kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội thay đổi rõ rệt: 98,6% số xã có đường ơ-tơ đến trụ sở ủy ban nhân dân
xã; có 99,8% số xã và 95,5% số thơn có điện (số liệu của Tổng Cục thống kê
năm 2010 - 2015).
Cơng tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan. Đời sống của
đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Đặc biệt, mặt bằng dân trí được
nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học
và xóa mù chữ. Hệ thống trường phổ thơng dân tộc nội trú được hình thành và
phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi, tạo nguồn
đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng cao một
bước, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn
và phát huy. Hệ thống phát thanh, truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi
khơng ngừng phát triển. Cơng tác giáo dục có nhiều tiến bộ: 99,5% số xã có
trường tiểu học; 93,2% số xã có trường trung học cơ sở; 12,9% số xã có
trường trung học phổ thơng và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non;
100% số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung
học cơ sở. Loại hình trường nội trú, bán trú đang phát triển, hiện nay cả nước
có 294 trường phổ thơng dân tộc nội trú với 80.832 học sinh; 4 trường dự bị
đại học với trên 3.000 học sinh/năm. Tất cả các tỉnh vùng dân tộc và miền núi
đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo
nghiệp vụ trong các lĩnh vực nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục,
y tế,...
Bên cạnh đó, mạng lưới y tế phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện
và trạm y tế xã được quan tâm đầu tư, có 99,39% số xã có trạm y tế, 77,8% số
15
xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Năm 2013, có 88% số thơn, bản trong cả nước
có nhân viên y tế hoạt động. Đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận dịch vụ
chăm sóc sức khỏe cơ bản, người nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí và
được hưởng chính sách bảo hiểm y tế đúng quy định. Các dịch bệnh ở vùng
dân tộc và miền núi, như sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; tỷ lệ trẻ em
suy dinh dưỡng giảm đáng kể. Mạng lưới thông tin, văn hóa, thể thao nơng
thơn có sự phát triển nhanh, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào. Năm 2011, 81,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh đến thơn;
38,7% số xã có nhà văn hóa xã; 48% số xã có sân thể thao.
Cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc
và miền núi có chuyển biến tốt, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với
người dân. Công tác vận động nhân dân, phát huy vai trò người có uy tín
trong cộng đồng được chú trọng. Bình đẳng giới từng bước được tạo lập giúp
người phụ nữ nâng cao nhận thức, vươn lên phát huy vai trò của bản thân
trong gia đình và xã hội.
16
III. KẾT LUẬN
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính tồn diện, tổng
hợp, qn xuyến tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân
tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia. Chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp
và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt chính sách
dân tộc tạo ra bình đẳng xã hội, đặt nền móng cho đại đồn kết tồn dân, góp
phần xây dựng, hồn thiện nhà nước pháp quyền và bảo đảm con người. Do
đó, chính sách dân tộc cịn mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời cịn
mang tính nhân đạo, bởi vì, nó khơng bỏ sót bất cứ dân tộc nào, khơng cho
phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ dân tộc; nó tơn trọng quyền
làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó
cịn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu
quả của các dân tộc anh em trong cả nước. Nhận thức đúng đắn bản chất, nội
dung, tính chất của chính sách dân tộc có ý nghĩa quyết định tới việc định
hướng và đổi mới các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, làm cho chính
sách dân tộc đi vào cuộc sống.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học
2. />3. />4.
/>
viet-nam-thanh-tuu-va-thach-thuc-can-vuot-qua-7127.html#ref-http://
mattran.org.vn/to-chuc-thanh-vien/chinh-sach-dan-toc-tai-viet-nam-thanhtuu-va-thach-thuc-can-vuot-qua-7127.html
5.
/>
de-dan-toc-o-viet-nam-trong-giai-doan-hien-nay
18