Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo - vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.03 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU...............................................................................................3
B.NỘI DUNG............................................................................................5
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo.........5
1.Một số khái niệm cơ bản.........................................................................5
1.1. Khái niệm hợp tác quốc tế.............................................................5
1.2. Khái niệm giáo dục và đào tạo.......................................................5
1.3. Khái niệm hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo...........................6
2. Vai trò của giáo dục và đào tạo............................................................6
Chương 2: Thực trạng vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở nước
ta hiện nay.................................................................................................7
1. Thực tiễn tình hình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo 7
2. Đánh giá chung vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo........................................................................................................15
2.1. Thành tựu giáo dục đào tạo trong hợp tác quốc tế........................15
2.2. Hạn chế về giáo dục đào tạo trong hợp tác quốc tế......................18
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển hợp tác quốc tế trong
giáo dục và đào tạo hiện nay....................................................................19
1. Phương hướng nâng cao hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo.............20
2. Giải pháp khắc phục khó khăn quá trình hợp tác quốc tế về giáo dục
đào tạo..................................................................................................21
C.KẾT LUẬN..........................................................................................24

1


A.MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết trong thời đại hội nhập như hiện nay, khoa học cơng
nghệ bùng nổ thì càng khơng thể thiếu vai trị của người dân có trình độ cơng
nghệ cao. Theo Becker (1964), nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm 1992, khơng có
đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là


đầu tư vào giáo dục. Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự
đem lại những chuyển biến về trình độ học vấn trong cộng đồng người dân, đây
là một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động
đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm cho người dân. Điều đó cho chúng ta
thấy khi người dân đạt được một trình độ học vấn nhất định họ sẽ có khả năng
tiếp thu thơng tin cũng như khả năng phát huy chun mơn của mình một cách
tốt nhất. Vì vậy, những người có trình độ học vấn càng cao thì cơ hội họ tìm
được một cơng việc tốt và thích hợp sẽ dễ dàng hơn so với những người khác.
Hợp tác quốc tế đã và đang là xu thế tất yếu đối với mỗi quốc gia, mỗi
ngành nghề để ngày càng mở rộng và phát triển sâu rộng và bền vững. Giáo dục
và đào tạo cũng vậy, hội nhập quốc tế đã được coi là một trong những nhiệm vụ
chủ yếu của ngành hiện nay. Điều này đã được Bộ trưởng Bộ GDĐT Phùng
Xuân Nhạ phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 với chủ đề "Nâng cao
hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế - Thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XII”. Phát triển giáo dục và đào tạo chính là xây
dựng nền móng văn hóa dân tộc, là cơ sở để phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Giáo dục và đào tạo là cơ sở thiết yếu
để đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục và đào tạo khơng
chỉ là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến đào tạo nguồn nhân lực cho nền sản
xuất xã hội mà còn là trung tâm đào tạo nhân tài cho đất nước. Hiền tài là
nguyên khí quốc gia, có vai trị to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong
quá trình phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay, vai trị của nhân tài nói riêng,
2


của đội ngũ trí thức nói chung ngày càng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng khơng
chỉ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội mà cả trong lĩnh vực an ninh
quốc phòng, trong đối nội và đối ngoại.
Chính vì vậy, để làm rõ hơn về cơ sở lí luận hợp tác quốc tế, vai trị của

giáo dục đào tạo hay tình hình thực tế vấn đề của hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo hiện nay, đồng thời đưa ra một vài kiến nghị, giải pháp
nhằm nâng cao quá trình hội nhập quốc tế, em đã lựa chọn đề tài: “Vấn đề hợp
tác quốc tế về giáo dục và đào tạo nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận môn
Quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo.

3


B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm hợp tác quốc tế
Hợp tác được hiểu là cùng nhau góp cơng sức, góp tài sản để thực hiện
một cơng việc, mục đích chung và vì lợi ích chung. Hợp tác quốc tế là sự liên
kết của nhiều chủ thể có sự khác nhau về quốc tịch, cùng hướng tới một mục
tiêu, không chống phá, chiến tranh với nhau.
1.2. Khái niệm giáo dục và đào tạo
Giáo dục theo cách hiểu hiện nay: Là một bộ phận của quá trình xã hội, là
một hệ thống mở, đáp ứng nhu cầu học tập và tự hoàn thiện của mọi người, ở
mọi lứa tuổi, được thực hiện trong thời gian, không gian khác nhau; Giáo dục
còn được thực hiện với những điều kiện, phương tiện, thiết bị khác nhau
(phương tiện kỹ thuật số, hệ thống tài liệu; truyền thông đại chúng ...) với cách
dạy và kiểu học đa dạng, mềm dẻo và linh hoạt khác nhau.
Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến
thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững
những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc

nhất định. Khái niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục,
thường đào tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi
nhất định, có một trình độ nhất định.
Giáo dục và đào tạo là quá trình phát triển có hệ thống các tri thức, kĩ
năng,kĩ xảo và thái độ, tư cách… đòi hỏi ở một con người được giáo dục và đào
tạo thực hiện được nhiệm vụ chuyên môn nhất định. Đào tạo được hiểu là một
nội dung của giáo dục trong nhà trường hướng về giáo dục chuyên môn nghiệp
vụ.

4


1.3. Khái niệm hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là hoạt động liên kết,
phối hợp đào tạo, giáo dục giữa nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ trên thế giới để
thúc đẩy sự phát triển về chất và lượng của giáo dục. Hoạt động đào tạo hợp tác
quốc tế đang diễn ra mạnh và trong lĩnh vực đào tạo đại học và sau đại học.
2. Vai trị của giáo dục và đào tạo
Giáo dục có vai trò to lớn trong phát triển con người, thể hiện ở một số
mặt dưới đây:
Thứ nhất, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta
ln ln quan tâm đến sự nghiệp chăm sóc và phát huy yếu tố con người. Điều
đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của
yếu tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn
hóa, mọi nền văn minh của quốc gia. Xây dựng và phát triển con người trí tuệ
cao, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là
động lực, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, giáo dục và đào tạo
có vai trị quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia.
Thứ hai, phát triển giáo dục - đào tạo sẽ nâng cao dần về mặt bằng dân trí,
yếu tố thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội của môi trường quốc gia

Thứ ba, sự phát triển của giáo dục - đào tạo sẽ tạo ra một nguồn nhân lực
có đạo đức và trí tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, đặc biệt u cầu của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể nói, trong các nguồn lực để phát triển, nguồn lực có trí tuệ là nhân
tố cơ bản, quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, Vì vậy, chính
sách giáo dục có ý nghĩa đặc biệt, được coi là quốc sách hàng đầu của quốc gia.

5


Chương 2:
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Thực tiễn tình hình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Một số thành tựu cụ thể:
Thành tựu hợp tác giáo dục và đào tạo Việt Nam – Hàn Quốc
Về liên kết đào tạo và trao đổi, giao lưu
Trải qua quá trình nỗ lực hợp tác cùng với sự phát triển ngày càng nhanh
và mạnh mẽ của kinh tế, hoạt động liên kết đào tạo và trao đổi, giao lưu giữa
Việt Nam – Hàn Quốc ngày càng đạt được những kết quả ấn tượng. Theo số liệu
thống kê từ Cục Quản lý xuất, nhập cảnh Hàn Quốc, vào năm 2019, Việt Nam là
quốc gia có số du học sinh tại Hàn Quốc lớn thứ hai với 37.426 sinh viên, chỉ
đứng sau Trung Quốc. Cụ thể, hiện có hơn 160.165 sinh viên nước ngoài đang
theo học các chương trình giáo dục bậc đại học tại Hàn Quốc, trong đó số sinh
viên Việt Nam chiếm 23,4%, tăng gấp 14 lần so với năm 2009..
Về liên kết đào tạo, hiện nay, một số trường đại học của Hàn Quốc và
Việt Nam đã thực hiện “Quy chế công nhận điểm học lẫn nhau”, điển hình là
Trường Đại học Ngoại ngữ Busan với Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
TP. Hồ Chí Minh thực hiện quy chế “Double degree”(bằng học liên kết), sinh
viên học 2 năm tại Việt Nam, 2 năm tại Hàn Quốc đã tạo nhiều thuận lợi cho

sinh viên trong việc học tập, nghiên cứu.
Đối với hoạt động đào tạo ngôn ngữ Hàn Quốc tại Việt Nam, ngay sau khi
Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội (trước đây là Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội) đã thành lập bộ mơn tiếng Hàn. Tiếp đó, hàng chục đơn vị
nghiên cứu về Hàn Quốc đã ra đời, như: Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc, Viện
Đông Bắc Á – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; bộ môn Hàn Quốc
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh…

6


Các đơn vị nghiên cứu về Hàn Quốc nói trên đều có chung mục đích là
đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, giới thiệu về đất nước, lịch sử con người,
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, ngơn ngữ, quan hệ quốc tế của Hàn Quốc để
phục vụ nhu cầu hiểu biết của người dân Việt Nam; đồng thời, góp phần cung
cấp thơng tin, luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. Về chiều ngược lại, tại Hàn Quốc, hàng loạt cơ sở
giáo dục, như Đại học Ngoại ngữ Pusan, Đại học Công nghiệp Chung Nam, Đại
học chuyên ngữ Sung Sim, Đại học Liên hiệp châu Á… đã thành lập khoa đào
tạo tiếng Việt, hằng năm tuyển sinh và đào tạo từ 40 – 80 sinh viên.
Thiết lập các quỹ học bổng, hỗ trợ đào tạo.
Thông qua việc thiết lập các quỹ học bổng và hỗ trợ đào tạo, đặc biệt là từ
phía Hàn Quốc, hoạt động hợp tác giáo dục giữa hai quốc gia đã được thúc đẩy.
Việc cung cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam đã giúp sinh viên Việt Nam
tiếp cận với một trong những môi trường giáo dục tiên tiến của thế giới, góp
phần vào việc xây dựng hệ thống giáo dục Việt Nam tốt hơn. Về phía Hàn Quốc,
quốc gia này có điều kiện quảng bá thương hiệu giáo dục của mình khơng chỉ
đến Việt Nam mà cịn trên trường quốc tế.
Về học bổng, hiện nay, Quỹ Học bổng và Văn hóa Việt Nam của Viện

Phát triển Giáo dục Quốc tế Hàn Quốc đóng góp vào việc duy trì và phát triển
mối quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia trong tương lai. Trong việc trao đổi học
bổng, khơng chỉ có Chính phủ, các tổ chức hữu nghị về giúp đỡ giáo dục Việt
Nam mà cịn có các tập đồn lớn của Hàn Quốc, như: Công ty Điện tử Samsung,
Công ty Xây dựng Booyoung. Học bổng GKS cũng góp phần thúc đẩy mối quan
hệ tốt đẹp giữa Hàn Quốc và khối các nước ASEAN.
Về hỗ trợ đào tạo, không thể không nhắc đến vai trò của Cơ quan hợp tác
quốc tế Hàn Quốc (KOICA) và Quỹ giao lưu quốc tế Hàn Quốc (KF). Bên cạnh
việc cử các chuyên gia sang Việt Nam dạy tiếng Hàn, KOICA và KF đã hỗ trợ
kinh phí cho khoảng 2.300 cán bộ thuộc các lĩnh vực khác nhau của Việt Nam
sang Hàn Quốc học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, hằng năm,

7


KOICA cử 6 – 10 chuyên gia tình nguyện sang công tác theo yêu cầu của các cơ
sở giáo dục Việt Nam, trong số đó đáng lưu ý là các chuyên gia dạy tiếng Hàn
hay ngành Hàn Quốc học.
Tăng cường và nâng cấp cơ sở vật chất trường học.
Từ năm 1997 – 2001, với mục đích hỗ trợ đào tạo nhân lực cho ngành
công nghiệp và phát triển cân bằng quốc gia, KOICA đã hỗ trợ Trường Cao
đẳng Nghề Kỹ thuật Công nghiệp Việt – Hàn thông qua việc xây dựng trường,
hỗ trợ trang thiết bị giáo dục, đào tạo đội ngũ giảng viên, tư vấn cho trường quá
trình đào tạo… Hàn Quốc đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng 40 trường tiểu học tại
các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú n, Khánh Hịa; nâng cấp
Trường Trung học Công nghiệp Hà Nội; xây dựng Trường Kỹ thuật công nghiệp
Việt – Hàn và Trường Kỹ thuật cơ điện Quy Nhơn. Hàn Quốc cũng đã hỗ trợ
đầu tư xây dựng mạng lưới máy tính tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Trung tâm hợp tác công nghệ Việt – Hàn…
Cùng với sự hỗ trợ, hợp tác của Hàn Quốc, Việt Nam đã nỗ lực phát triển

và có được nhiều thành cơng trong phát triển nhân lực nói chung và nhân lực có
tay nghề nói riêng, tiếp tục đẩy mạnh nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng
cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình
mới.
Hợp tác giáo dục Việt – Hàn đã nâng cao chất lượng giáo dục cũng như cơ sở
vật chất của một số trường đại học, trung tâm, viện nghiên cứu và cả các trường
phổ thông tại Việt Nam thông qua việc Hàn Quốc hỗ trợ xây dựng, tài trợ về cơ
sở vật chất cho Việt Nam trong vấn đề phát triển giáo dục về chất lượng và cơ
sở vật chất kỹ thuật.
Hợp tác khoa học – công nghệ liên quan đến GDĐT.
Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực khoa học – công
nghệ, xây dựng nên nền công nghiệp hiện đại. Hiện nay, Hàn Quốc đã chủ động
xây dựng chiến lược đi sâu vào các lĩnh vực khoa học – kỹ thuật và công nghệ
cao; đồng thời, chú trọng các hoạt động chuyển giao công nghệ từ các nước phát

8


triển. Nhận thức được Hàn Quốc có nền khoa học – cơng nghệ vượt trội, Việt
Nam đã chủ động, tích cực trao đổi, hợp tác với Hàn Quốc trên lĩnh vực khoa
học – công nghệ, đặc biệt là chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho đất nước. Các hình thức chủ yếu là trao đổi cán bộ, đào tạo dài hạn và ngắn
hạn, tổ chức các lớp học chuyên đề, các hội nghị và hội thảo khoa học.
Năm 2019, được sự hỗ trợ của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và sự
hợp tác từ các nhà khoa học của Đại học Quốc gia Seoul, Hàn Quốc, Viện Vật lý
đã tổ chức “Hội thảo Việt Nam – Hàn quốc về quang tử tiên tiến” (Vietnam –
Korea Workshop on Advanced Photonics). Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục
thông qua các cuộc hội thảo sẽ là nguồn khơi cho những sáng tạo về nghiên cứu
khoa học. Cũng nhờ sự giúp đỡ của KOICA, khoảng 10 năm trở lại đây, Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã triển khai thực hiện một số đề tài

nghiên cứu khoa học, tổ chức luân phiên giữa hai nước các hội thảo khoa học
trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ giảm thiểu ô nhiễm môi trường…
Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và nghiên cứu - triển vọng
hợp tác Việt Nam - Na Uy
Chính phủ Nauy coi trọng tăng cường đầu tư cho giáo dục và nghiên cứu
sáng tạo, từ bậc nhà trẻ mẫu giáo cho đến giáo dục sau đại học, thúc đẩy hợp tác
quốc tế về giáo dục cao học và nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
và nghiên cứu sáng tạo, duy trì và tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của nền
kinh tế dựa trên tri thức, đặc biệt là các ngành kinh tế biển mà Na Uy là một
trong những cường quốc thế giới (như nghề cá - nuôi trồng thủy sản, hàng hải,
dầu khí); đồng thời củng cố nhà nước phúc lợi. Chính phủ Nauy cam kết tăng
ngân sách dành cho nghiên cứu và sáng tạo lên 1% GDP cho tới năm 20192020. Ngân sách dành cho nghiên cứu năm 2016 tăng 2,1 tỷ NOK (khoảng 240
triệu USD), với tổng cộng lên tới 32,5 tỷ NOK (khoảng 3,73 tỷ USD) chiếm hơn
1% GDP Na Uy.
Những biện pháp chủ yếu được Chính phủ triển khai bao gồm: chuyển từ
chú trọng việc dạy sang chú trọng vào việc học và kết quả học; chú trọng cải

9


thiện môi trường học và chất lượng học, tăng tỷ lệ tốt nghiệp và giảm tỷ lệ bỏ
học giữa chừng; gắn việc học tập với nghiên cứu, nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục và nghiên cứu; tăng cường phối hợp nghiên cứu giữa các bộ, các
trường, viện nghiên cứu và bộ phận nghiên cứu phát triển của các doanh nghiệp,
đề cao vai trò tư vấn điều phối quốc gia của Hội đồng Nghiên cứu Na Uy. Đồng
thời, đề cao đạo đức nghiên cứu (trên cơ sở Luật Đạo đức nghiên cứu năm
2006). Trung tâm Hợp tác quốc tế Giáo dục Na Uy (SIU) là cơ quan thuộc Bộ
Giáo dục và Nghiên cứu, có trách nhiệm thúc đẩy hợp tác quốc tế về giáo dục.
Hội đồng nghiên cứu Na Uy là cơ quan chiến lược và điều hành quốc gia về
nghiên cứu, tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề liên quan đến chính sách nghiên

cứu, chịu trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, sáng tạo nhằm
đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Theo Kế hoạch dài hạn về giáo dục cao học và nghiên cứu giai đoạn 2015-2024
của Na Uy, sáu lĩnh vực ưu tiên của Na Uy về nghiên cứu và giáo dục cao học
(bậc đại học và sau đại học) bao gồm: (i) Khí hậu - môi trường và năng lượng tái
tạo; (ii) Biển và đại dương; (iii) Các công nghệ hỗ trợ; (iv) Dịch vụ công tốt hơn
và hiệu quả hơn; (v) các ngành cơng nghiệp sáng tạo và có khả năng thích ứng;
(vi) môi trường hàn lâm hàng đầu thế giới.
Ưu tiên hợp tác quốc tế của Na Uy về giáo dục cao học và nghiên cứu
Na Uy chú trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế về giáo dục cao học và nghiên
cứu, nhằm tăng cường chất lượng giáo dục và nghiên cứu của Na Uy cũng như
góp phần tăng cường năng lực cho các nước thu nhập thấp và trung bình. Ưu
tiên của Na Uy là tham gia Chương trình nghiên cứu của EU; hợp tác nghiên
cứu song phương với một số nước (trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Nhật
Bản, Achentina; và 5 nước khối BRICS có nền kinh tế lớn đang nổi lên là Ấn
Độ, Brazil, Nam Phi, Nga, Trung Quốc); tăng cường hợp tác nghiên cứu trong
khối Bắc Âu; đưa Na Uy trở thành đất nước hấp dẫn các nhà nghiên cứu quốc tế;
gắn kết giữa hợp tác quốc tế về nghiên cứu với giáo dục cao học.

10


Chính phủ Na Uy chú trọng thúc đẩy hợp tác quốc tế về giáo dục cao học
thông qua hợp tác chiến lược giữa các trường, viện (chương trình đối tác partnership programme) dựa trên trên cơ sở chất lượng, cùng quan tâm và cùng
có lợi, gắn kết hơn giữa nghiên cứu và giáo dục cao học. Chế độ học bổng của
Na Uy (quota scheme) dành cho sinh viên nước ngoài đăng ký trực tiếp sẽ bị cắt
sau 2016-2017 và thay thế bằng Chương trình hợp tác quốc tế chiến lược giữa
các trường, viện. Chương trình mới này nhằm mục đích có nhiều sinh viên nước
ngồi đến Na Uy và sinh viên Na Uy du học ở nước ngoài, được triển khai thông
qua trao đổi sinh viên học tập, nghiên cứu trong một hoặc hai học kỳ. Một khác

biệt lớn là theo chương trình mới, cá nhân sinh viên khơng thể đăng ký xin học
bổng/ tài trợ trực tiếp từ chương trình này, mà phải thơng qua chương trình hợp
tác giữa các trường đại học, cao đẳng, viện.
Hiện nay có Chương trình hợp tác nghiên cứu được hỗ trợ bởi Hội đồng
nghiên cứu Na Uy. Các nhà nghiên cứu làm việc ở các tổ chức bên ngồi Na Uy
có thể phối hợp với một tổ chức đối tác Na Uy nộp đơn cho Hội đồng nghiên
cứu Na Uy để đăng ký cấp tài trợ. Tổ chức Na Uy phải là người nộp đơn chính.
Trong hầu hết các trường hợp, các trường đối tác nước ngồi dự kiến sẽ đóng
góp khoản tài chính đối ứng. Ngồi ra, cịn có Chương trình tăng cường năng
lực nghiên cứu và giáo dục cao học (NORHED) được hỗ trợ bởi Cơ quan Hợp
tác phát triển Na Uy (NORAD) nhằm tăng cường năng lực của các tổ chức giáo
dục đại học ở các nước thu nhập thấp và trung bình để đào tạo các ứng viên có
trình độ, tăng chất lượng và số lượng các nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà
nghiên cứu của nước sở tại. Chương trình này nhằm vào sáu lĩnh vực (gồm: giáo
dục và đào tạo; y tế; quản lý tài nguyên, biến đổi khí hậu và mơi trường; dân chủ
và quản trị kinh tế; khoa học nhân văn, văn hóa, truyền thông và thông tin; phát
triển năng lực cho Nam Xu-đăng.
Cơ hội du học ở Na Uy cho sinh viên Việt Nam
Nhiều trường đại học, cao đẳng của Na Uy được xếp hạng khá cao ở châu
Âu và trên thế giới. Na Uy đang thu hút nhiều sinh viên quốc tế đến học tập,

11


nghiên cứu, năm 2015 tiếp nhận 25.700 sinh viên nước ngồi (trong khi dân số
Na Uy chỉ có hơn 5 triệu người).
Giữa Na Uy và Việt Nam có một số chương trình trao đổi sinh viên.
Chương trình giao lưu sinh viên Na Uy sang Việt Nam học ngắn hạn tại Đại học
Đà Nẵng được triển khai nhiều năm nay theo chương trình hợp tác giữa Đại học
Đà Nẵng và Đại học khoa học ứng dụng Oslo và Đại học Vestfold.

Số sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam du học tại Na Uy có tăng nhưng cịn ít.
Năm 2015 ở Na Uy có khoảng 177 sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam (kể
cả học tự túc bậc đại học và kể cả người Việt định cư ở Na Uy chưa có quốc tịch
Na Uy - theo số liệu tổng hợp sơ bộ của Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Na Uy
cung cấp), chủ yếu học, nghiên cứu ở Đại học Oslo, Đại học Kinh doanh Na Uy
BI (ở Oslo), Đại học Ostfold, Đại học Vestfold, Đại học Bergen, ĐH Khoa học
Công nghệ Na Uy (NTNU ở Tp. Trondheim), Đại học Bắc Cực (trước đây là
ĐH Tromso).
Sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam du học ở Na Uy có thể theo cách
đăng ký học bổng thông qua một số trường đại học Việt Nam có hợp tác với Na
Uy (nêu trên) hoặc đăng ký du học tự túc trực tiếp với trường của Na Uy. Hầu
hết các đại học, cao đẳng Na Uy đều có chương trình bậc thạc sỹ và tiến sỹ sử
dụng tiếng Anh.
Du học ở Na Uy được miễn học phí nếu học ở đại học, cao đẳng cơng lập,
chỉ phải tự túc chi phí sinh hoạt ăn ở. Nếu học ở một số đại học tư thục thì phải
trả học phí (khoảng hơn 10.000 USD/năm), có cả chương trình bậc đại học (3
năm), thạc sỹ, tiến sỹ bằng tiếng Anh, ví dụ về ngành kỹ sư dân sự, kinh tế, môi
trường... Riêng đối với bậc đại học thì có một số trường cơng lập và trường tư
thục có chương trình bằng tiếng Anh, cịn lại phổ biến là bằng tiếng Na Uy. Đối
với nghiên cứu sinh tiến sỹ (đều có thể đăng ký tự do) thì được ký hợp đồng làm
việc (tham gia nghiên cứu, giảng dạy) và được trả lương. Sinh viên, nghiên cứu
sinh trực tiếp nộp đơn xin học online cho trường của Na Uy, tự lo chi phí ăn ở,
phải đóng một khoản tiền ký quỹ để xin visa du học. Về chương trình bậc đại

12


học, trừ một số đại học tư và một vài khoa của đại học cơng lập có tiếng Anh
(như về du lịch, mơi trường, phát triển), cịn hầu hết các đại học và cao đẳng
công lập của Na Uy đều phải học bằng tiếng Na Uy, yêu cầu tiêu chuẩn ngơn

ngữ đầu vào là có chứng chỉ tiếng Anh (ví dụ IL trên 6,5) và có thể cần có chứng
chỉ tiếng Na Uy tùy theo trường.
Nhiều trường đại học, cao đẳng của Na Uy có sinh viên quốc tế có một số
loại học bổng của trường hoặc của quỹ do trường vận động được. Vì vậy, sinh
viên có thể tự tìm hiểu và nộp đơn online cho trường.
Để đăng ký học bổng của Chính phủ Na Uy, sinh viên Việt Nam có thể
nộp đơn xin học bổng của Na Uy thơng qua trường đại học Việt Nam có quan hệ
hợp tác với trường Na Uy, ví dụ như hợp tác giữa Đại học Ngoại thương với Đại
học Kinh doanh Na Uy BI; Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh với Đại học
Vestfold, Đại học Ostfold, Đại học Nha Trang với Đại học Bắc Cực (trước đây
là Đại học Tromso) và Đại học Bergen. Ở một số đại học này của Na Uy có giáo
sư người gốc Việt giảng dạy, là cơ sở tốt để thu hút sinh viên, nghiên cứu sinh
Việt Nam.
Hợp tác Việt Nam và Na Uy trong lĩnh vực nghiên cứu vào giáo dục cao
học
Hai nước nhất trí thúc đẩy liên kết giữa các trường đại học và trung tâm
nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học-cơng nghệ, dầu khí, năng lượng,
thủy sản, nơng nghiệp, mơi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Trong
cuộc hội đàm giữa hai Thủ tướng nhân dịp Thủ tướng Na Uy Erna Solberg thăm
Việt Nam ngày 16-18/4/2015, theo đề nghị của phía Việt Nam, hai bên cũng
nhất trí tăng cường quan hệ song phương, hướng tới thiết lập khuôn khổ quan hệ
đối tác trên cơ sở phù hợp với các lĩnh vực hợp tác ưu tiên giữa hai nước trong
thời gian tới. Chính phủ Na Uy đánh giá cao thành tựu của Việt Nam về phát
triển, trong đó có thành tựu về giáo dục và đào tạo. Theo lời mời của Thủ tướng
Na Uy Erna Solberg và được sự ủy quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ
trưởng Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đã tham dự Hội nghị Thượng đỉnh

13



Oslo về Giáo dục và Phát triển (đầu tháng 7/2015), chia sẻ kinh nghiệm thành
công của Việt Nam về giáo dục và đào tạo và trao đổi thúc đẩy hợp tác về giáo
dục, đào tạo giữa hai nước.
Bên cạnh một số chương trình hợp tác về giáo dục cao học, trao đổi sinh
viên giữa đại học Việt Nam và Na Uy như nêu trên, giữa hai nước cịn có dự án
hợp tác thuộc khn khổ Chương trình của Na Uy tăng cường năng lực về
nghiên cứu và giáo dục cao học (NORHED) giữa Đại học Nha Trang và Đại học
Bắc Cực, Đại học Bergen của Na Uy và Đại học Ruhuna của Sri Lanka về
nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu, hệ sinh thái đối với nghề cá và nuôi
trồng thủy sản ở Việt Nam, Sri Lanka, giai đoạn 2013-2018. Dự án này được
triển khai trên cơ sở thành cơng của dự án trước đó về chương trình đào tạo thạc
sỹ ngành kinh tế và quản lý nghề cá và nuôi trồng thủy sản. Thông qua Đại sứ
quán Na Uy tại Hà Nội, phía Na Uy cịn tài trợ cho một số chương trình hợp tác
nghiên cứu trong lĩnh vực giảm thiểu tác hại của thiên tai, như hợp tác giữa Đại
học Quốc gia Hà Nội và Viện Địa kỹ thuật Na Uy (NGI), hợp tác nghiên cứu về
tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất lúa gạo ở Việt Nam giữa Viện Khoa
học Nông nghiệp (VAAS) và Viện Nghiên cứu Nông nghiệp và Môi trường Na
Uy (Bioforsk); tăng cường năng lực ứng phó với thiên tai liên quan đến thời tiết
của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương của Việt Nam.
2. Đánh giá chung vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo
2.1. Thành tựu giáo dục đào tạo trong hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo của Việt Nam thời gian
qua đã đạt được những kết quả quan trọng, giúp nâng cao hiệu quả về hợp tác
quốc tế và vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và
lãnh thổ. Theo Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Phùng Xuân Nhạ đánh
giá, trong 7 năm qua, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo được nâng

14



lên, giúp nâng cao hiệu quả về hợp tác quốc tế và vị thế của Việt Nam trên thế
giới.
Để đạt được điều trên, trong công tác quản lý, Bộ GD-ĐT đã tiếp tục hoàn thiện
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hợp tác và đầu tư với nước
ngồi, quản lý cán bộ, cơng chức, viên chức đi cơng tác nước ngồi, đồng thời,
triển khai 6 dịch vụ công mức độ 3 và 4 về công tác tuyển sinh, quản lý du học
sinh Việt Nam đi học ở nước ngồi bằng học bổng có sử dụng ngân sách nhà
nước trên cổng Dịch vụ công quốc gia.
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, giai đoạn 2013-2016, đã có 68 thỏa thuận
quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết; Giai đoạn 2016 - 2020, Bộ GD-ĐT
đã chủ trì đàm phán, ký kết 75 thỏa thuận và điều ước quốc tế cấp Chính phủ và
cấp Bộ. Đặc biệt, năm học 2019-2020, Bộ GD-ĐT đã chủ trì, ký kết được 21 văn
bản hợp tác quốc tế (gồm 6 văn bản cấp Chính phủ, 15 văn bản cấp Bộ) và ký
kết thỏa thuận về công nhận văn bằng để thúc đẩy việc dịch chuyển sinh viên
với các nước trong khu vực và trên thế giới như: Hiệp định về trường đại học
Việt-Đức, Hiệp định về việc giảng dạy tiếng Anh theo chương trình hịa bình;
Cơng hàm trao đổi về Dự án học bổng phát triển nguồn nhân lực với Nhật Bản;
Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Armenia về hợp tác trong
lĩnh vực giáo dục và khoa học; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính
phủ Latvia về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục; Thỏa thuận giữa Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Pháp về việc phát triển CFVG giai đoạn 2019-2023.
Cũng trong năm qua, Bộ GD-ĐT đã tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị để
kết nối hợp tác giữa các chuyên gia giáo dục, nhà đầu tư, cơ sở giáo dục trong và
ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác và đầu tư, nâng cao chất
lượng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như: Diễn đàn toàn cầu của UNESCO
về giáo dục vì Phát triển bền vững và Cơng dân toàn cầu tại, triển lãm giáo dục
Việt Nam tại Lào; Hội nghị hiệu trưởng các trường đại học Việt Nam - Liên
bang Nga, Hội nghị Giáo dục Việt Nam - Đài Loan (Trung Quốc), Hội nghị thúc

đẩy cơ hội học tập các chương trình giáo dục quốc tế tại Việt Nam.

15


Theo Bộ GD-ĐT, các điều ước, thoả thuận hợp tác về giáo dục giữa Bộ
GD-ĐT và các đối tác đều đã được các bên chủ động xúc tiến, thực hiện cam kết
một cách có hiệu quả, thiết thực. Tính đến nay, cả nước có tổng số 455 dự án
FDI của nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ các nước cũng đã đem lại
hàng ngàn học bổng hằng năm cho công dân Việt Nam đi học tập tại nước
ngồi. Hiện có 19 nước cấp học bổng Hiệp định cho Việt Nam, trong đó, có
nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến, nền tảng khoa học kỹ thuật hiện đại. Số
lượng học bổng do chính phủ nước ngồi cấp cho Chính phủ Việt Nam đã tăng
từ khoảng 400 học bổng/năm (năm 2013) lên 1.400 học bổng/năm (năm 2019).
Bộ GD-ĐT triển khai một cách hiệu quả các hiệp định, thỏa thuận với
nước ngoài về hợp tác giáo dục qua việc tuyển chọn, cử du học sinh Việt Nam đi
học tập ở nước ngoài và tiếp nhận du học sinh nước ngoài đến học tập tại Việt
Nam. Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang trực tiếp quản lý 6.067 du học sinh Việt Nam
học tập ở nước ngồi theo các chương trình học bổng hiệp định, đề án của Chính
phủ (chiếm 4% trong tổng số 192.000 du học sinh Việt Nam đang học tập tại
nước ngoài).
Việt Nam hiện cũng đang trở thành điểm đến được nhiều sinh viên quốc
tế lựa chọn, với những ưu điểm về chất lượng giáo dục liên tục được nâng lên,
chi phí học tập, sinh hoạt hấp dẫn, mơi trường sống an tồn. Đến năm học 2019 2020 đã có hơn 21.000 du học sinh đến từ 67 quốc gia trên thế giới học tập tại
Việt Nam, trong đó, có 14.400 sinh viên theo học các chương trình đào tạo từ
đại học trở lên.
Các cơ sở giáo dục phổ thơng của chúng ta hiện nay cũng đang góp thúc
đẩy hội nhập quốc tế trong việc triển khai các chương trình giáo dục tích hợp ở
mầm non và phổ thơng, giúp học sinh tiếp cận chương trình quốc tế, góp phần

nâng cao trình độ ngoại ngữ cho học sinh và giáo viên.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học chủ động và tích cực mở rộng hợp tác
nghiên cứu khoa học, tăng số lượng các chương trình giảng dạy bằng tiếng nước

16


ngồi, chuyển giao cơng nghệ, liên kết đào tạo, cơng nhận tín chỉ, liên thơng
chương trình với các trường đại học nước ngồi có uy tín, và xây dựng chính
sách thu hút sinh viên, nhà khoa học nước ngoài đến học tập và nghiên cứu tại
Việt Nam. Hiện đã có hơn 450 chương trình đào tạo quốc tế của 70 cơ sở giáo
dục đại học. Các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đã tuyển được
tổng số 86.000 sinh viên, học viên. Liên kết đào tạo với nước ngoài đã tăng
cường hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, nâng cao vị thế các
cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam trên thế giới.
Năm học 2019-2020, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch, bệnh
Covid-19, Bộ GD-ĐT đã chủ động phối hợp Bộ Ngoại giao hướng dẫn du học
sinh cơng tác phịng, chống dịch bệnh; phối hợp các cơ quan đại diện Việt Nam
ở nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài ở Việt Nam, các hội du học sinh để
thu thập thông tin về tình hình du học sinh Việt Nam ở nước ngồi, báo cáo Ban
chỉ đạo Quốc gia phịng, chống dịch Covid-19, đề xuất biện pháp hỗ trợ phù
hợp. Bộ GD-ĐT cũng đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học có những hoạt động
cụ thể để tạo điều kiện cho các du học sinh Việt Nam ở nước ngoài và các du
học sinh nước ngoài đến học tập tại Việt Nam.
2.2. Hạn chế về giáo dục đào tạo trong hợp tác quốc tế
Thứ nhất, nhu cầu về hợp tác đào tạo quốc tế không những tăng lên về
quy mơ mà cịn trở nên càng phức tạp, đa dạng về phương thức, kèm theo những
đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng. Các chương trình quốc tế phải tuân thủ các
quy định của các tổ chức kiểm định chất lượng quốc tế hoặc các quy định của
các trường đại học, các tổ chức đào tạo nước ngoài. Việc nâng cao chất lượng

một mặt đòi hỏi người học phải cố gắng cao hơn, mặt khác đòi hỏi các trường
đối tác phía Việt Nam phải có đầu tư cả về cơ sở vật chất và con người.
Thứ hai, với việc trở thành thành viên của WTO, thị trường giáo dục Việt
Nam sẽ mở cửa hơn với sự tham gia nhiều hơn của các tổ chức giáo dục, các
trường đại học nước ngoài, tạo ra cạnh tranh lớn hơn. Trong bối cảnh đó, các
chương trình quốc tế tại Việt Nam sẽ thật sự bước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt,

17


điều này cũng sẽ kéo theo việc các trường ở Việt Nam phải cạnh tranh khơng chỉ
bằng học phí mà quan trọng hơn là bằng chất lượng các dịch vụ được cung cấp.
Thứ ba, hội nhập quốc tế đòi hỏi các trường đại học Việt Nam phải được
cơ cấu lại để thích ứng với thể chế của kinh tế thị trường. Nhìn chung, các
trường đại học hiện nay chưa được tổ chức theo mơ hình cung cấp dịch vụ theo
u cầu của thị trường, chưa thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường.
Ðiều này sẽ hạn chế sự thích ứng cũng như khả năng cạnh tranh của các trường
ở Việt Nam. Hơn nữa, do thông tin cung cấp trên thị trường bị sai lệch, bóp
méo, "khách hàng" ln khơng có đủ thơng tin về dịch vụ giáo dục được cung
cấp. Nhà nước cũng chưa có "chế tài" nhằm hỗ trợ người học có được thơng tin
đầy đủ, chính xác để lựa chọn các chương trình phù hợp. Có thể nói đây là một
"khuyết tật" của thị trường giáo dục Việt Nam trong giai đoạn vừa qua cũng như
sẽ tồn tại trong khoảng năm năm tới.
Thứ tư, nằm trong hệ thống WTO, hệ thống giáo dục Việt Nam phải hội
nhập với các nước, tuy nhiên, Việt Nam còn thiếu (hoặc chưa có) những hiệp
định song phương và đa phương về cơng nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ giáo
dục. Ðiều này là khó khăn và thách thức rất lớn đối với hệ thống giáo dục Việt
Nam khi hội nhập. Ðây cũng là công việc mà Bộ Giáo dục và Ðào tạo Việt Nam
phải thực hiện trong những năm tới.


18


CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỢP TÁC QUỐC TẾ
TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HIỆN NAY
1. Phương hướng nâng cao hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo
Việt Nam cần chú trọng đa dạng hóa các loại hình hợp tác trong khu vực
và với quốc tế, tập trung vào việc đẩy mạnh hợp tác với các cường quốc về giáo
dục đại học, và nghiên cứu khoa học trên thế giới. Định hướng này giúp cho
nước ta bước đầu phát triển, đổi mới nền giáo dục truyền thống hiện tại.
Nên tăng cường, mở rộng các hình thức mang tính hợp tác quốc tế như
trao đổi giảng viên và sinh viên với các trường đại học trên toàn thế giới để có
thể học hỏi được thêm nhiều các phương thức giáo dục của các nền giáo dục tiên
tiến trên thế giới.
Thực hiện các mơ hình liên kết giống như một số trường đại học ở Việt
Nam hiện nay đang áp dụng như phát triển hoạt động liên doanh với các trường
đại học trên thế giới trong việc tuyển sinh, đào tạo cho sinh viên Việt Nam trong
nước cũng như ngoài nước.
Nước ta nên chú trọng phát triển các dự án liên kết, nghiên cứu đa quốc
gia nhằm chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong việc phát triển giáo dục.
Hệ thống các trường Đại học công lập cũng có thể từng bước triển khai
các hoạt động dịch vụ, cải thiện nguồn thu cho nhà trường thông qua hợp tác
quốc tế, đẩy mạnh mở rộng quyền tự chủ, có cơ chế chính sách nhằm khuyến
khích các đơn vị phát triển hợp tác quốc tế trong khuôn khổ của pháp luật Việt
Nam.
Tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức giáo dục quốc tế để phát triển các
quỹ học bổng nhằm tài trợ cho các giảng viên, cán bộ giáo dục đi đào tạo và
nâng cao nhận thức về phát triển giáo dục đào tạo mang tính quốc tế, tài trợ học
bổng cho những sinh viên có thành tích xuất sắc.


19


Đẩy mạnh phong trào khuyến khích các giảng viên, các nhà khoa học
tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế bằng các chính sách khen thưởng,
động viên để nhằm tạo ra mạng lưới cộng tác viên trong hợp tác quốc tế.
2. Giải pháp khắc phục khó khăn quá trình hợp tác quốc tế về giáo
dục đào tạo
Tăng cường công tác quản lý các hoạt động hợp tác quốc tế:
Tiếp tục triển khai thực hiện các định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hợp
tác quốc tế giai đoạn 2017-2022. Bổ sung hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý
về hợp tác quốc tế. Phòng Hợp tác quốc tế chủ động phối hợp với các đơn vị có
liên quan tham mưu xây dựng một số quy định, quy trình và các cơ chế thực
hiện các hoạt động có liên quan đến hợp tác quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý hợp tác quốc tế tại các trường học. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến quy
trình thực hiện các hoạt động mời chuyên gia nước ngoài đến giảng dạy hội
thảo, trao đổi học thuật, quản lý đoàn ra, đoàn vào. Quy định rõ ràng, cụ thể về
cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát và phân công giữa các đơn vị trong hoạt động
hợp tác quốc tế trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, cùng có lợi, cùng phát triển.
Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học:
Nhà trường chủ động thiết lập mối quan hệ với các trường đại học có uy tín trên
thế giới để mở rộng hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi giảng viên và
sinh viên. Tăng cường các hoạt động tìm kiếm chuyên gia, giảng viên, tình
nguyện viên nước ngồi về làm việc tại Trường. Chủ động tham gia hoạt động
đối ngoại, hợp tác quốc tế; bồi dưỡng chun mơn và trình độ ngoại ngữ cho đội
ngũ giảng viên; xây dựng các chương trình trao đổi sinh viên quốc tế, chương
trình liên kết đào tạo với nước ngoài; tăng cường ký kết thỏa thuận hợp tác với
các nước thuộc khu vực ASEAN; mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào
tạo nước ngồi có uy tín tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế

của địa phương và khu vực.

20



×