Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên học giáo dục quốc phòng an ninh ở trung tâm giáo dục quốc phòng hà nội 2 hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2


ĐOÀN VĂN SƠN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO SINH VIÊN HỌC GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG - AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2 HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Hà Nội, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2


ĐOÀN VĂN SƠN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO SINH VIÊN HỌC GIÁO DỤC QUỐC
PHÒNG - AN NINH Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC
QUỐC PHÒNG HÀ NỘI 2 HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học: TS VI THÁI LANG

Hà Nội, 2015


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm trân trọng và chân thành tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu
sắc tới Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, Phòng Sau đại học, các cơ quan liên
quan đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu khoa học để nâng cao trình
độ nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Xin được bày tỏ lòng cảm ơn, biết ơn sâu sắc tới các thầy cô, các nhà khoa
học đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong
nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám đốc Trung tâm, các cán bộ, giảng viên,
nhân viên và sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2; Gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Đặc biệt xin được trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Vi Thái Lang đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
Mặc dù trong quá trình học tập, tìm tòi, nghiên cứu bản thân rất nỗ lực và cố
gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các nhà giáo và đồng
nghiệp để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.

Tác giả

Đoàn Văn Sơn



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài : “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
sinh viên học GDQP - AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay” đến thời điểm
hiện tại cũng chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề này, nên không có sự
trùng lặp với các đề tài khác. Mọi kết quả, số liệu khảo sát điều tra thu thập được là
hoàn toàn chính xác, khách quan.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Việc hoàn thành luận văn là sự nỗ lực rất lớn của bản thân.

Tác giả

Đoàn Văn Sơn


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HỌC GDQP-AN

5

1.1.
1.2.

1.3.
1.4.
1.5.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một số khái niệm cơ bản
Đặc điểm tâm lý sinh viên học GDQP-AN
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức đội cho sinh viên học GDQP-AN
Ý nghĩa, yêu cầu của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức đội cho sinh
viên học GDQP-AN
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO SINH VIÊN HỌC GDQP-AN Ở TRUNG TÂM
GDQP HÀ NỘI 2
2.1.
Khái quát về Trung tâm GDQP Hà Nội 2
2.2.

5
10
18
22
34
40
40

Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2
42
2.3.
Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Trung

tâm GDQP Hà Nội 2
50
2.4.
Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
sinh viên học GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
64
Chương 3: GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
69
CHO SINH VIÊN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2
3.1.
Các nguyên tắc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên ở
Trung tâm GDQP Hà Nội 2
69
3.2.
Một số giải pháp nâng cao vai trò quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
70
3.3.
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
96
105
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
112
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
STT


VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

AN

An ninh

2

ANND

An ninh nhân dân

3

BVTQ

Bảo vệ tổ quốc

4

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

5


CB

Cán bộ

6

ĐHSP

Đại học sư phạm

7

GDQP

Giáo dục quốc phòng

8

GD  ĐT

Giáo dục và đào tạo

9

GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

10


GV

Giảng viên

11

KTX

Ký túc xá

12

LLVT

Lực lượng vũ trang

13

NXB

Nhà xuất bản

14

QPTD

Quốc phòng toàn dân

15


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

16

TDTT

Thể dục thể thao

17

TNCSHCM

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

18

SV

Sinh viên


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN
TT
Bảng 2.1

Bảng 2.2
Bảng 2.3

Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 2.9
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3

Nội dung

Trang

Thực trạng mục tiêu giáo dục đạo đức cho sinh viên học
GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.

43

Thực trạng nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên học
GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Thực trạng hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên học
GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Thực trạng phương pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên học
GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Thực trạng lập kế hoạch nhằm giáo dục đạo đức cho sinh viên
học GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Thực trạng tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm giáo dục đạo đức
cho sinh viên học GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Thực trạng chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhằm giáo dục đạo đức

cho sinh viên học GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Thực trạng kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức cho sinh viên
học GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Những yếu tố tác động đến quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
của sinh viên học GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Khảo nghiệm tính cần thiết biện pháp nâng cao hiệu quả quản
lý giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng Hà Nội 2
Khảo nghiệm tính khả thi biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý
giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2

45

Tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi

46
49
51
53
55
59
61
98
100
102

Biểu đồ 3.1 Khảo nghiệm tính cần thiết biện pháp

99


Biểu đồ 3.2 Khảo nghiệm tính khả thi biện pháp

101

Biểu đồ 3.3 Tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi

103


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm
những nguyên lý, quy tắc chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ
với người khác và với cộng đồng. Đạo đức không phải là một phạm trù trừu tượng
do tự nhiên sinh ra, mà là một phạm trù lịch sử. Đạo đức ra đời, phát triển do nhu
cầu của xã hội, nhằm duy trì, phát triển quan hệ xã hội đã được xác lập.
Sinh viên là nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của giáo dục là hình thành, bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân; đào tạo những người lao động
có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn
lên góp phần thực hiện mục tiêu chung cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sinh viên hiện nay có những ưu điểm căn bản là nhiệt tình cách mạng, có nhiều ước
mơ, hoài bão cao đẹp, muốn làm những công việc ích nước lợi dân. Họ là bộ phận
có trình độ học vấn phổ thông, có vốn nhất định về chính trị, đạo đức, văn hoá, sức
khoẻ do được giáo dục dưới mái trường XHCN. Tuy nhiên, họ còn ít được rèn
luyện, thử thách trong cuộc sống, trong hoạt động cách mạng nên các quan điểm,
lập trường chính trị, các đức tính và các chuẩn mực đạo đức chưa được củng cố,
chưa được bền chặt, chưa được phát triển đầy đủ. Vì thế, họ dễ bị ảnh hưởng bởi

những thói hư tật xấu của xã hội cũ, mặt trái của mô hình kinh tế thị trường thời kỳ
quá độ ở nước ta. Giáo dục đạo đức là hoạt động giáo dục về nhận thức đạo đức và
hoạt động thực hành đạo đức cho sinh viên. Về phương diện hoạt động giáo dục
nhận thức, các hình thức giáo dục chủ yếu là giảng giải, truyền đạt những tri thức về
đạo đức, những yêu cầu chuẩn mực đạo đức trong các quan hệ xã hội, gia đình.
Trong thời kỳ đổi mới, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường cũng như của
xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu,
một bộ sinh viên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai
nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích


2
hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn
hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật ... làm ảnh hưởng đến những quan
điểm về tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là khi chưa được
trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này. Những hiện tượng đó, trước hết là nguy
cơ đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo
hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần
nói rằng, các thế lực thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những
hiện tượng đó để tiến hành chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống phá và ngăn
chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết Trung ương lần thứ Hai của Đảng khóa VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt
đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức,
mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì
tương lai của bản thân và đất nước. Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục
tư tưởng đạo đức, ý thức công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh… tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể
thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện”. Thông báo kết luận
của Bộ chính trị về việc tiếp tục thực hiện nghị quyết TW 2 (khóa VIII), phương
hướng phát triển giáo dục đào tạo đến năn 2020 có viết: “...việc giáo dục tư tưởng

đạo đức, lối sống, về truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc, về Đảng, về quyền lợi
và nghĩa vụ của công dân cho học sinh, sinh viên chưa được chú ý đúng mức về cả
nội dung và phương pháp...”
Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2 thuộc Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội II hiện đang đảm nhiệm giảng dạy môn GDQP-AN cho sinh viên của 16
trường Đại học và Cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội, tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh
Phú Thọ. Nhận thức đúng tầm quan trọng của việc tổ chức quản lý nhằm nâng cao
chất lượng dạy học nói chung, quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên
nói riêng, những năm qua Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã có nhiều biện pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng, trang bị cho sinh viên những


3
kiến thức, kỹ năng quân sự cần thiết, giáo dục cho sinh viên có ý thức quốc phòng
đúng đắn, nâng trách nhiệm công dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên chất lượng giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức cho sinh viên ở Trung tâm giáo dục quốc phòng Hà Nội 2 còn nhiều hạn chế và
chưa thực sự được coi trọng; quá trình quản lí tổ chức và thực hiện còn bộc lộ một
số hạn chế bất cập như: Đội ngũ cán bộ quản lí khung sinh viên không chuyên trách
thường phải kiêm nhiệm làm nhiều công việc khác nhau, sự phối hợp giữa các
phòng, khoa chức năng trong Trung tâm có lúc còn chưa chủ động phối hợp. Các
hoạt động tổ chức đoàn thể có lúc còn đơn điệu, chưa thu hút được đông đảo sinh
viên tham gia; vai trò của cán bộ, giảng viên trong công tác quản lí giáo dục đạo
đức chưa thực sự quan tâm, chưa sâu sát trong việc rèn luyện và nhắc nhở sinh viên.
Yêu cầu đặt ra ở Trung tâm giáo dục quốc phòng Hà Nội 2 đòi hỏi công tác quản lí
hoạt động đạo đức cho sinh viên cần được đổi mới và quan tâm đúng mức.
Xuất phát từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, tôi chọn đề tài:
“Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên học Giáo dục quốc phòngAn ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2 hiện nay” làm đề tài luận
văn cao học, chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức cho sinh viên học GDQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2; luận
văn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức cho sinh viên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý giáo dục đạo đức cho sinh viên
- Khảo sát, phân tích thực trạng của việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
cho sinh viên học GDQP-AN ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh
viên học GDQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên học
GDQP-AN ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2
4.3. Khách thể khảo sát
Tổng số khách thể khảo sát là: 285 người, bao gồm:
- Lãnh đạo Trung tâm và cán bộ quản lý, giáo viên là 35 người
- Sinh viên là 250 người
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
5.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

- Phương pháp nghiên cứu điển hình...
5.3. Phương pháp toán thống kê
Sử dụng các công thức toán thống kê như tính tần suất, điểm trung bình, hệ
số tương quan... để định lượng kết quả nghiên cứu của luận văn.
6. Giả thuyết khoa học
Trong thời gian qua mặc dù Ban Giám đốc Trung tâm GDQP Hà Nội 2 đã
quan tâm và áp dụng một cách đồng bộ quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
sinh viên học GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2, nhưng giáo dục đạo đức và
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập
cần được giải quyết. Nếu việc quản lý giáo dục đạo đức được thực hiện trên cơ sở
khoa học thì chất lượng công tác Quản lý giáo dục đạo đức cho sinh viên học
GDQP-AN ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 nói riêng sẽ được nâng cao, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo môn học GDQP-AN ninh nói chung.


5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu về đạo đức
Ở phương Tây, nhà triết học Socrate (469-399 TCN) cho rằng cái gốc của
đạo đức là tính thiện. Bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được lan toả
thì con người sẽ có hạnh phúc. Theo ông, muốn xác định được chuẩn mực đạo đức
phải bằng nhận thức lý tính với phương pháp khoa học. [12, tr.34].
Aristoste (384-322 TCN) xem đạo đức là cái thiện của cá nhân, còn chính trị
là cái thiện của xã hội. [13, tr.45].
Theo quan niệm học thuyết Mác-Lênin: đạo đức là một hình thái ý thức xã

hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội, nó phản ánh
và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Nếu tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng
thay đổi theo. Do vậy đạo đức mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
Nghiên cứu về giáo dục đạo đức
Ở phương Đông thời cổ đại, Khổng Tử (551-479 TCN) là nhà triết học nổi
tiếng của Trung Quốc đồng thời là nhà đạo đức học khai sinh Nho giáo. Ông coi
trọng vai trò của giáo dục đạo đức và quan niệm có tính hệ thống về phương pháp
giáo dục cũng như về tâm lý giáo dục. Nội dung và mục tiêu chủ yếu của GD Nho
giáo được ghi trong Tứ thư và Ngũ kinh. Nhưng cụ thể và tập trung nhất là nêu
trong Luận ngữ (sách ghi lời nói, việc làm của Khổng tử và của một số môn đồ) là
bồi theo tôn chỉ của Nho gia. Khổng tử quan niệm sự hiểu biết không phải là sinh ra
đã có sẵn mà phải kết hợp chặt chẽ việc truyền thụ tri thức văn hóa với việc rèn
luyện phẩm chất đạo đức. Như vậy, Khổng tử chủ trương coi việc rèn luyện đạo đức
là ưu tiên số một. Ông từng nhường nhịn các bậc huynh trưởng; nên ít lời và đã nói
thì phải thành thực, nên thân yêu rộng khắp trọng hơn lời giảng (Thân giáo trọng ư


6
ngôn giáo). Ông xây dựng học thuyết “Nhân - Trí - Dũng”, trong đó, “ Nhân” là
lòng thương người - là yếu tố hạt nhân, là đạo đức cơ bản nhất của con người. Đứng
trên lập trường coi trọng giáo dục đạo đức, ông có chủ trương nổi tiếng truyền lại
đến ngày nay “Lễ trị”. Lấy “Lễ” để ứng xử ở đời. Muốn vậy , mỗi người phải biết tu
thân làm gốc.[13, tr.33].
Thế kỷ XVII, Komenxky (1592-1670) - Nhà giáo dục vĩ đại của Tiệp Khắc
đã có nhiều đóng góp cho công tác giáo dục đạo đức qua tác phẩm “Khoa sư phạm
vĩ đại”. Ông đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể trong việc giáo dục làm cơ sở cho nền
giáo dục hiện đại sau này. Komensky có khả năng như là bẩm sinh trong việc nắm
bắt tâm lý trẻ em và hiểu được cả những khía cạnh tinh vi nhất của tâm hồn trẻ. Ông
nhấn mạnh việc tôn trọng con người phải bắt đầu từ ý thức tôn trọng trẻ em, bởi trẻ
em như những cây non trong vườn ươm: “Để cây đó lớn lên một cách lành mạnh,

nhất thiết phải được sự quan tâm, chăm sóc, tưới bón, tỉa tót…” [13, tr.67].
Komensky có một quan niệm triết lý nổi bật về sự hòa nhập giữa con người và thế
giới tự nhiên và ông cực lực phản đối việc dùng bạo lực đối với trẻ em. Ông kêu gọi
các bậc cha mẹ, các nhà giáo và tất cả những ai làm nghề nuôi dạy trẻ: “Hãy mãi
mãi là một tấm gương trong đời sống, trong mọi sinh hoạt để trẻ em noi theo và bắt
chước mà vào đời một cách chân chính…”. Ông coi những trẻ em yếu kém về học
tập và hạnh kiểm như là những trái chín muộn, nếu ta biết cách giáo dục và kiên trì
giáo dục thì cũng sẽ đem lại kết quả tốt đẹp. Nhà giáo bằng thái độ trân trọng, kiên
nhẫn, hoàn toàn có thể xóa bỏ ở học sinh những thói xấu, những mặc cảm và khơi
dậy những tiềm năng của các em. [13, tr.82].
Nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức
V.A Xukhomlinxky, nhà giáo dục lớn người Nga cũng rất quan tâm đến
những biện pháp quản lý đạo đức cho học sinh, đóng góp nhiều lí luận, kinh nghiệm
giáo dục thế hệ trẻ. Với kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục ở trường nông thôn
Pavlush ông cho rằng: dạy học trước hết là sự giao tiếp về tâm hồn giữa thầy và trò
“dạy trẻ phải hiểu trẻ, thương trẻ và tôn trọng trẻ…. Trong quá trình giáo dục, hình
thành nhân cách cho học sinh, ông quan tâm đặc biệt tới sự cân đối hài hòa giữa sự


7
phát triển xúc cảm, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ với sự phát triển trí tuệ, thể
chất, năng lực hoạt động xã hội, giao tiếp, kỹ năng lao động nghề nghiệp, kỹ thuật,
ý thức công dân XHCN. Ông đã có nhiều kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa
quá trình giáo dục và tự giáo dục, chủ đạo tác động của nhà sư phạm với chủ động,
tự quản rèn luyện của học sinh và tập thể học sinh, giải quyết hợp lí giữa giáo dục
tập thể và giáo dục cá nhân. Ông đã nêu lên nhiều kinh nghiệm phối hợp các lực
lượng giáo dục xã hội, gia đình, nhà trường, tận dụng những điều kiện xã hội, tự
nhiên vào quá trình giáo dục thế hệ trẻ. Những tác phẩm về giáo dục đạo đức như
"Giáo dục con người chân chính như thế nào", "Giáo dục cộng sản đối với lao
động" vẫn được sử dụng và có giá trị to lớn trong công tác giáo dục thế hệ trẻ.

1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Phải khẳng định rằng đạo đức là phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách.
Vì vậy việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ của các cấp chính quyền,
các nhà giáo dục và của toàn xã hội. Việt Nam là đất nước có truyền thống dân tộc
với nhiều giá trị tốt đẹp, đã trở thành những giá trị triết học Việt Nam. Đó là
phương châm: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau
cùng”, là “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, là “Cái nết đánh
chết cái đẹp”...Từ các triều đại phong kiến trước đây, các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc đã được lưu vào sử sách, trở thành những nội dung giảng dạy trong
các trường học thời bấy giờ.
Đến trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở nước ta có nhiều sách dạy về luân
lý, dạy làm người, dạy giao tiếp. Đó là của các tác giả: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của, Đỗ Thận, Tản Đà, Trần Trọng Kim, Trần Hữu Độ, Lê Văn Siêu, Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Các tác phẩm được dùng làm
sách giáo khoa, sách dùng cho người dạy, sách đọc ở nhà... Trong đó có “Phong hóa
điều hành”, “Cờ bạc nha phiến”, “Huấn nữ ca” (dịch), “Gia huấn ca” (dịch) của
Trương Vĩnh Ký; “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu; “Đạo đức và luân lý” của


8
Phan Chu Trinh. [29, tr.24]. Có thể kể đến một số nghiên cứu về đạo đức, giáo dục
đạo đức, quản lý giáo dục giáo dục đạo đức như sau:
Nghiên cứu về đạo đức
Phan bội Châu, trong tác phẩm “Khổng học đăng”, với quan điểm tiến bộ đã
đúc kết những tinh hoa của Khổng học, chắt lọc tính nhân bản sâu sắc, phát huy
những phẩm chất cao cả của con người nhằm phục vụ bản thân và xã hội. Nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, liêm là những đức tính cần phải được mọi người trau dồi,
học tập, nhất là thế hệ thanh niên.
Phan Chu Trinh, với “Đạo đức và luân lý” (Bài nói chuyện sau in thành sách

năm 1927) đã đề cao sức mạnh đạo đức, nhân cách, bản lĩnh con người. Theo ông,
một dân tộc muốn đứng lên không bị người ta chèn ép thì phải có một nền đạo đức
vững chặt, đó là cái chất của dân tộc đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử... [33, tr.28].
Như vậy, mặc dù dựa trên các quan điểm tiếp cận khác nhau, từ các nhà lãnh
đạo đến các học giả, các sĩ phu yêu nước, những nhà nghiên cứu đều rất coi trọng
việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.
Nghiên cứu về giáo dục đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến đạo đức và giáo dục
đạo đức cho cán bộ và học sinh. Bác cho rằng đạo đức cách mạng là gốc, là nền
tảng của người cách mạng. Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có
nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đạo đức mà coi nhẹ mặt tài năng. Đức là gốc, nhưng đức
và tài phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này mà
thiếu mặt kia. Chính vì vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của
bản thân cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh thường xuyên
quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Bác còn căn dặn Đảng ta phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, học sinh thành
những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi nội dung cơ bản trong quan điểm đạo đức cách mạng là: trung với nước,
hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; yêu thương con người; có tinh
thần quốc tế trong sáng.[33, tr.45].


9
Trong những năm gần đây, nhiều giáo trình đạo đức được biên soạn khá
công phu. Tiêu biểu như giáo trình của Trần Hậu Kiêm; giáo trình đạo đức học, GS
- TS Nguyễn Ngọc Long - chủ biên, Phạm Khắc Chương - Hà Nhật Thăng; Giáo
trình đạo đức học Mác-Lê nin, PGS-TS Vũ Trọng Dung chủ biên.
- Tác giả Võ Thuần Nho viết bài “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về giáo
dục đạo đức cách mạng trong trường học”. [43].
- Giáo dục đạo đức trong nhà trường - Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt

- Tác giả Đặng Vũ Hoạt với bài “Đổi mới công tác của giáo viên chủ nhiệm
với việc giáo dục đạo đức cho học sinh”. [38].
- Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh
tế thị trường - Thái Duy Tuyên. Trong đó, tác giả đã nghiên cứu về định hướng giá
trị đạo đức của thanh niên.
- Giáo dục đạo đức - hệ thống giá trị tư tưởng nhân văn - Hà Nhật Thăng,
(1998)
- Tác giả Trần Thị Minh Hiển viết bài “ Cải tiến hình thức sinh hoạt tập thể
để nâng cao việc giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên hiện nay”. Tạp chí
nghiên cứu giáo dục số 9/1998
- Tác giả Hồng Quân viết bài “ Giáo dục đạo đức công dân được xếp hạng
chín trên mười môn học”. Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 13/9/1999.
Nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức
- Từ Thanh Nguyên với đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý và tổ
chức văn hoá - giáo dục, Trường ĐH Sư Phạm Hồ Chí Minh “Những biện pháp
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của Hiệu trưởng các trường
THPT tỉnh Trà Vinh”, năm (2003)
- Nguyễn Văn Trung với đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục: “Công
tác quản lý của Hiệu trưởng trong việc tổ chức giáo dục đạo đức cho học sinh ở các
trường THPT huyện Châu Thành, Đồng Tháp”, (2006)
- Tác giả Nguyễn Minh Hùng đã thực hiện đề tài “Biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức cho sinh viên trường Học viện Hậu Cần (2007)” làm đề tài luận văn


10
thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục, Trường ĐH Giáo dục - ĐH Quốc Gia Hà
Nội.
Trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta, đang trong quá trình hội nhập với
quốc tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ và là
mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách mới mà thời

đại mới yêu cầu là “giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội, có bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành, có khả năng
thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần”.
Nhìn chung, trong những năm qua giáo dục đạo đức trong nhà trường của
nước ta được quan tâm rất nhiều, trong đó tập trung vào thế hệ trẻ là học sinh, thiếu
niên, sinh viên. Tuy nhiên, đến thời điểm này chưa có công trình nào nghiên cứu về
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên học GDQP-AN ninh ở Trung tâm
Giáo dục quốc phòng trong phạm vi ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2.
Vì vậy, thực hiện đề tài không trùng lặp cả về đối tượng và phạm vi nghiên cứu,
đồng thời chỉ ra thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên học
GDQP-AN tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 2, trên cơ sở đó đề ra một
số biện pháp nhằm nâng cao đạo đức cho sinh viên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm đạo đức và Giáo dục đạo đức
1.2.1.1. Khái niệm đạo đức
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức:
Theo tác giả Trần Hậu Kiêm: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.
Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến
bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã
hội”. [12, tr.23-25].


11
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin: “ Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội, phản
ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội”. [33, tr.14].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức là sự thống nhất trong tư tưởng và
phong cách. Người có đạo đức là người biết kính yêu nhân dân, khiêm tốn, thật thà,

thẳng thắn, có thái độ cầu thị, làm việc chí công vô tư, không kiêu ngạo, không giấu
dốt. Ở người, đạo đức đóng vai trò như lẽ sống thấm sâu vào tư tưởng và chỉ đạo
hành động, lối sống [33, tr.25].
Theo hai tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt thì đạo đức là một lĩnh vực của
ý thức xã hội, là một mặt hoạt động xã hội của con người và là một hình thái chuyên
biệt của quan hệ xã hội, thực hiện chức năng xã hội hết sức quan trọng là điều chỉnh
hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức nảy sinh từ nhu
cầu của xã hội điều hoà và thống nhất các mâu thuẫn giữa lợi ích chung (của tập thể
,của xã hội) và lợi ích riêng (của cá nhân) nhằm bảo đảm trật tự xã hội và khả năng
phát triển xã hội và cá nhân. Để giải quyết các mâu thuẫn đó, một trong những
phương thức của xã hội là đề ra các yêu cầu dưới dạng những chuẩn mực giá trị,
được mọi người công nhận và được củng cố bằng sức mạnh của phong tục, tập
quán, dư luận , lương tâm…[13, tr.36].
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu khái quát khái niệm đạo đức
ở hai góc độ:
- Góc độ xã hội: Đạo đức là những hình thái ý thức xã hội được phản ánh
dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, qui tắc điều chỉnh hành vi của
con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội, lao động và
con người với chính bản thân mình.
- Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ
trong các mối quan hệ giữa con người với xã hội, giữa bản thân với người khác và
với chính bản thân mình.


12
Theo chúng tôi thì “đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những
nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho
phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ
người và người và con người với tự nhiên”. [12, tr.68].

Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của con người là quá trình tác
động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hoá những nguyên tắc, yêu cầu,
chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho
cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức, công dân và đáp ứng yêu cầu xã hội.
Đạo đức có các chức năng cơ bản là: Chức năng nhận thức; Chức năng giáo
dục và Chức năng điều chỉnh hành vi.
Ba chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau: có nhận thức đúng về xã
hội, về những quan điểm, những hành vi, những chuẩn mực đạo đức thì mới giúp
con người định hướng được lý tưởng, tình cảm, thái độ ứng xử với cộng đồng và
môi trường, mới hình thành được những quan điểm, những nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức cơ bản được xã hội chấp nhận, mới thấy được giá trị của nó. Từ đó, con
người mới có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội
cũng như tự đánh giá những suy nghĩ, những hành vi của bản thân mình để điều
chỉnh hành vi của mình theo đúng chuẩn mực đạo đức của xã hội.
1.2.1.2. Khái niệm giáo dục
Con người từ khi xuất hiện, qua quá trình lao động, cải tạo tự nhiên đã phát
hiện và nhận thức được các qui luật phát sinh, tồn tại và phát triển của thế giới
khách quan và cũng qua quá trình này con người đã tích luỹ được kinh nghiệm
sống, lao động và những hiểu biết của quá trình phát triển của xã hội. Những tri
thức và kinh nghiệm của thế hệ đi trước tích luỹ được, thế hệ sau lĩnh hội, kế thừa
có chọc lọc và phát triển. Đây là hiện tượng đặc thù chỉ xuất hiện ở xã hội loài
người - hiện tượng giáo dục. Hiện tượng này xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng
với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là hiện tượng tất yếu và vĩnh hằng.
Giáo dục có đặc trưng là tổ chức định hướng theo những mục đích và chuẩn
mực nhất định, được lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và diễn ra


13
mang dấu ấn của từng thời kì lịch sử nhất định trong quá trình phát triển của từng xã
hội. Vậy giáo dục là hoạt động có mục đích được tổ chức có kế hoạch, được lựa

chọn về nội dung, phương pháp thực hiện có hệ thống nhằm tác động đến đối tượng
nào đó, làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục là một hình thái ý thức
xã hội, giáo dục tồn tại và vận động, phiển theo sự tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội. Giáo dục là một hiện tượng xã hội chịu sự chi phối và qui định bởi nhiều
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Mặt khác, sự phát triển của giáo dục và sự hoàn thiện về chất lượng giáo dục
là yếu tố then chốt tạo ra sự phát triển của xã hội, của nền văn minh nhân loại.
Hiểu theo nghĩa rộng, giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân
cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan
hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh
những kinh nghiệm của xã hội loài người.
Theo nghĩa hẹp: “giáo dục là hoạt động chuyên biệt nhằm hình thành những
phẩm chất, quan điểm,niềm tin cho con người về các phương diện đạo đức, thể chất,
thẩm mỹ, lao động”. [20, tr.56].
Trong luận văn này, “giáo dục được hiểu như một quá trình sư phạm tổng
thể: là hoạt động có kế hoạch, có nội dung, bằng các phương pháp khoa học trong
các cơ sở giáo dục tác động đến học sinh nhằm phát triển đức, trí, thể, mỹ…cho học
sinh, sinh viên”.
* Các chức năng của giáo dục:
- Chức năng văn hoá tư tưởng
- Chức năng kinh tế- sản xuất
- Chức năng chính trị- xã hội.
* Các con đường giáo dục: Giáo dục thực hiện qua các giờ dạy chính khoá
trên lớp và giáo dục qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp.


14
1.2.1.3. Giáo dục đạo đức

Giáo dục đạo đức trong nhà trường là một quá trình giáo dục bộ phận của
quá trình sư phạm tổng thể, có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục bộ
phận khác như: giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao
động, giáo dục hướng nghiệp…
Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là quá trình hình thành và phát triển các
phẩm chất đạo đức của nhân cách học sinh dưới những tác động và ảnh hưởng có
mục đích được tổ chức có kế hoạch, có sự lựa chọn về nội dung, phương pháp và
hình thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi và với vai trò chủ đạo của nhà giáo dục. Từ
đó, giúp thế hệ trẻ có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ giữa
cá nhân với cá nhân, với cộng đồng - xã hội, với lao động, với tự nhiên… Nội dung
phẩm chất đạo đức, tư tưởng của con người bao gồm lập trường chính trị, thế giới
quan và phẩm chất đạo đức. Do đó, giáo dục đạo đức mà ta nói đến bao gồm giáo
dục thế giới quan, nhân sinh quan, giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục các phẩm
chất đạo đức cao đẹp của con người mới cho thế hệ trẻ.
Như vậy, giáo dục đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục chính trị, tư
tưởng và giáo dục pháp luật. Đó một quá trình lâu dài, liên tục về thời gian, rộng
khắp về không gian, từ mọi lực lượng xã hội; trong đó, nhà trường giữ vai trò rất
quan trọng.
Bản chất của giáo dục đạo đức là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể
giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh, sinh viên, giúp học sinh chuyển những
chuẩn mực, qui tắc, nguyên tắc đạo đức… từ bên ngoài xã hội vào bên trong thành
cái của riêng mình, mà mục tiêu cuối cùng là hành vi đạo đức phù hợp với những
yêu cầu của các chuẩn mực xã hội. Giáo dục đạo đức không chỉ dừng lại ở việc
truyền thụ những khái niệm, những tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn hết là kết
quả giáo dục phải được thể hiện qua tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của học
sinh, sinh viên.
Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là giáo dục truyền thống tốt đẹp của ông cha
ta, giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc và sự kế thừa, tiếp thu những tinh hoa văn hoá



15
của nhân loại; giúp cho thế hệ trẻ thấy được và biết giữ gìn những thành quả Cách
mạng. Vì thế, giáo dục đạo đức trong nhà trường chỉ có được kết quả khi nhà giáo
dục biết tổ chức phù hợp, hình thức đa dạng, phong phú, khơi dậy được tính tích
cực, chủ động sáng tạo và tự giáo dục của người học. Người học biết chuyển hoá
những cái tốt đẹp đó thành phẩm chất nhân cách của mình, phục vụ cho cuộc sống
xã hội.
Như vậy, “giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục
đích, có hệ thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục để bồi
dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực, hành vi đạo đức) phù hợp với
yêu cầu của xã hội”. [18, tr. 25].
1.2.2. Quản lý giáo dục và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1.2.2.1. Khái niệm quản lý
Từ khi xã hội loài người được hình thành, hoạt động tổ chức, quản lý đã
được quan tâm. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động nhằm đạt
được hiệu quả cao hơn. Đó là hoạt động giúp cho người đứng đầu tổ chức phối hợp
sự nổ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng nhằm đạt được mục tiêu
đề ra.
Quản lý là một thuộc tính gắn liền với xã hội ở một giai đoạn phát triển của
nó. Thuộc tính này bắt nguồn từ bản chất của hệ thống của xã hội. Từ lao động tập
thể, lao động xã hội của con người. Ngay từ buổi sơ khai của xã hội loài người để
đương đầu với sức mạnh to lớn của tự nhiên, để duy trì sự tồn tại của mình con
người phải lao động chung, kết hợp lại thành tập thể, điều đó đòi hỏi phải có sự tổ
chức, phải có phân công và hợp tác nhằm thực hiện mục tiêu chung đã định trong
lao động tức là phải có sự quản lý.
- Theo Từ điển giáo dục học, quản lý là hoạt động tác động có định hướng,
có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị
quản lý) trong một tổ chức làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ
chức.



16
- Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý đến tập thể của những người lao động (nói chung là khách thể
quản lý ) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”. [24, tr.22].
- Theo Đặng Quốc Bảo: Công tác quản lý lãnh đạo một tổ chức xét cho cùng
là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: Quản và Lý. Quá trình “Quản”
gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định, quá trình “Lý” gồm việc sửa
sang sắp xếp, đổi mới đưa vào thế “phát triển”. [24, tr. 26].
- Theo các thuyết quản lý hiện đại thì:”Quản lý là quá trình làm việc với và
thông qua những người khác để thực hiện các mục tiêu của tổ chức trong một môi
trường luôn biến động”.
Qua các khái niệm trên về quản lý, chúng ta có thể quan niệm về quản lý như
sau:
- Quản lý là những tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý
đến đối tượng quản lý nhằm đảm bảo sự vận động, phát triển của hệ thống phù hợp
với qui luật khách quan, trong đó sử dụng và khai thác có hiệu quả nhất các tiềm
năng, cơ hội để đạt được mục tiêu đã xác định theo ý chí của chủ thể quản lý.
Có thể thấy “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản
lý đến tập thể của những người lao động (nói chung là khách thể quản lý ) nhằm
thực hiện được những mục tiêu dự kiến”. [24, tr,14].
Chức năng quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý. Quản lý có các chức năng cơ bản, chức năng cụ
thể với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Hiện nay, đa số các nhà khoa học và các nhà
quản lý cho rằng quản lý có 4 chức năng cơ bản, đó là:
- Chức năng lập kế hoạch
- Chức năng tổ chức
- Chức năng chỉ đạo
- Chức năng kiểm tra
Ngoài ra, còn chức năng điều chỉnh báo cáo



17
1.2.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Từ điển giáo dục định nghĩa khái niệm quản lý giáo dục: Quản lý giáo dục là
thực hiện việc quản lý trong lĩnh vực giáo dục (nghĩa rộng). Quản lý giáo dục chủ
yếu là quản lý giáo dục thế hệ trẻ, giáo dục nhà trường, giáo dục trong hệ thống giáo
dục quốc dân (nghĩa hẹp).
- Quản lý giáo dục gồm hai mặt là:
Thứ nhất, Quản lý nhà nước về giáo dục
Thứ hai, Quản lý nhà trường và các cơ sở giáo dục khác. Quản lý giáo dục là
việc thực hiện và giám sát những chính sách giáo dục đào tạo trên cấp độ quốc gia,
vùng, địa phương và cơ sở.
Trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực quản lý giáo dục có nhiều khái niệm
như sau:
- Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau nhằm mục
đích đảm bảo cho sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng
những qui luật chung của xã hội cũng như các qui luật của quản lý giáo dục, của sự
phát triển tâm lý và thể lực của trẻ em”. [4, tr.18].
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, phù hợp qui luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục)
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ
là quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất”. [40, tr.56].
Những khái niệm trên tuy có diễn đạt khác nhau nhưng tựu trung quản lý
giáo dục được hiểu là sự tác động có tổ chức, có định hướng phù hợp với qui luật
khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục
ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu đã định.

Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý chính là bộ máy quản lý các cấp.
Đối tượng quản lý chính là nguồn nhân lực, là cơ sở vật chất kỹ thuật và hoạt động


18
thực hiện chức năng của giáo dục đào tạo.
1.2.2.3. Khái niệm quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Quản lý giáo dục đạo đức là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý nhằm giúp hoạt động giáo dục đạo đức đạt được kết quả mong
muốn, làm cho tất cả mọi người trong xã hội có nhận thức đúng đắn về tầm quan
trọng, tính cấp thiết của công tác giáo dục đạo đức trong xã hội. Đạo đức là thành tố
quan trọng nhất của nhân cách, là nền tảng để xây dựng thế giới tâm hồn của mỗi
con người. Chính vì vậy, hình thành trong người học ý thức, tình cảm và niềm tin
đạo đức, có những thói quen, hành vi đạo đức đáp ứng yêu cầu của toàn xã hội là
trách nhiệm của nhà quản lý.
Giáo dục đạo đức là quá trình hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm
tin, hành vi và thói quen đạo đức của học sinh dưới những tác động có mục đích, có
kế hoạch được lực chọn về nội dung phương pháp, phương tiện phù hợp với đối
tượng giáo dục và sự phát triển kinh tế xã hội nhất định. Giáo dục đạo đức cho sinh
viên là một quá trình giáo dục bộ phận trong tổng thể cả quá trình giáo dục có quan
hệ biện chứng với các bộ phận giáo dục khác như: giáo dục trí tuệ, thẩm mỹ, thể
chất, giáo dục lao động và hướng nghiệp, giúp sinh viên hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện.
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa công tác quản lý giáo dục đạo đức là
quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến các hoạt động
giáo dục đạo đức,sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý
bằng các biện pháp hiệu quả nhất nhằm đưa hoạt động giáo dục đạo đức đạt tới kết
quả mong muốn.
1.3. Đặc điểm tâm lý sinh viên học Giáo dục quốc phòng - An ninh
1.3.1. Vị trí và giai đoạn phát triển tâm lý lứa tuổi sinh viên

Sinh viên - là từ được dùng để chỉ những người đang học tập để nắm lấy
chuyên môn ở trình độ cao trong các trường đại học và cao đẳng, có những quyền
nhất định, đồng thời cũng có những nghĩa vụ nhất định. Sinh viên là những người


×