Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Phân tích chỉ tiêu đánh giá ngân quỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.07 KB, 42 trang )








MễN HC
QUN TR NGN HNG THNG MI

TI
Phaõn tớch Chổ tieõu traùng thaựi Ngaõn quyừ












GVHD: Th.S Nguyn Xuõn Trng
SVTH: Nhúm 1
Lp: VB2-TCNH

Tp HCM, thỏng 08 nm 2010

B GIO DC V O TO


TRNG I HC DUY TN


Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH


DANH SÁCH NHÓM

1. Phan Thị Thúy Phượng
2. Huỳnh Cẩm Đào
3. Ngô Thị Vân Hà
4. Võ Duy Minh
5. Võ Tùng Huy
6. Nguyễn Thị Thắng
7. Trần Mạnh Cường
8. Man Ngọc Hải
9. Võ Thị Thanh Vân
10. Trịnh Thùy Dung
11. Nguyễn Thị Như Ý
12. Nguyễn Thị Chung
















Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH


LỜI CẢM ƠN





























Tập thể nhóm lớp Tài Chính Ngân Hàng chân thành
cảm ơn thầy Th.S Nguyễn Xuân Trường. đã tạo điều
kiện cho nhóm thực hiện tiểu luận này.
Tập thể nhóm 1

Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH


MỤC LỤC

LÔØI NOÙI ÑAÀU 1
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH CHỈ TIÊU 2
1. Quản trị rủi ro thanh khoản 2
1.1. Khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản 2
1.2. Nội dung quản trị rủi ro thanh khoản 4
1.3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro 9
1.4. Cung và cầu thanh khoản 10

1.5. Đánh giá và đo lƣờng trạng thái thanh khoản 11
1.6. Chiến lƣợc thanh khoản 12
2. Tại sao phải đánh giá trạng thái ngân quỹ? 15
CHƢƠNG II: NGUYÊN LÝ HÌNH THÀNH VÀ CẤU TRÚC CỦA CÁC YẾU TỐ CẤU
THÀNH CHỈ TIÊU 17
1. Nguyên lý hình thành 17
2. Cấu trúc của các yếu tố chỉ tiêu 18
2.1 Tổng tài sản (Tài sản có) 18
2.1.1 Khái niệm 18
2.1.2 Thành phần cấu thành tổng tài sản 18
2.1.2.1 Tài sản ngân quỹ 18
2.1.2.2 Đầu tƣ chứng khoán 19
2.1.2.3 Tín dụng 20
2.1.2.4 Các tài sản khác 24
2.2 Ngân quỹ 25
2.2.1 Khái niệm 25
2.2.2 Thành phần cấu thành ngân quỹ 25
2.3 Tiền gửi tại các ngân hàng khác 26
CHƢƠNG III: PHÂN TÍCH VÀ CHỈ RA QUY LUẬT VẬN ĐỘNG CỦA CHỈ TIÊU 28
1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chỉ tiêu 28
1.1. Các yếu tố mà ngân hàng có thể kiểm soát đƣợc 28
1.1.1. Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ 28
1.1.2. Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ 28
1.2. Các yếu tố mà ngân hàng không kiểm soát đƣợc 28
1.2.1. Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ 28
1.2.2. Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ 29
2. Quy luật vận động của chỉ tiêu 29

Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ


GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH


CHƢƠNG IV: ĐỀ XUẤT PHƢƠNG ÁN ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ AN TOÀN CHỈ TIÊU 32
1. Phƣơng án dựa trên nhu cầu thanh khoản 32
2. Phƣơng án dựa trên cung thanh khoản 32
a. Phƣơng án an tòan thanh khoản từ phía tài sản 32
b. Phƣơng án an toàn thanh khoản từ phía nguồn vốn 33
c. Phƣơng án an toàn thanh khoản kết hợp tài sản và nguồn vốn 33
KẾT LUẬN 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO 37






Phõn tớch Ch tiờu trng thỏi ngõn qu

GVHD: Th.S Nguyn Xuõn Trng Nhúm 1 lp VB2- TCNH
1


LễỉI NOI ẹAU

Chc nng c bn ca h thng ti chớnh l cung cp thanh khon. S n nh ca
h thng ngõn hng liờn quan cht ch ti kh nng cung cp thanh khon ca nú.
ỏp ng kp thi nhu cu thanh toỏn ca khỏch hng chớnh l m bo an ton thanh
khon. Vo nhng nm 1970 cỏc NHTM nc ngoi cho cỏc nc kộm phỏt trin (LDCs)
vay hng trm t ụla. Vo nhng nm 1980, cỏc khon cho vay ny tr nờn khú thu hi

(khng hong n), cỏc ngõn hng ny mt kh nng thanh toỏn tin gi ca khỏch, thua l
v b phỏ sn. Vo nhng nm 1990, cỏc hóng chng khoỏn gp nguy khn bi s sp
ca th trng bt ng sn v th trng chng khoỏn Nht. Cỏc NHTM Nht ngi
ti tr cho cỏc hóng chng khoỏn, ó khụng thu c n, mt kh nng chi tr cho ngi
gi tin. u nhng nm 1990, mt s qu tớn dng Vit nam lm n thua l gõy hoang
mang cho khỏch, dn n vic dõn rỳt tin hng lot ti cỏc qu tớn dng khỏc, to nờn s
sp hng lot cỏc qu tớn dng
Nh vy vic ỏp ng nhu cu thanh toỏn ca khỏch hng mt cỏch thng xuyờn
v trong nhng trng hp c bit khn cp l yờu cu cp thit, l ni dung quan trng
trong cụng tỏc qun lý ca ngõn hng nhm hn ch ri ro thanh khon. Nú liờn quan ti s
tn ti v phỏt trin ca mi ngõn hng v ca c h thng.
Vỡ nhng lý do trờn, nhúm ó chn d ti Phõn tớch ch tiờu trng thỏi ngõn qu
lm ti ca nhúm.
Kt cu ca ti gm:
Chng 1: C s lý lun hỡnh thnh ch tiờu
Chng 2: Nguyờn lý hỡnh thnh v cu trỳc ca cỏc yu t cu thnh ch tiờu
Chng 3: Phõn tớch v ch ra quy lut vn ng ca ch tiờu
Chng 4: xut phng ỏn ỏnh giỏ giỏ tr an ton ch tiờu

Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
2

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH CHỈ TIÊU

1. Quản trị rủi ro thanh khoản
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng thương mại là đảm
bảo khả năng thanh khoản đầy đủ. Một ngân hàng thương mại được xem là có khả năng
thanh khoản nếu nó tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn khả dụng ở chi phí hợp lý và đúng lúc

cần thiết. Điều này có nghĩa là ngân hàng có sẵn lượng ngân quỹ dự trữ trong tay hoặc có
thể tăng thêm bằng cách vay mượn hoặc bán bớt một số tài sản mà ngân hàng đang có.
Thực tế cho chúng ta thấy hiện tượng thiếu hụt thanh khoản, thường là một trong
những dấu hiệu đầu tiên cho thấy ngân hàng đang ở trong tình trạng khó khăn tài chính
nghiêm trọng. Kế đến những ngân hàng có vấn đề này bắt đầu mất các khoản tiền gửi cũ và
mới, nguồn cung cấp tiền ngày càng khác ở trong tình thế cho vay hỗ trợ một cách miễn
cưỡng vì thiếu sự an toàn hoặc với lãi suất cao hơn, một tác nhân làm suy giảm hơn nữa lợi
nhuận của ngân hàng có vấn đề.
Nhiều ngân hàng thực sự cho rằng có thể vay mượn các nguồn thanh khoản không
giới hạn bất kỳ lúc nào cần đến. Do đó, không cần phải dự trữ thanh khoản nhiều dưới hình
thức các tài sản có giá cả ổn định và dễ bán. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình
trạng thiếu hụt ngân quỹ ở một mức độ lớn tại một số ngân hàng đã chỉ ra rằng vấn đề
thanh khoản là không thể bỏ qua.
Ngày nay, quản trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn so với trước đây rất nhiều,
bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản, mặc
dù về kỹ thuật, nó vẫn còn khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực quản trị thanh khoản của
một ngân hàng là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt đến các mục tiêu dài
hạn của ngân hàng.
1.1. Khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản
a. Thanh khoản
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
3

Theo nghĩa hẹp, thanh khoản là khả năng biến đổi một tài sản nào đó ra tiền mặt một
cách nhanh chóng với một chi phí thấp nhất có thể. Một cách đầy đủ hơn, dựa vào cả hai
tiếp cận từ tài sản và nguồn vốn, thanh khoản là khả năng tiếp cận các tài sản và nguồn vốn
với một chi phí hợp lý để phục vụ các nhu cầu hoạt động khác nhau của ngân hang. Một
tài sản có tính thanh khoản cao khi chi phí chuyển đổi thành tiền nhanh, trong khi đó,

nguồn vốn có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động thấp và thời gian huy động nhanh.

b. Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro đặc trưng và phổ biến trong hoạt động NHTM.
Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng
vốn khả dụng (nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh
doanh bị đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán dẫn đến ngân hàng phá sản.
Trong số các NHTM, rủi ro thanh khoản là rủi ro rất đặc trưng đối với ngân hàng.
Lý do là nguồn vốn ngân hàng có một phần rất lớn là vốn huy động với đặc tính có
thể rút trước hạn. Rủi ro thanh khoản của ngân hàng là những rủi ro xảy ra do sự thay đổi
trên thị trường thứ cấp gây khó khăn cho ngân hàng trong việc chuyển đổi các tài sảnthành
tiền để đáp ứng các nhu cầu chi trả. Khả năng này xảy ra khi chi phí giao dịchtăng, hoặc
thời gian giao dịch bị kéo dài. Tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu là chi phí phát sinh do
phải tìm kiếm các nguồn chi trả khác.

Phần lớn nguồn tiền trong ngân hàng là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu.
Do vậy, ngân hàng thường xuyên phải đối đầu với nhu cầu chi trả, nếu yêu cầu này không
được đáp ứng ngay, nguồn tiền gửi có thể bị giảm sút nhanh chóng, thậm chí làm cho ngân
hàng bị phá sản. Trong khi đó, hoạt động đầu tư tài sản chủ yếu của ngân hàng là cho vay,
vì vậy ngân hàng phải đáp ứng kịp thời nhu cầu vay hợp pháp của khách hàng. Vì vậy, khi
thực hiện chức năng trung gian tài chính và trung gian thanh toán, ngân hàng thường xuyên
phải duy trì khả năng thanh toán, tức duy trì thanh khoản của ngân hàng.

Những ví dụ cụ thể về rủi ro thanh khoản như sau: Vào những năm 70, các ngân
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
4


hàng thương mại ở các nước phát triển đã cho các nước kém phát triển vay hàng trăm tỷ đô
la. Vào những năm 80, các khoản cho vay này trở nên khó thu hồi. Khủng hoảng nợ diễn ra
ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia châu Mỹ la tinh. Vì vậy, rất nhiều ngân hàng cho
vay đã mất khả năng thanh toán tiền gửi của khách, thua lỗ và bị phá sản. Vào những năm
90, các hãng chứng khoán tại Nhật Bản gặp nguy khốn vì sự sụp đổ của thị trường bất động
sản và thị trường chứng khoán. Các ngân hàng thương mại thực hiện tài trợ cho các hãng
chứng khoán đã không thu được nợ, mất khả năng chi trả cho người gửi tiền. Đầu những
năm 90, một số quỹ tín dụng ở Việt Nam làm ăn thua lỗ gây tâm lý hoang mang cho khách
hàng gửi tiền, dẫn đến việc rút tiền hàng loạt tại hầu hết tất cả các quỹ tín dụng, tạo nên sự
sụp đổ hàng loạt mang tính dây chuyền. Vào cuối năm 1997, khủng hoảng tài chính ở châu
á đã làm cho nhiều ngân hàng mất hàng tỷ USD, nhiều khách hàng hoảng loạn thực hiện
rút tiền hàng loạt làm một số ngân hàng bị mất khả năng chi trả, bị phá sản hoặc bị sát
nhập. Năm 2002, tất cả các ngân hàng Argentina đối mặt với rủi ro thanh khoản, tới mức
người dân không muốn dùng tiền mặt nữa mà đã chuyển sang trao đổi hàng đổi hàng. Với
Việt Nam, rủi ro thanh khoản gần nhất đã xảy ra với ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu năm 2004 chỉ vì một tin đồn thất thiệt. Gần đây nhất là vụ rủi ro thanh khoản của các
ngân hàng Nga vào tháng 7/2004.

1.2. Nội dung quản trị rủi ro thanh khoản

Quản trị rủi ro thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản
(tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn. Bản chất của hoạt
động quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng có thể đúc kết hai nội dung như sau:
Một là: Hiếm khi nào một thời điểm mà tổng cung thanh toán bằng với tổng cầu
thanh khoản. Do vậy, ngân hàng phải thường xuyên đối mặt với tình trạng thâm hụt hay
thặng dư thanh khoản.
Hai là: Thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau,
nghĩa là một tài sản có tính thanh khoản càng cao thì khả năng sinh lời của tài sản đó càng
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ


GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
5

thấp và ngược lại, một nguồn vốn có tính thanh khoản càng cao thì thường có chi phí huy
động càng lớn và do đó, làm giảm khả năng sinh lời khi sử dụng để cho vay.
Ngân hàng cần dự trữ thanh khoản để chi trả những chi phí thường xuyên, như lãi tiền
gửi , và cả những cú sốc thanh khoản không mong đợi, như một cuộc rút tiền gửi hàng
loạt hay yêu cầu vay vốn lớn. Một ví dụ điển hình cho cú sốc thanh khoản là nhiều người
đổ xô đến ngân hàng rút tiền ở cùng một thời điểm. Trong hoàn cảnh đó, hầu như không
một ngân hàng nào có thể đáp ứng hết những yêu cầu này và dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ,
ngay cả khi ngân hàng đó chưa mất khả năng thanh toán. Tất nhiên, khả năng dự trữ thanh
khoản kém chưa hẳn sẽ đưa đến sự sụp đổ của một ngân hàng, nhưng chắn chắc, ngân hàng
sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để ứng phó với một cú sốc thanh khoản không lường
trước. Và điều đó sẽ làm giảm đáng kể lợi nhuận của ngân hàng và suy đến cùng khả năng
sụp đổ là hoàn toàn có thể.
Thanh khoản mang ý nghĩa thời điểm rất lớn, theo nghĩa, một số yêu cầu thanh
khoản là tức thời hoặc gần như tức thời. Chẳng hạn, một khoản tiền gửi lớn đến hạn và
khách hàng không có ý định tiếp tục duy trì số vốn này tại ngân hàng; khi đó, ngân hàng
buộc phải tìm kiếm các nguồn vốn có thể sử dụng ngay như vay từ TCTD khác. Ngoài ra,
yếu tố thời vụ, chu kỳ cũng rất đáng quan trọng trong việc dự kiến cầu thanh khoản dài
hạn. Ví dụ, cầu về thanh khoản thường rất lớn vào mùa hè, cuối hè gắn với ngày tựu
trường, ngày nghỉ và các kế hoạch du lịch của khách hàng. Việc kế hoạch được những yêu
cầu thanh khoản này, sẽ giúp ngân hàng hoạch định được nhiều nguồn đáp ứng cầu thanh
khoản dài hạn hơn là trong trường hợp đối với cầu thanh khoản ngắn hạn.

Quản trị rủi ro thanh khoản thông qua áp dụng các lý thuyết thanh khoản
Các lý thuyết về quản lý thanh khoản đã có từ những ngày đầu trong hoạt động ngân
hàng. Nhìn chung, có bốn lý thuyết chính như sau: Lý thuyết cho vay thương mại (cho vay
ngắn hạn); Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản; Lý thuyết lợi tức dự tính và Lý
thuyết về quản lý nợ



Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
6

a. Lý thuyết cho vay thƣơng mại (cho vay ngắn hạn)

Lý thuyết này hình thành dựa trên việc nghiên cứu thanh khoản của các ngân hàng từ
đầu thế kỷ 19 trở về trước. Các ngân hàng chưa liên kết với nhau, thị trường TC chưa phát
triển, khả năng thanh khoản của Ngân hàng chủ yếu dựa vào ngân quỹ và các khoản cho
vay ngắn hạn.

Nội dung: Lý thuyết này cho rằng: Thanh khoản của một ngân hàng sẽ được đảm
bảo nếu các tài sản của ngân hàng tồn tại chủ yếu dưới dạng các khoản cho vay thương mại
(cho vay ngắn hạn). Các khoản cho vay thương mại thực chất là các khoản cho vay ngắn
hạn nhằm xúc tiến quá trình tiền – hàng – tiền bằng cách cho vay vốn lưu động. Cơ sở của
lý thuyết này: thời hạn cho vay thương mại ngắn thì khả năng thu hồi nợ dễ. Vì vậy, tiền
cho vay của ngân hàng ít bị động lại, không đọng lâu ở khách hàng vay mà khách hàng
thường xuyên có các khoản thu bằng tiền để chuyển vào ngân hàng. Dự trữ trong ngân
hàng được đảm bảo thì sẽ đáp ứng nhu cầu thanh toán.
Hạn chế: Tuy vậy, trong quá trình áp dụng, lý thuyết này đã bộc lộ rất nhiều hạn chế
Cho vay ngắn hạn dẫn đến lãi suất thấp nên mức thu nhập của ngân hàng cũng thấp
hơn.
Hạn chế khả năng cho vay của ngân hàng. Hướng tài trợ trung và dài hạn không thể
thực hiện được, trong khi nhu cầu tài trợ theo hướng này đang tăng lên.
Khi không cho vay trung và dài hạn được thì khả năng để cho vay ngắn hạn cũng bị
giảm xuống, do nhiều khách hàng rời bỏ ngân hàng để tới ngân hàng khác cung cấp
dịch vụ đa dạng hơn.

Không xem xét tới tính ổn định tương đối của tiền gửi ngân hàng (rất ít trường hợp
tất cả các KH đều rút tiền gửi cùng một lúc. Tính ổn định này cho phép NH có thể
mở rộng vốn trong một thời gian tương đối dài mà không làm mất tính thanh khoản
của nó.
Với cho vay ngắn hạn, NH vẫn có thể gặp rủi ro thanh khoản nến KH gặp khó khăn
không trả nợ đúng hạn cho NH.
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
7


b. Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản

Lý thuyết này phát triển khi thị trường trái phiếu chính phủ phát triển, thị trường tài
chính đang bắt đầu phát triển, tạo điều kiện cho khả năng chuyển đổi các TS của NH thành
tiền dễ dàng hơn. Dựa trên việc phân tích số lượng các ngân hàng Anh và Mỹ bị phá sản
trong cuộc khủng hoảng 1929-1933, các tác giả của lý thuyết này cho rằng, số lượng các
ngân hàng Anh (chủ yếu cho vay thương mại) bị phá sản chẳng kém gì các ngân hàng Mỹ
(mở rộng cho vay bất động sản và người tiêu dùng). Như vậy, cho vay thương mại cũng
không đảm bảo an toàn thanh khoản cho ngân hàng thương mại khi khủng hoảng xảy ra.

Nội dung: Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản chứng minh vấn đề chính để
đảm bảo khả năng an toàn thanh khoản là khả năng tạo ra thu nhập cho ngân hàng (tăng
khả năng tích luỹ) và khả năng chuyển đổi của tài sản. Lý thuyết này cho rằng: thanh khoản
của 1 NH sẽ được đảm bảo nếu các TS của NN đó tồn tại chủ yếu dưới dạng những tài sản
có khả năng dễ chuyển đổi. Các TS có khả năng chuyển đổi cao là: CK của những công ty
có tình hình TC tốt, KD tốt, trái phiếu CP, các khoản cho vay có chất lượng cao (VD: với
các DA có khả năng mang lại lợi nhuận cao, các khoản cho vay có đảm bảo bằng TS.
Điều kiện chuyển đổi:

Người mua phải sẵn sàng chấp nhận những tài sản có khả năng chuyển đổi này.

Điều kiện thị trường: Để tiến hành giao dịch, chuyển đổi các loại TS này thành tiền
dễ dàng cần người môi giới hoặc NHTƯ sẵn sàng mua lại dưới dạng chiết khấu.
So với lý thuyết cho vay thương mại, lợi thế của lý thuyết về khả năng chuyển đổi là:
hướng đầu tư của NH mở rộng, vì vậy NH có khả năng sử dụng hầu hết các khoản tiền đã
nhân được.
Tuy vậy, lý thuyết này vẫn bộc lộ rất nhiều hạn chế: Khả năng chuyển đổi thay đổi khi
thị trường biến động như bán thế chấp, mua bán cổ phiếu trái phiếu chưa nhiều, lừa
đảo sẽ ảnh hưởng tới thanh khoản của NH.
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
8


c. Lý thuyết lợi tức định trƣớc (lợi tức dự tính)

Tính thanh khoản của ngân hàng không chỉ được đo lường bằng khả năng chuyển đổi
của tài sản. Trên cơ sở phân tích thanh khoản của ngân hàng trên quan điểm dòng tiền, các
tác giả của lý thuyết lợi tức định trước cho rằng các khoản thu từ tài sản không chỉ xảy ra
khi tài sản đến hạn mà còn có được vào nhiều thời điểm trong suốt thời hạn của tài sản.
Các khoản tài trợ trung và dài hạn gắn liền với tài sản cố định của khách hàng. Các tài sản
này tham gia nhiều chu kỳ sản xuất hoặc tiêu dùng, bị hao mòn dần. Người vay sẽ thực
hiện thu hồi dần giá trị tài sản dưới hình thức trích khấu hao. Nếu là người tiêu dùng vay
để mua hàng hoá lâu bền, thu nhập hàng tháng của họ sẽ là cơ sở để ngân hàng thu nợ. Do
đó, nếu ngân hàng cho vay trung và dài hạn song thực hiện thu nợ theo nhiều kỳ hạn nợ
phù hợp với chu kỳ thu nhập của khách hàng thì thu dự tính sẽ làm tăng tính thanh khoản
của tài sản.
Lý thuyết này có rất nhiều lợi thế so với các lý thuyết trƣớc

Lý thuyết lợi tức định trước không phủ nhận tính khả thi của các lý thuyết về cho
vay thương mại và Lý thuyết về khả năng chuyển đổi, nhưng nhấn mạnh hơn đến
triển vọng về việc hoàn trả tín dụng cùng với lợi tức hơn là lệ thuộc nặng nề vào vật
ký quỹ, thế chấp.
Không ảnh hưởng tới các hướng đầu tư của ngân hàng
Ngân hàng không phải đối mặt với việc xử lý các sản phẩm, thế chấp họ nắm giữ
Các khoản thu được rải đều và được kế hoạch hoá khá chuẩn xác.
Khả năng thanh khoản của ngân hàng cao.

d. Lý thuyết về quản lý nợ

Lý thuyết này hình thành từ giữa những năm 60 của thế kỷ 20, gắn liền với việc hình
thành công cụ huy động mới là chứng chỉ tiền gửi (CD) và thị trường CD. Ngoài việc vay
mượn truyền thống là vay ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại khác, CD
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
9

cho phép các ngân hàng lớn ở trung tâm tiền tệ có thể huy động trong thời gian ngắn một
lượng vốn lớn, với chi phí rẻ hơn phát hành trái phiếu trung và dài hạn.Bên cạnh đó, việc
phát triển thị trường liên ngân hàng mang tính khu vực và quốc tế cho phép các ngân hàng
trên toàn thế giới vay lẫn nhau với quy mô lớn, chi phí giao dịch thấp và ít bị ảnh hưởng
bởi chính sách của ngân hàng trung ương mỗi nước. Môi trường hoạt động này làm tăng
khả năng vay nợ của các ngân hàng thương mại. Theo các tác giả, nếu một ngân hàng có
khả năng vay nợ cao (thời gian nhanh, quy mô lớn, chi phí thấp) thì khả năng thanh khoản
của ngân hàng đó cũng lớn. Các nhà quản lý ngân hàng có thể duy trì danh mục tài sản
nghiêng về tính sinh lời hơn là tính thanh khoản và sử dụng việc huy động mới như là
phương pháp chính để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.


1.3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro
Các nguyên nhân của rủi ro thanh khoản bao gồm:
- Nguyên nhân thứ nhất xuất phát từ phía nguồn vốn của bảng cân đối kế toán. Ngân
hang thiếu ngân quỹ để đáp ứng các nhu cầu chi trả cho những người gửi tiền,
hoặc thanh toán cho các khaỏn nợ ngắn hạn mà ngân hang đã vay. Hai dạng trái
chủ chính ở đây là công chúng và các ngân hang thương mại khác, nơi mà một
ngân hang có thể vay mượn những khoản nợ ngắn hạn trên thị trường liên ngân
hang. Rủi ro thanh khoản càng cao khi các trái chủ muốn rút vốn ngay lập tức. Khi
đó, ngân hang phải tìm cách huy động các nguồn vốn bổ sung, hoặc tìm cách bán
hay chuyển các tài sản thành tiền mặt. Thế nhưng, các ngân hang lại thường tìm
cách tối thiểu hóa các khoản dự trữ tiền mặt vì chúng không sinh lợi. Để có được
thu nhập lãi, các ngân hang thường giữ các tài sản kém thanh khoản hoặc có thời
gian đáo hạn dài hơn. Trong khi một số tài sản có khả năng chuyển đổi nhanh ra
tiền mặt với một chi phí cao. Trong cơ cấu nguồn vốn của một ngân hang thương
mại tiêu biểu, thông thường có một tỷ lệ lớn các nghĩa vụ nợ ngắn hạn như tiền
gửi trên tài khoản vãng lai, các khoản tiết kiệm ngắn hạn của công chúng, các
khoản vay liên ngân hang ngắn hạn. Các ngân hàng, theo kinh nghiệm của họ, biết
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
10

rằng bình thường thì chỉ một phần nào đó tiền ký thác trên tài khoản vãng lai
được khách hang rút ra. Phần còn lại có thể được xem như ký thác lõi (core
deposit), tức là những khoản ký thác mà ngân hang có thể xem như những nguồn
vốn ổn định mà họ có thể sử dụng với một kỳ hạn dài hơn so với bản chất không
kỳ hạn của loại nguồn vốn này. Hơn thế nữa, nhu cầu rút vốn ký thác cũng có thể
được đáp ứng bằng những nguồn ký thác mới. Do đó, công việc thường nhật của
nhà quản trị ngân hang là phải biết cách điều chỉnh các luồng rút vốn ròng (chênh
lệch giữa rút vốn ký thác và các nguồn ký thác mới) dựa trên một phân phối xác

xuất nào đó mà họ có được qua kinh nghiệm và thời gian.
- Nguyên nhân thứ hai của rủi ro thanh khoản đến từ phía tài sản của bảng cân đối
kế toán, chẳng hạn, nhu cầu giải ngân cho các khoản tín dụng đã cam kết. Theo
cam kết, ngân hang phải có tiền giải ngân cho khách hang vay nợ, khi họ muốn rút
vốn theo nhu cầu và lịch trình đã thỏa thuận và do đó, nó làm phát sinh cầu thanh
khoản. Cũng giống như việc đáp ứng nhu cầu rút vốn của các trái chủ, trong
trường hợp này, ngân hàng có thể sử dụng tiền mặt dự trữ, vay nợ bổ sung hay bán
các tài sản.
- Nguyên nhân thứ ba là ngân hàng thiếu ngân quỹ để đáp ứng các nhu cầu của các
bên đối tác của ngân hàng: các chủ nợ, các cổ đông,…
- Các nguyên nhân khác có thể kể như ngân hàng không có những chiến lược và
phương pháp quản trị thanh khoản phù hợp. Rủi ro thanh khoản cũng có thể xảy ra
do những thay đổi của lãi suất thị trường. Cuối cùng, là các nguyên nhân hòan
toàn khách quan nhưng vô cùng nguy hiểm, đó là hiệu ứng rút tiền dây chuyền
trong những giai đoạn khủng hoảng tài chính và các biến cố kinh tế-chính trị bất
thường khác.

1.4. Cung và cầu thanh khoản
Trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định, với các chi tiết
về nguồn và sử dụng thanh khoản có thể được các nhà quản trị thiết lập để phục vụ nhu cầu
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
11

thanh khoản. Nguồn và sử dụng thanh khoản, hay nói cách khác, cung và cầu thanh khoản
bao gồm:
Cung về thanh khoản:
Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, là nguồn
cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm:

 Các khoản tiền gửi đang đến.
 Doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi tiền gửi.
 Thu hồi các khoản tín dụng đã cấp.
 Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng .
 Vay mượn trên thị trường tiền tệ.
Cầu về thanh khoản:
Cầu về thanh khoản là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân hàng, các
khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường, trong lĩnh vực kinh doanh của ngân
hàng, những hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm:
 Khách hàng rút tiền từ tài khoản.
 Yêu cầu vay vốn từ những khách hàng có chất lượng tín dụng cao.
 Thanh toán các khoản vay phi tiền gửi.
 Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ.
 Thanh toán cổ tức bằng tiền.

1.5. Đánh giá và đo lƣờng trạng thái thanh khoản
Trạng thái thanh khoản ròng NPL (net liquidity position) của một ngân hàng đƣợc
xác định nhƣ sau:
NPL = Tổng cung về thanh khoản - Tổng cầu về thanh khoản
Có ba khả năng có thể xảy ra sau đây:
Thặng dƣ thanh khoản: Khi cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản (NPL>0),
ngân hàng đang ở trạng thái thặng dư thanh khoản. Nhà quản trị ngân hàng phải cân nhắc
đầu tư số vốn thặng dư này vào đâu để mang lại hiệu quả cho tới khi chúng cần được sử
dụng đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong tương lai.
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
12

Thâm hụt thanh khoản: Khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản (NPL<0),

ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thâm hụt thanh khoản. Nhà quản trị phải xem xét,
quyết định nguồn tài trợ thanh khoản lấy từ đâu, bao giờ thì có và chi phí bao nhiêu.
Cân bằng thanh khoản: Khi cung thanh khoản cân bằng với cầu thanh khoản
(NPL=0), tình trạng này được gọi là cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên, đây là tình trạng rất
khó xảy ra trên thực tế.
Các chỉ tiêu quản trị thanh khoản
Các nhà quản trị ngân hàng thường sử dụng các chỉ tiêu quản trị thanh khoản sau đây:
- Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ = Ngân quỹ và tiền gửi tại các ngân hàng/ Tổng tài
sản
- Chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản = Chứng khoán chính phủ/ Tổng tài sản
- Hệ số tiền nóng = Tài sản thị trường tiền tệ / Nợ trên thị trường tiền tệ
- Hệ số thành phần tiền gửi = Tiền gửi giao dịch / Tiền gửi định kỳ
1.6. Chiến lƣợc thanh khoản
Để xử lý vấn đề thanh khoản, các ngân hàng có thể tiếp cận theo 3 cách sau đây:
+ Tạo ra nguồn cung cấp thanh khoản từ bên trong (tài sản)
+ Vay mượn bên ngoài (nguồn vốn) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
+ Phối hợp cân bằng cả hai hướng trên.
Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản (sử dụng vốn)
Đây là cách tiếp cận truyền thống để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của NHTM. Chiến
lược này đòi hỏi dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh khoản cao, chủ
yếu là tiền mặt và các chứng khoán. Khi xuất hiện nhu cầu thanh khoản, ngân hàng bán các
tài sản dự trữ để lấy tiền cho đến khi tất cả nhu cầu thanh khoản được đáp ứng đầy đủ.
Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này thường được gọi là sự chuyển hoá tài sản
bởi vì ngân hàng tăng nguồn cung cấp thanh khoản bằng cách chuyển đổi các tài sản phi
tiền mặt thành tiền mặt.
Tài sản có tính thanh khoản có 3 đặc điểm sau:
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
13


+ Luôn có sẵn thị trường tiêu thụ để có thể chuyển đổi thành tiền mau chóng.
+ Giá cả ổn định để không ảnh hưởng đến tốc độ và doanh thu bán tài sản.
+ Có thể mua lại dễ dàng với ít rủi ro mất mát giá trị để người bán có thể khôi phục
khoản đầu tư.
Đối với các ngân hàng, những tài sản có tính thanh khoản cao nhất là trái phiếu kho bạc,
các khoản vay NHTW, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng khoán các
cơ quan chính phủ Như vậy, trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản, một
ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu nó có thể tiếp cận các nguồn cung cấp
thanh khoản ở chi phí hợp lý, số lượng tiền vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời vào lúc nó
được cần đến.
Tuy nhiên, sự chuyển hoá tài sản không phải cách tiếp cận ít chi phí đối với quản trị
thanh khoản:
- Một khi bán tài sản cũng có nghĩa là ngân hàng mất nguồn thu nhập mà các tài sản
này tạo ra. Như vậy, có chi phí cơ hội để dự trữ khả năng thanh khoản bằng tài sản.
- Phần lớn các tài sản đem bán cũng liên quan đến chi phí giao dịch, chẳng hạn hoa
hồng phí phải trả cho người môi giới chứng khoán.
- Ngân hàng sẽ bị tổn thất vốn đáng kể nếu các tài sản cần phải bán có sự giảm giá
trên thị trường.
- Nhìn chung khả năng sinh lợi của các tài sản có tính thanh khoản càng cao là thấp nhất
trong số các tài sản tài chính. Nếu ngân hàng đầu tư nhiều vào tài sản có tính thanh khảon cao thì
ngân hàng buộc phải từ bỏ lợi nhuận cao hơn tạo ra từ những tài sản khác.
Chiến lƣợc quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn
Vào thập niên 60 và 70 nhiều ngân hàng, nhất là các ngân hàng lớn đã bắt đầu gia tăng
nhiều hơn các nguồn vốn có tính thanh khoản thông qua vay mượn trên thị trường tiền tệ.
Yêu cầu của các ngân hàng là vay mượn tức thời nguồn vốn khả dụng để trang trải tất cả
nhu cầu thanh khoản đã dự phòng. Tuy nhiên, việc vay mượn thường chỉ được triển khai
khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện để tránh dự trữ quá mức cần thiết.
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ


GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
14

Nguồn vay mượn thanh khoản chủ yếu đối với một ngân hàng bao gồm: chứng chỉ tiền
gửi khả nhượng có giá trị lớn, tiền vay NHTW, các hợp đồng mua lại, chiết khấu tại
NHTW Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn được hầu hết các ngân hàng
lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu thanh khoản của họ.
Vay mượn thanh khoản là cách tiếp cận nhiều rủi ro để một ngân hàng giải quyết vấn đề
thanh khoản (nhưng cũng đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất do bởi dao động lãi suất
trên thị trường tiền tệ và khả năng thay đổi về sự sẵn có của các khoản tín dụng).
Sẽ là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng trên cả hai phương diện: chi phí và sự sẵn có
nguồn vốn. Chi phí vay mượn thường xuyên biến động và tất nhiên là tăng thêm mức độ
không ổn định của lợi nhuận. Hơn nữa, một ngân hàng có khó khăn về tài chính thì hầu
như thường là về nguồn thanh khoản đã vay mượn, nhất là khi sự hiểu biết về những khó
khăn của ngân hàng lan rộng và những người gửi tiền bắt đầu rút vốn ồ ạt. Đồng thời các tổ
chức tài chính khác, để dính líu rủi ro, sẽ thận trọng, dè dặt hơn trong việc tài trợ vốn cho
ngân hàng đang có khủng hoảng thanh khoản.
Chiến lƣợc quản trị thanh khoản cân bằng
Do những rủi ro vốn có khi phụ thuộc vào nguồn thanh khoản vay mượn và những chi
phí dự trữ thanh khoản bằng tài sản, phần lớn ngân hàng đã dung hòa trong việc chọn chiến
lược quản trị thanh khoản của họ, nghĩa là kết hợp đồng thời cả hai loại chiến lược trên để
tạo ra chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng.
Chiến lược này đòi hỏi, các nhu cầu thanh khoản có thể dự kiến, được dự trữ bằng
chứng khoán khả nhượng và tiền gửi tại các ngân hàng khác; trong khi đó các nhu cầu
thanh khoản đã dự phòng trước (theo thời vụ, chu kỳ, và xu hướng) được hỗ trợ bằng các
thoả thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc những nhà cấp vốn
khác.
Nhu cầu thanh khoản không thể dự kiến được đáp ứng từ vay mượn ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ. Các nhu cầu thanh khoản dài hạn cần được hoạch định và nguồn vốn để đáp
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ


GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
15

ứng nhu cầu thanh khoản là các khoản tiền vay ngắn và trung hạn, chứng khoán sẽ chuyển
hóa thành tiền khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện.
2. Tại sao phải đánh giá trạng thái ngân quỹ?
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong NHTM là đảm bảo khả năng
thanh khoản đầy đủ, 1 NHTM được xem là có khả năng thanh toán nếu nó tiếp cận dễ dàng
các nguồn vốn khả dụng ở chi phí hợp lý và đúng lúc cần thiết. Điều này có nghĩa là Ngân
hàng có sẵn lượng ngân quỹ dự trữ trong tay.
Tài sản ngân quỹ là những tài sản không sinh lời, được duy trì chủ yếu để đáp ứng nhu
cầu chi trả cho khách hàng tiền gửi, chi phí cho hoạt động của ngân hàng, bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ và thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN.
Một ngân hàng thường đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng tài sản ngân
quỹ:
 Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Nếu
một khách hàng có tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng, đến rút tiền mặt, rất đơn giản,
ngân hàng sẽ xuất quỹ tiền mặt để trả; nếu một khách hàng có số dư trên tài khoản
tiền gửi thanh tóan, ký séc hoặc ủy nhiệm chi để trả cho khách hàng tại ngân hàng
khác, rất đơn giản, ngân hàng sẽ sử dụng tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước hoặc tiềng
gửi tại các tổ chức tín dụng để trả… Nếu một khách hàng có nhu cầu thanh toàn
song chưa có (hoặc chưa đủ) tiền, ngân hàng có thể cho vay (sau khi phân tích tín
dụng), để khách hàng đó thanh toán. Việc cho vay có thể dưới hình thức bằng tiền
mặt, hoặc chuyển khoản. Các khoản vay đến hạn trả (vay ngân hàng Nhà nước hoặc
phát hành trái phiếu…), ngân hàng trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản… Các hoạt
động này diễn ra hàng ngày tại các ngân hàng giúp cho khách hàng thực hiện các
hoạt động thanh toán và đầu tư kịp thời.
Ngân hàng huy động hàng nghìn tỷ đồng của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và
của hàng triệu cá nhân để cho vay và đầu tư, trong khi vốn sở hữu của ngân hàng thường

chỉ chiếm một phần nhỏ (khoảng dưới 10%). Các vụ sụp đổ ngân hàng, các cơn hoảng loạn
tài chính chỉ ra tính nhạy cảm của hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói
riêng trước các biến đổi bất thường của nền kinh tế trong nước, khu vực và toàn cầu.
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
16

Những tổn thất to lớn trong các ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới sự ổn
định chính trị - kinh tế - xã hội và đời sống của các tầng lớp dân cư. Vì vậy, sự an toàn của
các hệ thống cũng như mỗi ngân hàng là mối quan tâm thường xuyên của các tầng lớp dân
cư, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các nhà quản lý ngân hàng. Các Bộ luật, các Nghị
định, quy định thường đưa ra các điều khoản cấm, hạn chế, phải thực hiện… liên quan tới
hoạt động của ngân hàng. Ví dụ, cấm một ngân hàng không được cho vay đối với Hội đồng
quản trị của ngân hàng đó, cấm ngân hàng thương mại không trực tiếp kinh doanh bất động
sản, quy định tỷ lệ cho vay cao nhất đối với một khách hàng trên vốn của chủ, … Các quy
định nhìn chung đều hướng hoạt động của các ngân hàng vào khung an toàn. Bên cạnh
đó, các cơ quan quản lý còn đặt ra các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các ngân
hàng cũng như các điều khoản phạt vi phạm từ đơn giản như phạt tiền, đến các hình thức
cao hơn như hạn chế hoạt động, kiểm soát đặc biệt, rút phép… để buộc các ngân hàng phải
tuân thủ các quy định an toàn. Bên cạnh việc thực hiện các quy định của các cơ quan quản
lý cấp trên, mỗi ngân hàng đều có chính sách đảm bảo an toàn riêng, phù hợp với từng giai
đoạn cụ thể. Nguồn tiền của ngân hàng chủ yếu là tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân,
ngân hàng phải có nghĩa vụ chi trả nhanh chóng. Bất cứ một sự chậm trễ nào đều có thể
gây ra những bật lợi cho ngân hàng. Khách hàng gửi tiền tuy không có khả năng kiểm soát
hoạt động của ngân hàng như những cơ quan quản lý, song họ lại rất nhạy cảm với những
thông tin về hoạt động cũng như tư cách đạo đức của người quản lý ngân hàng (cả chính
thức và không chính thức) và họ có quyền lựa chọn gửi tiền hoặc rút tiền cũng luôn yêu cầu
sự nhanh chóng và kịp thời. Điều đáng cân nhắc là nhiều nhu cầu của các loại khách lại
mâu thuẫn với yêu cầu an toàn của ngân hàng, ví dụ khách hàng vay tiền thường không

muốn phải thế chấp, thường yêu cầu các thủ tục phải nhanh, gọn…
Do vậy ngân hàng luôn phải tính toán các nhu cầu của khách hàng và phải đáp ứng
những nhu cầu hợp pháp đó một cách tốt nhất. Mỗi ngân hàng cũng phải xây dựng chính
sách và quy chế kiểm soát để đảm bảo an toàn như an toàn kho tiền mặt, tín dụng, các tài
sản khác.

Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
17


CHƢƠNG II: NGUYÊN LÝ HÌNH THÀNH VÀ CẤU TRÚC CỦA
CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CHỈ TIÊU

1. Nguyên lý hình thành
Ngân hàng quan tâm tới tính thanh khoản của mỗi tài sản và của danh mục tài
sản. Tính thanh khoản của mỗi tài sản chính là khả năng chuyển tài sản thành tiền,
được đo bằng thời gian và chi phí. Thời gian và chi phí càng cao tính thanh khoản
của tài sản càng thấp và ngược lại. Tính thanh khoản của tài sản phản ánh rủi ro (tổn
thất) khi chuyển tài sản thành tiền trong khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp một tài sản muốn bán nhanh (thời gian chuyển thành tiền
ngắn) thì chi phí (tức tổn thất) lại lớn. Điều này cho thấy tính thanh khoản của một
tài sản phụ thuộc vào nhiều nhân tố, và có thể thay đổi theo thời gian giữa các vùng,
các nước. Vì vậy, những tài sản nào đáp ứng cà hai yêu cầu: thời gian ngắn và chi
phí thấp mới được xếp vào tài sản thanh khoản.
Ngân hang nắm giữ danh mục tài sản với tính thanh khoản khác nhau. Kết cấu
tài sản với tính chất thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của nhóm tài
sản hoặc tổng tài sản. Tính thanh khoản của các danh mục tài sản được đo bằng tỷ lệ
của các tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản . Tỷ lệ này càng cao, tính

thanh khoản của tổng tài sản càng lớn
Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ được hình thành dựa trên tài sản có của ngân hàng
như ngân quỹ và tiền gửi tại các ngân hàng khác. Đây là những tài sản có tính thanh
khoản cao nhưng không sinh lợi cho ngận hàng.
Trạng thái ngân
quỹ
=
Ngân quỹ + Tiền gửi tại các ngân hàng khác
Tổng tài sản

Thành phần chỉ tiêu gồm:
Ngân quỹ
Tiền gửi tại các ngân hang khác
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
18

Tổng tài sản
2. Cấu trúc của các yếu tố chỉ tiêu
2.1 Tổng tài sản (Tài sản có)
2.1.1 Khái niệm
Tổng tài sản là những tài sản vật chất cụ thể tồn tại dưới những hình thức khác
nhau như tiền mặt tại két ngân hàng, tiền đang thu, chứng khoán các loại, cho vay
các loại và các trang thiết bị cơ sở vật chất của ngân hàng. Những tài sản này được
ngân hàng phân bổ theo những tiêu thức quản lý cụ thể và phù hợp sẽ được trình bày
cụ thể ở những phần sau.
Tài sản có (tài sản nội bảng) là những tài sản hình thành trong sử dụng các nguồn
vốn của ngân hàng. Ở góc độ tiếp cận khác, tài sản có là kết quả của việc sử dụng
vốn ngân hàng, là những tài sản được hình thành từ các nguồn vốn của ngân hàng

trong quá trình hoạt động. Một nguồn vốn có thể hình thành nên nhiều tài sản có và
ngược lại. Danh mục tài sản có của ngân hàng bao gồm: tài sản ngân quỹ, tín dụng,
đầu tư (chứng khoán) và các tài sản khác đảm bảo ngân hàng hoạt động an toàn và
có lãi. Căn cứ vào hình thức tồn tại Tài sản có của ngân hàng có thể tồn tại dưới
dạng tài sản thực, tài sản tài chính và tài sản vô hình. Còn căn cứ vào nguồn gốc
hình thành, tài sản của ngân hàng được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở
hữu, vốn tích lũy trong quá trình kinh doanh, vốn huy động và và đi vay…Căn cứ
vào vị trí trong bảng tổng kết tài sản, tài sản của ngân hàng bao gồm tài sản nội bảng
và tài sản ngoại bảng
Tài sản Có = Vốn ngân hàng + Tài sản Nợ

2.1.2 Thành phần cấu thành tổng tài sản
2.1.2.1 Tài sản ngân quỹ
Tài sản ngân quỹ là khoản tài sản có tính thanh khoản cao mà ngân hàng phải
duy trì để đảm bào an toàn trong hoạt động kinh doanh, bao gồm ngân quỹ (tiền mặt
tại quỹ) và tiền gửi tại các ngân hàng khác.
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
19

Đây là những tài sản không sinh lời, được duy trì chủ yếu để đáp ứng nhu cầu
chi trả cho khách hàng gửi tiền, chi phí cho hoạt động của ngân hàng, bù đắp thiếu
hụt trong thanh toán bù trừ và thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân
hàng nhà nước.
Bình quân hiện nay, tài sản ngân quỹ chiếm khoảng 10% trong tổng tài sản Có
của các ngân hàng, và trong tương lai, khoản mục này có xu hướng ngày càng giảm
do sự phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt, trình độ quản lý của ngân
hàng…
2.1.2.2 Đầu tƣ chứng khoán

Các ngân hàng thương mại mua các chứng khoán vì các mục đích:
Ổn định hóa thu nhập
Bù trừ rủi ro tín dụng trong danh mục cho vay
Cung cấp nguồn thanh khoản dự phòng cho ngân hàng
Giúp cho ngân hàng giảm số thuế phải nộp nhưng vẫn tăng thu nhập, đặc biệt
là trái phiếu đô thị (là loại trái phiếu được miễn thuế thu nhập)
Tạo ra sự phòng vệ cho ngân hàng nhằm ngăn ngừa sự thiệt hại khi rủi ro
xuất hiện…
Nhìn chung, các ngân hàng có hai mục đích chính khi đầu tư các chứng khoán:
đầu tư vì thanh khoản và đầu tư vì lợi tức.Tất cả các chứng khoán đều đem lại thu
nhập cho ngân hàng. Tùy theo mục đích hoạt động mà các ngân hàng đầu tư vào loại
chứng khoán cụ thể. Với các ngân hàng có các khoản thu nhập từ tín dụng tốt,
không chịu áp lực phải tìm kiếm các khoản thu nhập khác thì họ thường lựa chọn
việc đầu tư vào các chứng khoán Chính phủ. Việc đầu tư ngắn hạn vào các chứng
khoán Chính phủ thường có mức lãi suất thấp nhưng không phải chịu rủi ro tín dụng
và ít rủi ro về lãi suất so với các chứng khoán dài hạn khác. Hơn nữa, các chứng
khoán Chính phủ có tính linh hoạt cao. Chúng có thể dễ dàng được bán lại trên thị
trường giúp cho ngân hàng giải quyết các vấn đề thanh khoản. Với các ngân hàng
chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, họ thường đầu tư vào các chứng khoán công ty,
Phân tích Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ

GVHD: Th.S Nguyễn Xuân Trường Nhóm 1 lớp VB2- TCNH
20

có kỳ hạn dài vì đây là các chứng khoán có lãi suất cao. Như vậy, ngân hàng phải
chấp nhận rủi ro lớn hơn và khó có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Ngoài ra, đầu tư vào chứng khoán cũng tạo điều kiện phân tán rủi ro. Đối với các
ngân hàng hoạt động trong một phạm vi một địa phương nhất định thường các
khoản mục tín dụng bị bó hẹp trong một số lĩnh vực cho nên rủi ro sẽ rất cao khi
lĩnh vực đó suy thoái. Vì vậy đầu tư vào chứng khoán sẽ chuyển một phần vốn phân

tán sang lĩnh vực khác giúp ngân hàng có thể vượt qua thời kỳ khó khăn.
Các công cụ của thị trƣờng tiền tệ
Những công cụ này có các đặc điểm chung như sau: lợi tức thấp, ngày đáo hạn
dưới một năm, dễ mua bán trên thị trường (tính khả mại cao), mức độ rủi ro của
chứng khoán thấp. Các công cụ này bao gồm:
Trái phiếu ngắn hạn của các công ty, xí nghiệp
Trái phiếu đô thị (tría phiếu chính quyền địa phương)
Các hối phiếu, kỳ phiếu thương mại.
Tín phiếu ngân hàng Nhà nước
Chứng chỉ tiền gửi (CD) có thời hạn dưới một năm.
Các công cụ của thị trƣờng vốn
Có đặc điểm chung là lợi tức cao, thời gian đáo hạn dài (trên 1 năm), tính khả
mại thấp, có nhiều rủi ro như:
Trái phiếu chính phủ có thời hạn trên 1 năm
Trái phiếu đô thị có thời hạn trên 1 năm
Kỳ phiếu ngân hàng có thời hạn trên một năm
Trái phiếu dài hạn của các công ty, xí nghiệp
Công trái
2.1.2.3 Tín dụng
Tín dụng là khoản mục đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng chiếm 2/3 tồng
thu nhập cho ngân hàng và là khoản mục chứa đựng rất nhiều rủi ro, mà qua đó có
thể đánh giá được trình độ và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong

×