Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

[Tiểu luận] VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC NÀY TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.85 KB, 10 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thế giới đã xảy ra biết bao nhiêu những biến động to
lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới ở Việt Nam vẫn giành
được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm phục. Trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới của nước ta đang đứng trước những thời
cơ và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, phán đoán xử lý kịp thời mới
giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế.
Để đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu tiên và
cấp thiết nhất đối với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa”
chuyên” từ Trung ương đến cơ sở.. Vì thế hơn lúc nào hết, chúng ta phải trở lại
nghiên cứu một cách thấu đáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ để vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng hiện nay.
Đó cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới
thời kỳ “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Cán bộ là khâu quyết định sự thành bại
của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dầy
cơng đào tạo, huấn luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng. Đồng thời để lãnh đạo thực
hiện thắng lợi cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vai trị của cán bộ và công tác cán bộ,
nâng cao năng lực lãnh đạo là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa rất căn bản và
lâu dài trong giai đoạn hiện nay.
PHẦN II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN
BỘ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC NÀY
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Những luận điểm cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ
1.1. Khái niệm cán bộ và tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng theo
Tư tưởng Hồ Chí Minh

1



Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu
dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê
liệt. Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong
nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được” (2). Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ chính là phẩm chất đạo
đức. “Đạo đức là gốc”, người cán bộ phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, mới có thể trở thành người cán bộ chân chính, “Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(3).
Cán bộ: “Phải tìm học hỏi cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo... Phải siêng năng,
tiết kiệm”; đối với người: “Thân ái với nhau, nhưng không che đậy những điều dở...
Không nên ghen ghét đố kỵ”; đối với công việc: “Phải nghĩ cho kỹ... Phải có kế
hoạch”; đối với nhân dân: “Hiểu nguyện vọng của dân, sự cực khổ của dân. Hiểu
tâm lý của dân, học sáng kiến của dân... Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin,
phải làm gương cho dân”; đối với đoàn thể: “Phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh
của Đoàn thể. Phải tuyệt đối trung thành” (4). Cùng với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh u cầu cán bộ phải có năng lực (tài). Người nói: “Phải
có chính trị trước rồi có chun mơn; chính trị là đức, chun mơn là tài”... Mỗi ngày
cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân; “phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích
của cá nhân lại sau”(5); “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Khơng tham sung
sướng. Khơng ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng
bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là: ham học, ham làm, ham tiến bộ”(6).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý bệnh “cá nhân chủ nghĩa”, vì nó là một
thứ “vi trùng rất độc”, nó là thứ “bệnh mẹ”, “do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy
hiểm”(7). Người đặc biệt phê phán những cán bộ “mỏng đức, kém tài”, thường có
biểu hiện “Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là
trộm). Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham vật úy
lạo, gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh úy tử”(8).
1.2. Vai trò của cán bộ


2


Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” (9);
“Cán bộ là tiền vốn của Đồn thể”. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách,
cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì
hỏng việc, tức là lỗ vốn”(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”(11), Người nhấn mạnh: “Cán bộ tốt, việc gì
cũng xong”(12).
Cán bộ phải đi đầu trong mọi công việc, từ chỉ đạo đến vận động, tập hợp lực
lượng, triển khai thực thi nhiệm vụ. Để hồn thành nhiệm vụ tốt nhất, địi hỏi cán bộ
phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, nhất là về lý luận chính
trị, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế; phải tự nguyện, tự giác, xem
công tác học tập cũng là nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho
được, do đó mà tích cực chủ động hồn thành kế hoạch học tập.
1.3. Những luận điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
1.3.1. Công tác lựa chọn cán bộ
Đây là khâu đầu tiên và rất quan trọng: “khâu chọn giống, nếu giống tốt ắt
cây sẽ tốt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn: “... nuôi dạy cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi
một người có ích cho cơng việc chung của chúng ta” (13). Việc lựa chọn cán bộ phải
dựa theo các tiêu chí: “a) Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong
công việc, trong lúc đấu tranh. b) Những người liên lạc mật thiết với dân chúng,
hiểu biết dân chúng. c) Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong
những hồn cảnh khó khăn... Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không
hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết,
gan góc khơng sợ khó khăn. d) Những người ln ln giữ đúng kỷ luật”(14).
1.3.2. Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng”. Huấn luyện cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, nghề nghiệp, theo phương

3


châm làm việc gì học việc ấy; huấn luyện chính trị (gồm cả thời sự và chính sách);
huấn luyện văn hóa, khoa học, kỹ thuật; huấn luyện lý luận... Người chỉ rõ, huấn
luyện phải thiết thực và chu đáo, nghĩa là phải nắm được nhu cầu để huấn luyện.
Không được “hữu danh vô thực”, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực. Phải xem
xét, nghiên cứu mục đích huấn luyện ai, ai huấn luyện, huấn luyện như thế nào, phải
kiểm tra ra sao và bài học cần áp dụng là gì... Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những
khuyết điểm trong huấn luyện cán bộ, như lý luận và thực tế khơng ăn khớp, dạy
chính trị thì mênh mơng mà không thiết thực, học rồi không dùng được, huấn luyện
mà hiệu quả ít, khơng biết q chất lượng hơn số lượng, nên khuyết điểm là mở lớp
quá đông... Người căn dặn: mở lớp nào cho ra lớp ấy. Lựa chọn người dạy và người
học cho cẩn thận. Đừng mở lớp lung tung. 
1.3.3. Cơng tác xem xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, khi xem xét, đánh giá cán bộ phải thực sự
khách quan, phải hiểu cán bộ. Ngồi phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức, thì việc
đánh giá năng lực chun mơn phải dựa trên kết quả cơng việc. Vì vậy, cách xem
xét cán bộ, quyết khơng nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa... Quá khứ, hiện tại
và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”(15).
Đánh giá cán bộ là việc rất hệ trọng, cho nên phải có cái nhìn tồn diện, bao
qt, tổng thể về q trình rèn luyện, phấn đấu của từng cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Xem xét cán bộ, khơng chỉ xem ngồi mặt mà cịn phải xem tính
chất của họ. Khơng chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, tồn cả
cơng việc của họ...”(16). Để đánh giá đúng cán bộ, phải căn cứ theo các tiêu chí và
kết quả thực tiễn cơng tác của cán bộ.
Về việc bố trí, sử dụng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải bố trí

“người nào việc nấy”, “Phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng”, “Phải khéo dùng
cán bộ”(17). Người đưa ra quan điểm dùng cán bộ: “Mình phải có độ lượng vĩ đại thì
mới có thể đối với cán bộ một cách chí cơng vơ tư, khơng có thành kiến, khiến cho
cán bộ khỏi bị bỏ rơi; Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gụi những người
mình khơng ưa; Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí

4


còn kém, giúp cho họ tiến bộ; Phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà
cách xa cán bộ tốt; Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lịng gần
gụi mình” (18). Việc sử dụng, bố trí cán bộ phải bảo đảm tính kế thừa và phát triển
giữa cán bộ trẻ, cán bộ mới với cán bộ lâu năm; phải chú ý tạo nguồn cán bộ kế cận.
Sử dụng cán bộ là mắt khâu có ý nghĩa quyết định đến sinh mạng chính trị
của cán bộ và hiệu quả cơng việc, chính vì vậy cần thận trọng, kỹ càng, nếu chủ
quan thì sẽ rất dễ mắc sai lầm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra những sai lầm
mà Người gọi là “những chứng bệnh”, trong đó phổ biến là căn bệnh biệt phái, cục
bộ, địa phương, hẹp hịi. Vì những bệnh đó, kết quả những người kia đã làm bậy,
mình cũng cứ bao dung, che chở, bảo hộ, khiến cho chúng càng ngày càng hư hỏng.
Đối với những người chính trực thì bới lơng tìm vết để trả thù. Như thế, cố nhiên là
hỏng cả công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo”(19).
1.3.4. Về chính sách cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, để làm tốt chính sách cán bộ, phải yêu thương
cán bộ: “Nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu
là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm. Là giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn
sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi đau ốm thì chăm nom, gia đình họ
khỏi khốn quẫn... Thương yêu là luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ
thấy khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay...” (20). Đối với cán bộ phạm sai lầm,
khuyết điểm: “... phải giải thích rõ ràng, làm cho họ tự trơng thấy, tự nhận rõ sai lầm
đó, làm cho họ vui lịng sửa đổi, chứ khơng phải bị cưỡng bức mà sửa đổi”(21).

2. Thực trạng về công tác cán bộ hiện nay
Tính đến tháng 3/2017, tổng số cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta là
2.726.917 người, trong đó: Cán bộ, cơng chức là 611.069 người; viên chức là
1.983.981 người; hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP là 131.867 người(22).
Trình độ lý luận chính trị(23), chun mơn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ... và
năng lực, kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều
tiến bộ, cơ bản bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ 3 Khóa VIII. Số cán bộ có trình độ sau đại học tăng lên rõ rệt, riêng trong 5

5


năm từ 2009 đến 2014, số người có trình độ đại học và trên đại học tăng gần 2 lần,
từ 4,4% lên 7,3%(24). Số lượng cán bộ được quy hoạch khá dồi dào, bảo đảm sự
chuyển tiếp giữa các thế hệ. Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng, cấp ủy các cấp đổi mới
khoảng 40%; Ban Chấp hành Trung ương đổi mới cao hơn (Khóa IX là 42%, Khóa
X là 54,7%, Khóa XI 47%, Khóa XII là 48%). Nhìn chung, đa số cán bộ, cơng
chức, viên chức có lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức trong sáng, lối sống
giản dị, gương mẫu, có ý thức rèn luyện, phấn đấu, hịan thành tốt nhiệm vụ được
giao, năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm
việc trong môi trường quốc tế.
Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy
tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược(25) có tư duy đổi mới, có năng lực hoạch định đường
lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực
lượng vũ trang được rèn luyện thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn
sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có
nhiều đóng góp tích cực cho đất nước(26). Một số lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà
nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả,
đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước những năm qua(27).
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đơng nhưng chưa

mạnh(28). Cơ cấu giữa các ngành nghề, lĩnh vực(29), vùng miền chưa thật sự hợp lý;
tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ còn xảy ra ở nhiều nơi; thiếu sự liên thông
giữa các cấp, các ngành(30); tỷ lệ cán bộ trẻ (31), cán bộ nữ(32), cán bộ dân tộc thiểu
số(33) chưa đạt mục tiêu đề ra. Độ tuổi bình quân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở một
số ban, bộ, ngành, địa phương và trong lực lượng vũ trang còn cao (34). Số lượng sĩ
quan, kể cả cấp tướng trong lực lượng vũ trang tăng nhanh (35). Thiếu những cán bộ
lãnh đạo, quản lý, quản trị giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên một số
lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học trên tổng dân số cịn thấp (36), tình trạng
chạy theo bằng cấp, học hàm, học vị cịn nhiều; các cơng trình khoa học, dự án
đóng góp vào sự phát triển đất nước chưa xứng với học hàm, học vị. Năng lực của
đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt cịn hạn chế; một bộ phận cán bộ thiếu tính

6


chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ và
kỹ năng giao tiếp, làm việc trong mơi trường quốc tế cịn yếu; chưa phát huy tốt
tiềm năng cán bộ; năng suất lao động, hiệu quả làm việc thấp (37); khơng ít cán bộ trẻ
cịn thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó
có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm
vụ, khơng ít cán bộ vi phạm kỷ luật Đảng(38) và bị xử lý theo pháp luật.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí;
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thối hóa, biến chất, khơng làm trịn bổn phận trước
Đảng, trước nhân dân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa gương mẫu thực hiện,
thiếu tinh thần trách nhiệm, vô cảm trước những khó khăn của người dân, cục bộ
địa phương. Tình trạng cán bộ, đảng viên thối hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu
cực... còn diễn biến phức tạp, chậm được khắc phục; một số tính đảng kém, bộc lộ
tham vọng cá nhân, kèn cựa địa vị, gia trưởng, độc đoán, thiếu ý thức tổ chức kỷ
luật, chối bỏ trách nhiệm khi xảy ra sai phạm, không muốn từ chức khi khơng hồn
thành nhiệm vụ được giao; tùy tiện, bất chấp nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; dao

động, mất lịng tin, sa vào chủ nghĩa cá nhân, mê tín, dị đoan; có biểu hiện suy thóai
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác cán bộ trong thời kỳ mới
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã thơng
qua Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Nghị quyết đã xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo:
Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác
cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng,
khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát
triển lâu dài, bền vững.

7


Hai là, thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
trực tiếp, tồn diện cơng tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính
trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi
trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám
nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân cơng, phân cấp gắn với giao
quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
Ba là, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi
mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải
xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và
phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện tồn tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí,

đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Bốn là, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường
lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đồn kết rộng rãi trong cơng tác
cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu
chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu
dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là
gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa
thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan
tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh
mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ
quan truyền thơng, báo chí trong cơng tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.

8


Nghị quyết xác định 7 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ ở nước ta thời gian tới, cụ thể:
Một là, nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp
ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.
Bốn là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ.
Năm là, kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy
chức, chạy quyền.

Sáu là, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Bảy
là, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.
Nghị quyết cũng xác định hai trọng tâm để tập trung thực hiện những nhiệm
vụ, giải pháp nêu trên là:
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả cơng tác cán bộ;
chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc
đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người
đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Nghị quyết cũng chỉ ra 5 đột phá để tập trung thực hiện:
- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa
chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so
sánh với chức danh tương đương.
- Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt
tình trạng chạy chức, chạy quyền.

9


- Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện
không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện.
- Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn
đấu, tồn tâm, tồn ý với cơng việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình
đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài.
- Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân
dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
PHẦN III: KẾT LUẬN

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ để xây dựng
được đội ngũ cán bộ có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, trước hết các cơ quan làm công tác tổ
chức cán bộ phải quán triệt các quan điểm của Người về: vị trí cán bộ và cơng tác
cán bộ trong thực thi nhiệm vụ của mình. Đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
phải xác định rõ tiêu chuẩn cán bộ để lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng
họ sao cho hợp lý. Khi sử dụng cán bộ cần phải: “hiểu biết cán bộ”, “khéo dùng cán
bộ”, “cất nhắc cán bộ”, “thương yêu cán bộ” và “phê bình cán bộ”. Tăng cường
cơng tác kiểm tra, giám sát để giúp đỡ. Đội ngũ cán bộ có thể hồn thành tốt nhiệm
vụ được giao, đồng thời cũng có điều kiện phát hiện sớm những sai phạm, khuyết
điểm của cán bộ để uốn nắn, xử lý kịp thời.
Chúng ta cần nắm chắc tư tưởng của Người về cán bộ và công tác cán bộ để
thực sự là ánh sáng soi đường, là đích cần vươn tới và là cẩm nang của những người
làm cơng tác cán bộ. Tóm lại, qn triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ là nhiệm vụ hết sức
quan trọng góp phần đảm bảo thành công của sự nghiệp cách mạng nước ta trong
thời kỳ mới. Đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, các cấp, các ngành cần
đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
ngày càng sâu rộng chắc chắn sẽ tạo ra một động lực mới sẽ thúc đẩy toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta tiến lên giành những thắng lợi mới to lớn hơn nữa.

10



×