Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.46 KB, 10 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang
tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do
những sai lầm trong nhận thức về mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế
nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp.
Muốn thốt khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế. Sau đại
hội Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới: phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường cho ta thấy được tính khách quan và sự
cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của nhà nước ở nước ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt
được của Việt nam. Mặt khác, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh tế
nước nhà, đồng thời thấy được vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh
tế thị trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến nhanh lên nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
PHẦN II: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
1. Quá trình nhận thức của Đảng về phát tiển nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam và sự cần thiết khách quan hình thành và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1. Khái niệm Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị
trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường
chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào,
và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do
1



những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức
sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao
nhất của kinh tế hàng hoá.
Nền kinh tế thị trường có khả năng “tự động” tập hợp trí tuệ và tiềm lực của
hàng triệu con người hướng tới lợi ích chung của xã hội, do đó nó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của một xã hội. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là
quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học - công nghệ mới
và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị
trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học kĩ thuật, của lực lượng sản xuất.
1.2. Quá trình nhận thức của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Hội nghị Trung ương lần thứ VI khố VI (1986) đã chỉ rõ: “Chính sách
kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất
nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho
mọi người làm ăn theo pháp luật”.
- Đại hội VII (1991) nêu rõ: “Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực:
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
- Đại hội VIII (1996) nhấn mạnh: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không thể tách rời việc xây dựng đồng bộ và
vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa…”.
- Đại hội IX (2001), tư duy kinh tế của Đảng bắt đầu chuyển từ nhận thức thị
trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang nhận thức thị trường là
một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) xác định
2



thời đại và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời bổ sung và phát triển tư
duy lý luận xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục có những bổ sung, phát triển mới và
tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
1.3. Sự cần thiết khách quan hình thành và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Cơ chế cũ là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đó là cơ chế mà ở đó Nhà
nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện ở sự chi
tiết hoá các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ
một trung tâm. Các doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước từ đó
lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các cơ quan nhà nước can thiệp
quá sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại
không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình, từ đó làm cho các
doanh nghiệp thụ động không phát huy được tính sáng tạo, các quan hệ kinh tế bị
hiện vật hố. Quan hệ hàng hố tiền tệ chỉ mang tính hình thức, bỏ qua hiệu quả
kinh tế, quản lý kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp. Bộ máy
quản lý cồng kềnh, nhiều khâu trung gian nhưng kém năng lực.
Cơ chế tập trung bao cấp đã góp phần cho thắng lợi giải phóng đất nước,
nhưng sau khi điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi. Đặc biệt khi trình độ phát triển
kinh tế đã nâng cao lên rất nhiều, cơ cấu càng phức tạp thì những khuyết điểm bên
trong nền kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ. Cuộc chạy đua theo mục tiêu chế độ
quốc hữu hoá làm loại bỏ hoặc hạn chế chế độ kinh tế phi quốc hữu, kiềm chế cạnh
tranh nên khó làm sống động nền kinh tế.
Từ những tác động tích cực mà Hội nghị Trung ương lần thứ VI khố VI đã
chỉ rõ: “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về

kinh tế, đảm bảo cho mọi người làm ăn theo pháp luật”. Điều đó đặt ra một yêu cầu
3


khách quan là phải đổi mới cơ chế kinh tế, thay thế cơ chế mới vào cơ chế cũ. Vì
vậy, chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan.
1.4. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế
Cơ chế vận hành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam.
Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn
doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện
rõ các mặt cơ bản:
- Một là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân là nhân tố đóng vai trị “Nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo
dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp
hoạt động theo cơ chế thị trường, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng
xã hội; can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế để đạt được các mục tiêu đặt ra.
- Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố “trung gian” của nền kinh tế, đóng vai
trị “trung gian” giữa nhà nước và doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng nước ta
quản lý nền kinh tế - xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát
huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ
lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
2. Thực trạng và giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1. Thực trạng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1.1. Thành tựu đạt được
- Qua hơn 30 năm đổi mới, việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển, góp phần

quan trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia có thu
nhập trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an sinh xã hội,
4


không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ mơi trường sinh thái, củng cố
quốc phịng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế.
- Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng
đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành,
có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu
tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị
trường khu vực và thế giới. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thơng
thống hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị
trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và nhận được
thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động
của Nhà nước từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Về chế độ sở hữu: Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức
sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế,
nhiều tổ chức kinh doanh. Do đó khơng chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế
thuộc chế độ công hữu, mà cịn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế
thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn đều có thể tham

gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng.Việc xác định kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường cuả các nước khác.

5


- Về quan hệ phân phối: Nước ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu
nhập: Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực và sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trị nịng cốt, đi
đơi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý.
Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu do đó chế độ phân phối cũng
có đặc trưng riêng, phân phối theo lao động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội.
Mà thu nhập của người lao động không phải chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà
nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế. Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, kết hợp chặt chẽ những
nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường.
2.1.2. Hạn chế
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách cịn chồng
chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất qn; cịn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo
được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
phát triển.
- Hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế cịn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa
bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính cịn chậm. Mơi trường đầu
tư, kinh doanh chưa thực sự thơng thống, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao.
Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Quyền sở hữu tài sản chưa
được bảo đảm thực thi nghiêm minh.

- Một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành cịn nhiều
vướng mắc, kém hiệu quả. Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa được xác
lập thật sự theo cơ chế thị trường.
- Thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội cịn nhiều bất cập.
Bất bình đẳng xã hội, phân hố giàu - nghèo có xu hướng gia tăng. Xố đói, giảm
nghèo cịn chưa bền vững.
6


- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực, phân cơng, phân cấp cịn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước chưa đáp ứng
kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu quả
chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả
chưa cao, thiếu chủ động trong phòng ngừa và xử lý tranh chấp thương mại quốc tế.
2.1.3. Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và
chủ quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, đặc biệt là do:
- Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ
rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề.
- Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
- Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết
liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm.
- Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống
chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan
liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực,
hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
2.2. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta hiện nay
2.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy và nhận thức về thể chế kinh tế thị trường
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời
tiếp tục nghiên cứu để làm rõ nội dung mơ hình kinh tế tổng qt về phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế
tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp

7


quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
- Cần phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ 3 bộ phận cấu thành của thể chế kinh
tế có quan hệ hữu cơ: (1) Hệ thống pháp luật, quy tắc, chuẩn mực xã hội điều chỉnh
hành vi và giao dịch kinh tế; (2) Các thể chế về chủ thể và các yếu tố, các loại thị
trường trong nền kinh tế; (3) Cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh và xử lý
vi phạm trong nền kinh tế.
2.2.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
- Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, tiếp tục hoàn
thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự,
tranh chấp kinh tế.
- Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
trên cơ sở đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước khơng cần nắm giữ theo
ngun tắc thị trường. Hồn thiện thể chế định giá tài sản, kể cả đất đai, tài sản vơ

hình trong cổ phần hóa. Mở rộng chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự
nghiệp công về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính.
- Tiếp tục đổi mới kinh tế hợp tác và khu vực hợp tác xã, phát triển, nhân
rộng các hợp tác xã kiểu mới, nhất là trong nơng nghiệp, tăng cường chính sách thu
hút các nguồn lực từ bên ngoài, chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu
tư nước ngồi có trình độ quản lý, cơng nghệ hiện đại, có vị trí trong chuỗi giá trị
tồn cầu, có liên kết với các doanh nghiệp trong nước trong phát triển công nghiệp
hỗ trợ.
2.2.3. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; đẩy
mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính, nhất là tái cơ cấu thị trường chứng khoán, thị
8


trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu của nền kinh tế.
Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ giá, các cơng cụ của Ngân hàng Nhà
nước theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
2.2.4. Hồn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ cơng bằng
xã hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát triển
và bảo vệ mơi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng nghiên cứu, ban
hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát triển hệ thống
an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội
và người dân.
2.2.5. Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy
hoạch và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương
Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của
từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính.
Hồn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, vừa bảo
đảm tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo
của địa phương. Đổi mới hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
và địa phương.

2.2.6. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ động hội nhập quốc tế, tham gia và khai thác có hiệu quả lợi ích kinh tế
các hiệp định tự do hóa kinh tế song phương và đa phương, gắn với xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Hồn
thiện thể chế phịng ngừa và giảm thiểu tranh chấp quốc tế; sớm hoàn thiện tương
trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
2.2.7. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội
- Tiếp tục điều chỉnh, hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động
của các cấp ủy, chính quyền trong phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
9


- Nhà nước tập trung ổn định kinh tế vĩ mơ; thiết lập khung khổ pháp luật,
chính sách và bộ máy thực thi bảo đảm các loại thị trường liên tục được hồn thiện
và hoạt động có hiệu quả.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, tạo mơi trường
đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo
quy định của Hiến pháp, pháp luật. Bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của các tổ
chức chính trị, xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong xây dựng thể chế kinh tế và phát
triển kinh tế - xã hội.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Trải qua hơn 30 năm đổi mới kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển lớn
trong cơ cấu, hướng đi. Thành tựu chúng ta đạt được thật đáng kể nhưng chúng ta
cần phải cố gắng thật nhiều, cần phải có các bước đột phá để bứt phá vươn lên. Bao
giờ Việt Nam mới có một nền “kinh tế thị trường mang màu sắc Việt Nam ”. Đó là
câu hỏi lớn đặt ra cho cả một đất nước, cho thế hệ hôm nay và mai sau. Phát triển

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường hiện thực và tối ưu
đối với dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, những thiết kế cụ thể để mô hình đó hoạt
động hiệu quả cịn là thách thức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Song, trên
giác độ nhận thức luận, khơng cịn nghi ngờ gì về con đường đã chọn. Vấn đề là
kiên định mục đích, linh hoạt trong phương thức thực hiện, coi mục tiêu phát triển
bền vững và ưu tiên lợi ích của nhân dân lao động là những tiêu chuẩn tối cao cho
các lựa chọn chính sách của mình.

10



×