Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Kinh tế tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.92 KB, 24 trang )

A-ĐẶT VẤN ĐỀ
Lồi người đã trải qua nhiều hình thức tổ chức hình thái kinh tế – xã hội
khác nhau. Kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa
(kinh tế hàng hóa giản đơn của người dân, thợ thủ công… chuyển sang kinh tế
hàng hóa tư bản chủ nghĩa ). Nền kinh tế hàng hóa phát triển ngày càng mạnh
mẽ với đỉnh cao là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường từ sản
xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường, kích thích được sức lao động và
khả năng sáng tạo của người lao động.
Thời điểm miền Bắc giành độc lập đã trở thành mốc son lịch sử đánh dấu
sự kiện trọng đại của đất nước ta khi Đảng Cộng sản quyết định đưa Việt Nam
đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Khi thống nhất đất nước- 30/4/1975 cả nước ta bước vào thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng vấp phải sai lầm là duy trì q lâu nền kinh tế kế
hoạch hố tập trung quan liêu, bao cấp làm cho nền kinh tế những năm đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hố. Mơ hình kinh
tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy q trình tích tụ và tập
trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hố cao;
đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội
ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển
của đất nước.
Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền
kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân cơng lao động quốc tế. Đó là con đường
đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của
đất nước vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm


năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, cơng nghệ của nước ngồi, giải
phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng
trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua. Đảng Cộng Sản
Việt Nam khẳng định rằng: “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa
1


chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể
hiện tinh thần dân chủ về kinh tế bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo
pháp luật”.
Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Vệt Nam, Đảng Cộng
Sản Việt Nam xác định: nền kinh tế trong thời kỳ qua độ lên chủ nghĩa xã hội
Việt Nam có 6 thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu
chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi. Trong đó khu vực kinh tế tư nhân là một nhân tố mới của nền kinh tế
chuyển đổi ở nước ta, được xác định là một giai đoạn phát triển cao của kinh tế
hàng hoá. Trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản là phương thức sản xuất đầu tiên biết
tổ chức nền kinh tế theo mơ hình kinh tế thị trường và đã đạt được những thành
công không thể phủ nhận. Ngày nay, nền kinh tế thị trường được xác định là
thành tựu chung của nhân loại. Thực tế cho thấy chưa có nước nào thành cơng
trong phát triển nền kinh tế thị trường lại thiếu khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế
tư nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền kinh
tế thị trường. Ngược lại nền kinh tế thị trường chính là mơi trường hoạt động và
phát triển của các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân.

2


B-GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I-NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN

1.Quan niệm về kinh tế tư nhân,đặc điểm của kinh tế tư nhân.
1.1-Quan niệm về kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức sau đây:
+ Kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình, khơng th
mướn lao động làm thuê.
+ Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu
sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào
sức lao động và vốn của bản thân và gia điình. Quy mơ vốn đầu tư và lao động
nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc công ty cổ phần.
+ Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức
lao động làm thuê.
1.2-Đặc điểm của kinh tế tư nhân
a. Kinh tế cá thể và tiểu chủ
Thành phần kinh tế này tồn tại gắn với hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất của các chủ kinh doanh cá thể hoặc các tiểu chủ. Hiện nay ở nước ta, thành
phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ
phận đơng đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài. Trong đó chủ
hộ kinh doanh tồn quyền làm chủ các q trình sản xuất, quản lý, phân phối.
b. Kinh tế tư bản tư nhân
Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình
thức các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
mà phần vốn của tư nhân chiếm tỷ lệ tương đối. Trong thành phần kinh tế này
tồn tại nhiều hình thức phân phối. Với người lao động: phân phối theo quyền sở
hữu sức lao động và trả công theo giá trị sức lao động. Với chủ doanh nghiệp
( chủ tư bản tư nhân) phân phối theo tài sản và vốn, phân phối theo năng lực
kinh doanh, phân phối theo hiệu quả kinh tế.
2.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong thời kì quá độ sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều
3


trình độ phát triển thuộc nhiều phương thức sản xuất khác nhau đan xen nhau,
tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu các hình thức kinh tế thời kỳ quá độ. Trong đó
các hình thức kinh tế tư nhân đã và sẽ đóng vai trị rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế. Lịch sử phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
cũng như hơn 70 năm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chứng minh điều đó.
Sau mấy trăm năm phát triển, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
vẫn chủ yếu là nền kinh tế tư nhân; còn sau hơn 70 năm thử xây dựng một nền
kinh tế gồm hai thành phần chi phối là nhà nước và tập thể, phần lớn các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây phải trở lại với kinh tế tư nhân. Trong công cuộc đổi
mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam, trong khi chủ trương xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã coi trọng sự phát triển của kinh tế tư
nhân và điều đó đã đem lại những thành cơng đáng kể.Có thể nêu ra một sự
kiện: chỉ với Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về khốn sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong chính sách đổi mới quản lý sản xuất nơng nghiệp, trao lại
quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cho kinh tế hộ nông dân đã đủ sức gây nên
một sự đột biến kỳ diệu mà ít người hình dung nổi là Việt Nam từ một nước
luôn phải nhập khẩu lương thực chỉ sau hơn một năm đã trở thành một trong
những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn còn
nhiều tồn tại và vướng mắc.Trong các cấp lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước
vẫn còn băn khoăn, nghi ngại về sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân nên giữa
chủ trương, chính sách và việc tổ chức thực hiện trong thực tế cịn có khoảng
cách, nhiều chính sách và các quy định cụ thể cịn thể hiện sự phân biệt đối xử
rõ rệt, dành lợi thế cho khu vực kinh tế nhà nước, gây phiền hà cho khu vực kinh

tế tư nhân (cơ chế xin-cho, vay vốn, chính sách thuế, chính sách cho thuê mặt
bằng sản xuất(đất đai), chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động v.v.).
Những hạn chế nói trên đã gây ra nhiều hậu quả: sự hồi nghi về tính nhất
qn của chủ trương, đường lối, chính sách với việc tổ chức thực hiện, giữa lời
nói và việc làm v.v.; chưa tạo được lòng tin vững chắc cho nhà doanh nghiệp và
sự đồng thuận xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng; chưa tạo đựơc dư
luận xã hội rộng rãi thật sự tôn vinh, coi trọng và đánh giá đúng vai trị, vị trí của
kinh tế tư nhân trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Vì vậy đã đến lúc
cần khẳng định dứt khoát quan điểm: hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế
tư nhân trong mọi lĩnh vực mà luật pháp khơng cấm là chủ trương, chính sách
nhất quán lâu dài trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta,
coi đó là quan điểm chỉ đạo việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong giai
4


đoạn mới; đồng thời phải thể chế hoá chủ trương này thành luật pháp, chính sách
cụ thể sát hợp với thực tế, loại bỏ những chính sách, quy định phù hợp, v.v. tạo
môi trường pháp lý và môi trường kinh tế- xã hội lành mạnh cho các hình thức
kinh tế phát triển bình đẳng.
Tóm lại, sự phát triển kinh tế tư nhân là nhu cầu tất yếu khách quan và lâu
dài của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
II-THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1.Khảo sát tiến trình phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.1-Thời kì trước đổi mới.
Trước đổi mới (năm 1986), khu vực kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo xã
hội chủ nghĩa, không được luật pháp bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhưng
vì khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể không đủ thoả mãn nhu cầu mọi mặt

của đời sống kinh tế- xã hội của đất nước, nên khu vực kinh tế tư nhân cịn cần
thiết cho nền kinh tế, vì vậy vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình
(của các hộ cán bộ cơng nhân viên nhà nước và hộ xã viên hợp tác xã), các tổ
hợp tác, tổ hợp sản xuất núp bóng doanh nghiệp nhà nước hặc hợp tác xã (thực
chất là những loại hình kinh tế tư nhân khác nhau). Tuy mức độ và phạm vi hoạt
động cịn hạn chế nhưng các hình thức kinh tế tư nhân cũng đã thực sự góp phần
tăng thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho một bộ phận lớn cán bộ, công
nhân viên và xã viên các hợp tác xã, giảm bớt căng thẳng cho nền kinh tế thời
bấy giờ.
Nhìn lại lịch sử kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, kinh
tế tư nhân đóng vai trị hết sức quan trọng. Trong giai đoạn khôi phục kinh tế ở
miền Bắc (năm 1955-1957), Đảng và Nhà nước đã chủ trương duy trì và phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân. Nghị quyết của
Bộ chính trị (tháng 9-1954) xác định “phải hết sức coi trọng công tác phục hồi
cơng thương nghiệp, làm cho các xí nghiêp cơng tư hiện có tiếp tục kinh doanh”.
Nhờ có chính sách đúng đắn đó kinh tế miền Bắc đã khơi phục nhanh chóng...
kinh tế tư nhân phát triển rầm rộ. Năm 1955 công nghiệp tư nhân và tiểu thủ
công nghiệp ở miền Bắc có tới 51.688 cơ sở, với 128.622 cơng nhân tăng lên
thành 54.985 cơ sở, với 161.241 công nhân (năm 1956). Trong giai đoạn
này,thương nghiệp tư nhân chiếm tỉ trọng khá cao, 71.8% tổng mức bán buôn và
79.7% tổng mức bán lẻ.
5


Năm 1957 trong cơ cấu giá trị sản xuất toàn xã hội, kinh tế quốc doanh và
công ty hợp danh mới chỉ chiếm 17.9%, kinh tế tập thể và hợp tác xã chiếm
0.2%, trong khi đó kinh tế tư nhân chiếm 81.9%...Trong giai đoạn này(19551960), tốc độ tăng GDP của Việt Nam đạt đỉnh điểm cao (10.1%). Đây là bài
học của sự phát huy sức mạnh tổng hợp các thành phần kinh tế, đặc biệt là phát
triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nhà nước ta.
Từ năm 1958 miền Bắc nước ta chuyển sang thời kì phát triển kinh tế với

mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong thời gian này, với quan niệm chủ
nghĩa xã hội là cơng hữu hố về tư liệu sản xuất, là sư thống trị của kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Vì vậy Đảng và Nhà nước đặt ra nhiệm vụ là phải cơ
bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế tư nhân.
Hội nghị trung ương 14 khóa II (11-1956) đề ra: đẩy mạnh công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân, đồng thời,
phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh.
Với chủ trương như vậy đã đưa đến một số tình hình sau đây:
+ Các xí nghiệp tư bản tư nhân bị cải tạo dưới hai hình thức cơng ty hợp
danh đối với tư bản lớn và hợp tác xã đối với tư sản nhỏ.Trong những năm
1958-1960, ở miền Bắc đã cải tạo 2.135 xí nghiệp với 13.500 cơng nhân làm
th. Như vậy, có thể nói thành phần kinh tế tư bản tư nhân lúc đó ở miền Bắc
đã bị xố bỏ hồn tồn.
+ Đối với kinh tế tiểu nơng, cá thể, tiểu chủ thì vận động đưa vào làm ăn
tập thể dưới hình thức như: hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, sản xuất tiểu thủ
cơng nghiệp và tổ hợp tác mua bán...
Tình hình trên làm cho kinh tế tư nhân không được tôn trọng về mặt xã
hội. Một tâm lý xã hội đã được hình thành ở Việt Nam lúc bấy giờ là khinh ghét
những người làm kinh tế tư nhân. Luật pháp không bảo đảm cho tư nhân quyền
tự do kinh doanh, tự do lập nghiệp.
Mặc dù vậy, kinh tế tư nhân vẫn tồn tại và có những đóng góp quan trọng
vào nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch 5 năm 1976-1980 chủ trương tiếp tục công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người sản xuất nhỏ ở miền Bắc và
triển khai mạnh mẽ ở miền Nam, nhưng trong công nghiệp vẫn có trên 60 vạn
người sản xuất cá thể và tạo ra khoảng 15% giá trị sản lượng toàn ngành. Trong
nông nghiệp, hộ nông dân là xã viên hợp tác xã nông nghiệp thu nhập từ kinh tế

6



tập thể thường chỉ chiếm 30-40%, kinh tế phụ gia đình chiếm 60-70%- thực chất
là khu vực kinh tế tư nhân.
Như vậy, thực tế đã cho thấy, sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một yêu cầu
khách quan. Nhà nước khơng chỉ thừa nhận mà cịn phải biết khai thác những
tiềm năng của nó vào mục tiêu dân giầu , nước mạnh.
1.2-Thời kì đổi mới.
Cùng với quá trình đổi mới tư duy, trong suốt chặng đường phát triển của
đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách, biện pháp để phát triển kinh tế tư nhân. Vì vậy, kinh tế tư nhân đã phát
triển nhanh, thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư tham gia.
1.2.2-Sự phát triển về số lượng của các hình thức kinh tế thuộc khu vực kinh tế
tư nhân.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI( tháng 12-1986) và nhất là từ khi
ban hành luật doanh nghiệp tư nhân ( năm 1990) và Nghị định số 221/HĐBT
(ngày 23-7-1991) về “cá nhân và nhóm kinh doanh” cùng nhiều chỉ thị, nghị
quyết, chính sách khuyến khích khác của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư
nhân đã có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển. Năm 1990 mới có khoảng
800.000 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, thì đến năm 1992 đã có 1.498.600 hộ cá
thể, tiểu chủ đăng ký kinh doanh. Hai năm sau, năm 1994, đã lên tới 1.533.100
cơ sở, tăng thêm 51.100 cơ sở: năm 1996 có 2.215.000 cơ sở, tăng thêm 164.900
cơ sở(so với năm 1995).
Cùng với kinh tế cá thể, tiểu chủ, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần cũng có bước phát triển vượt bậc về số
lượng. Nếu năm 1991 tổng số các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn và công ty cổ phần là 414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 là 5.198
doanh nghiệp, năm 1998 đã tăng lên đến 26.021 doanh nghiệp.
1.2.2- Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo ngành nghề sản xuất kinh
doanh

Đa số các cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân đều tập trung vào
lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kế đó mới đến sản xuất công nghiệp và sau cùng
là sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây, xu thế trên vẫn được duy trì và có
chiều hướng tập trung vào các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Trong
tổng số trên 2,2 triệu hộ cá thể, tiểu chủ được khảo sát thời kỳ 1997-1998 thì:
lĩnh vực dịch vụ có trên 1,2 triệu cơ sở, lĩnh vực công nghệ và xây dựng có tới
527 ngàn cơ sở và cuối cùng là lĩnh vực nông nghiệp với khoảng 369 ngàn cơ
sở.
7


Xu hướng tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ của khu vực
kinh tế tư nhân không chỉ thể hiện về mặt số lượng, cơ cấu các loại hình doanh
nghiệp, hộ cá thể, tiểu chủ, mà cịn thể hiện qua cơ cấu vốn đầu tư và số lượng
lao động sử dụng, doanh thu, nộp thuế, ...
Trong lĩnh vực sản xuất khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng thấp, tiềm
lực còn rất nhỏ bé, dễ bị tác động trước sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
1.2.3- Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo vùng lãnh thổ.
Sự phát triển và phân bố các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân
diễn ra không đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Năm 1997, trong tổng số
25.002 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì 18.728 doanh nghiệp tập
trung ở miền Nam, trong khi miền Bắc chỉ có 4.187 doanh nghiệp và miền
Trung có 2.087 doanh nghiệp. Những vùng có nhiều cơ sở kinh tế tư nhân cũng
là những vùng sử dụng nhiều lao động: trong tổng số 4.849.142 lao động (năm
1996) làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thì Đơng Nam Bộ chiếm 26%,
Đồng bằng sơng Cửu Long chiếm 23%, Đồng bằng sông Hồng gần 20%, Duyên
hải miền Trung trên 11%, khu Bốn cũ 11%, miền núi và trung du Bắc Bộ gần
7%, Tây Nguyên gần 3%.
1.2.4- Những đặc điểm về vốn, lao động và sản xuất kinh doanh của khu vực kinh
tế tư nhân

+ Kinh tế tư bản tư nhân
- Về vốn sản xuất: trong 5 năm (1991-1996), vốn bình quân của loại hình
doanh nghiệp tư nhân tăng lên gấp 2 lần, công ty trách nhiệm hữu hạn có số vốn
bình qn 2 tỷ đồng, cơng ty cổ phần có số lượng vốn bình qn cao gấp trên 60
lần vốn bình qn của cơng ty trách nhiệm hữu hạn và 600 lần vốn bình quân
của doanh nghiệp tư nhân.
- Về gía trị tài sản cố định: trong 3 loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân thì doanh nghiệp tư nhân có giá trị tài sản cố định bình qn
chung thấp nhất nhưng có xu hướng tăng lên và giữ ổn định ở mức 0,2 tỷ đồng;
giá trị tài sản cố định bình quân của công ty trách nhiệm hữu hạn tăng không đều
và có xu hướng giảm; cơng ty cổ phần có bình quân chung giá trị tài sản cố định
cao nhất đạt 16,9 tỷ đồng năm 1995.
- Về lực lượng lao động: Số lượng lao động bình quân một doanh nghiệp
tư nhân là 8 lao động năm 1991 lên 19 lao động năm 1998, số lao động bình
qn của một cơng ty trách nhiệm hữu hạn khoảng 47 lao động năm 1998, cơng
ty cổ phần có quy mơ lao động bình qn tăng gần gấp đôi từ 89 lao động năm
1991 lên 155 lao động năm 1996.
8


- Về doanh thu: Năm 1991, bình quân doanh thu của một cơ sở thuộc khu
vực kinh tế tư nhân là 2.7 tỷ đồng, sau 5 năm doanh thu đạt 2,8 tỷ đồng trong đó
doanh nghiệp tư nhân và cơng ty cổ phần đều có mức tăng cao hơn so với công
ty trách nhiệm hữu hạn.
- Về chỉ tiêu nộp ngân sách: Bình quân chung cả 3 loại hình doanh nghiệp
trên là 0,12 tỷ đồng/ cơ sở năm 1991, sau 5 năm mức bình qn này giảm cịn
0,07 tỷ đồng (năm 1996). Trong đó doanh nghiệp tư bản tư nhân có mức nộp
ngân sách bình qn thấp nhất, cơng ty trách nhiệm hữu hạn mặc dù có doanh
thu giảm mạnh nhưng vẫn duy trì được mức nộp ngân sách, cơng ty cổ phần nộp
ngân sách nhà nước có mức bình quân cao nhưng sau đó liên tục giảm.

+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ
- Vốn sản xuất kinh doanh khoảng 11 triệu đồng.
- Sử dụng khoảng 3,3 lao động ở nông thôn và 6,3 lao động ở thành phố.
- Doanh thu hằng năm khoảng 18 triệu đồng.
+ Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân: doanh
ngiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất tiếp đó là
cơng ty trách nhiệm hữu hạn và sau cùng là công ty cổ phần. Cịn xét theo ngành
sản xuất thì các ngành có hiệu quả hơn cả vẫn là thương nghiệp, sửa chữa và
cơng nghiệp chế biến; ngành nơng- lâm nghiệp vẫn có hiệu quả thấp nhất.
+ Về tốc độ tăng trưởng, phát triển của khu vực kinh tế tư nhân: các loại
hình kinh tế cá thể, tiểu chủ có tốc độ tăng về số lượng khơng đều, bình qn
giai đoạn 1992-1997 tăng khoảng 13%/năm. Các loại hình kinh tế tư bản tư nhân
có tốc độ tăng cao vào năm 1994 nhưng các năm tiếp theo tốc độ tăng giảm dần,
đạt bình quân khoảng 37%/năm.
Khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là có tốc độ phát triển khá nhanh
và cao hơn so với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
nhưng kém hơn so với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Nhờ có tốc độ
tăng trưởng và phát triển nhanh nên khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp ngày
càng quan trọng vào GDP của nền kinh tế: từ 102.468 tỷ đồng năm 1995 lên
151.388 tỷ đồng vào năm1998.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta có dấu hiệu chững lại vào năm 1997- sau
một thời gian phát triển ngoạn mục. Cụ thể là, khu vực kinh tế cá thể đang có tốc
độ tăng GDP gần 10% năm 1995 đã tụt xuống còn 5% năm 1998, kinh tế tư bản
tư nhân tụt từ 9% năm 1995 xuống còn 1% năm 1998.

9


Mặc dù vậy, những đóng góp to lón của khu vực kinh tế tư nhân vào công

cuộc đổi mới là rất to lớn, không thể phủ nhận được.
2.Đánh giá chung về thực trạng của thành phần kinh tế tư nhân ở Việt
Nam.
2.1-Những thành tựu đã đạt được.
Thực hiện mục tiêu lớn nhất của Đảng và Nhà nước ta là “lấy việc giải
phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngồi cho
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời
sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế và các hình thái tổ chức kinh doanh”, huy động sức mạnh
tổng lực của nền kinh tế cho phát triển đất nước, xây dựng nước Việt Nam “dân
giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”...,thì chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân những năm qua
đã góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu đó. Nhìn tổng thể, sự hồi sinh và phát
triển khu vực kinh tế tư nhân trong những năm đổi mới vừa qua đã mang lại
nhiều kết quả kinh tế-xã hội to lớn mà nổi bật là:
2.1.1- Khơi dậy và phát triển tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham
gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm.
+ Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ tuy quy mô nhỏ nhưng với số lượng cơ sở sản xuất kinh
doanh lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh từ
14.000 tỷ đồng năm 1992 đã tăng lên 26.500 tỷ đồng vào năm 1996. Các doanh
nghiệp tư bản tư nhân đã huy động được lượng vốn vào kinh doanh là 20.665 tỷ
đồng (tính đến hết năm 1996), chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư phát triển
của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh của các ngành. Mặc dù trong những
năm đổi mới vừa qua với chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài của Nhà
nước đã thu hút thêm nguồn FDI ngày một tăng nhưng khu vực kinh tế tư nhân
trong nước vẫn đóng góp lượng vốn đầu tư rất đáng kể: 21% tổng lượng vốn đầu
tư tồn xã hội năm 1998 - là tỷ trọng khơng nhỏ.
+ Tạo việc làm, tận dụng lao động xã hội
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia tích cực

và có hiệu quả đối với việc giải quyết việc làm. Tính đến năm 1996 đã giải
quyết việc làm cho 4.700.742 lao động, chiếm gần 70% lực lượng lao động xã
hội trong khu vực sản xuất phi nơng nghiệp. Xét ở góc độ giải quyết việc làm thì
đây là khu vực có tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư cao nhất trong nền kinh
tế, cụ thể là: kinh tế cá thể thu hút 165 lao động/1 tỷ đồng vốn; doanh nghiệp tư
10


bản tư nhân thu hút 20 lao động/1 tỷ đồng vốn...Các doanh nghiệp tư bản tư
nhân trong 5 năm 1991-1996 bình quân mỗi năm giải quyết thêm khoảng 70.020
việc làm. Tổng số lao động thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 90,1% tổng số
lao động toàn xã hội - đây thực sự là khu vực kinh tế có vai trò quan trọng trong
việc tạo việc làm cho lao động xã hội cả hiện tại và trong tương lai.
+ Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết việc làm
cho lao động xã hội, khu vực kinh tế tư nhân cịn đóng góp đáng kể vào tổng sản
phẩm xã hội. Năm 1998 khu vực tư nhân đóng góp 41,1% GDP, nếu cộng với
9,1% GDP của khối đầu tư nước ngoài , khu vực ngoài quốc doanh chiếm trên
50% GDP cả nước. Nhờ vậy khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng
cùng với khu vực kinh tế nhà nước và đầu tư nước ngoài thúc đẩy nền kinh tế
nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao trên 8%/1 năm, liên tục trong giai doạn 19921997, và đỉnh cao đạt 9,5% vào năm 1995.
Khơng chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân cịn góp phần quan trọng tăng nguồn thu
cho nhân sách Nhà nước, góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế- xã hội đặt
ra. Nếu năm 1990, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nộp ngân sách là 969 tỷ
đồng, thì đến năm 1998 đã tăng lên 11.086 tỷ đồng; tính ra bình qn hàng năm
khu vực ngồi quốc doanh đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách trên dưới
32% GDP của cả nước cao gấp trên 3 lần đóng góp của khu vực liên doanh với
nước ngồi và gần bằng 1/2 đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào nguồn
thu ngân sách hàng năm. Điều đó cho thấy đóng góp của khu vực kinh tế tư

nhân có đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách, tăng tiềm lực cho nền kinh tế.
2.1.2 Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản
ứy theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành sản xuất kinh
doanh,v.v.. đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhận. Hiện nay, trừ
một số lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân khơng
được kinh doanh, cịn lại hầu hết các nghành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
khác nhau khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia.Trong đó, nhiều lĩnh vực,
nghành nghề, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương
thực, thực phẩm, nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh cá, lâm nghiệp, hàng hoá bán lẻ,
chế biến, sành sứ, giày dép, dệt may, v.v.Nhiều lĩnh vực đã mang về hàng tỷ
đôla cho nền kinh tế, trong đó có đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư
nhân.Chính sự phát triển phong phú, đa dạng các cơ sở sản xuất, các nghành
11


nghề, các loại sản phẩm dịch vụ, các hình thức kinh doanh, v.v..của khu vực
kinh tế tư nhân đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp Nhà nước, buộc khu vực
kinh tế nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức kinh doanh, dịch vụ,v.v.. để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị
trường. Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu
vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên sức
ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng hình thành và
xác lập vai trị, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ
chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh
nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác
với bên ngồi.
2.1.3 Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế

tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm đầu
tàu thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hố, mở
cửa hợp tác với bên ngồi.
Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta đã từng bước
hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt động trong hầu hết các lĩnh
vực, các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân với số lượng ngày một lớn:
khoảng trên 40.000 chủ doanh nghịêp và trên 120.000 chủ trang trại. Mặc dù
được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế thị
trường, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã tỏ rõ bản lĩnh, tài năng, thích
ứng khá kịp thời với sự chuyển đổi của nền kinh tế. Họ đã vươn lên, tham gia
vào hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không
cấm- trong đó bao gồm cả những ngành kỹ thuật cao và đã làm chủ nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành hàng.
2.1.4 Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội.
Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác nhau,
đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản
xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta.
Nếu trước đây quan hệ sở hữu ở nước ta chỉ bao gồm sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể thì giờ đây quan hệ sở hữu đã được mở rộng hơn: cịn có sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Trong quan hệ quản lý: hình
thành tầng lớp chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân, đội ngũ những người lao động
12


ồam thuê trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân...; xuất hiện quan hệ chủ thợ,
quan hệ thuê mướn lao động thông qua hợp động kinh tế; thị trường lao động
bước đầu được hình thành và ngày càng mở rộng, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm
cho mọi người thay cho việc phân bổ lao động vào các doanh nghiệp theo chỉ
tiêu...Quan hệ phân phối càng trở nên đa dạng, linh hoạt: xuất hiện các hình thức

phân phối theo vốn góp, theo tài sản, theo cổ phần và các hình thức khác,...
Chính những sự chuyển biến trên đã làm cho quan hệ sản xuất trở nên
mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt, dễ được chấp nhận và phù hợp với thực trạng nền
kinh tế và tâm lý xã hội ở nước ta hiện nay. Nó đã khơi dậy và phát huy được
tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn lao
động dồi dào và tiềm lực của hàng triệu hộ tư nhân vào công cuộc phát triển
kinh tế đất nước. Nhờ vậy đã góp phần quan trọng xố đói giảm nghèo, cải thiện
đời sống dân cư, góp phần đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và là một trong
những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhiều năm liền trong khu vực và trên
thế giới.
Bên cạnh mặt tích cực kể trên, sự chuyển biến của quan hệ sản xuất trong
thời gian qua cũng ít nhiều bộc lộ tính tự phát và những mặt tiêu cực chưa phù
hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa như: phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã
hội, chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn...Mặc dù vậy, những tác
động tích cực do sự chuyển biến của quan hệ sản xuất trong việc thúc đẩy lực
lượng sản xuất phá triển tạo nên những thành tựu kinh tế- xã hội to lớn của đất
nước thời kỳ đổi mới là không thể phủ nhận.
2.2-Những tồn tại, yếu kém chủ yếu.
+ Phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân đều có quy mơ nhỏ, năng lực và sức
cạnh tranh hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Hiện nay có tới
87,2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng.Thiếu vốn để sản xuất và mở
rộng sản xuất là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế tư nhân hiện nay và được coi là một trong những cản trở lớn
nhất đến sự phát triển sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế tư nhân. Hầu
hết các doanh nghiệp khởi sự bằng vốn tự có ít ỏi của mình đồng thời cũng có
những hạn chế nhất dịnh trong việc tiếp cận các nguồn vốn, tiếp cận thông tin.
Hệ thống ngân hàng yếu kém cùng với những thủ tục thế chấp phức tạp và nạn
quan liêu đã khiến cho hơn 20% doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa không muốn
vay ngân hàng. Mặt khác, thành lập doanh nghiệp chủ yếu là dựa trên kinh
nghiệm chứ chưa tính toán đầy đủ nhu cầu thị trường và khả năng tiêu thụ chắc

chắn nên hầu hết các chủ doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân hoạt động
13


thiếu phương án cũng như kế hoạch kinh doanh, vì vậy dễ đổ vỡ trước biến động
thị trường.
+ Máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực còn nhiều hạn
chế. Mặc dù nhận thức được nhu cầu cấp bách phải nâng cao khả năng cạnh
tranh của sản phẩm hàng hoá, song khả năng đổi mới thiết bị, công nghệ của các
cơ sở sản xuất tư nhân hạn chế ( do thiếu vốn đầu tư) vì vậy phần lớn đều đang
sử dụng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu; rất ít doanh nghiệp sử dụng máy móc,
cơng nghệ mới cũng như thuê máy móc thiết bị. Số doanh nghiệp được trang bị
máy móc cơng nghiệp hiện đại chỉ có khoảng 24% số doanh nghiệp tư nhân và
25% số cơng ty trách nhiệm hữu hạn. Cịn lại 37,2% số doanh nghiệp tư nhân và
20% số công ty trách nhiệm hữu hạn sử dụng công nghệ truyền thống; 34% số
doanh nghiệp tư nhân và 57% số công ty trách nhiệm hữu hạn kết hợp cả công
nghệ hiện đại và truyền thống. Các hộ cá thể, tiểu chủ sử dụng công nghệ thủ
công và truyền thống là phổ biến, việc đổi mới trang thiết bị, cơng nghệ hiện đại
cịn rất hạn chế. Do đó đã hạn chế năng suất lao động, chất lượng sản phẩm của
phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh. Lao động trong các doanh nghiệp nhỏ
và vừa của kinh tế tư nhân chủ yếu là lao động phổ thơng, ít được đào tạo, thiếu
kỹ năng, trình độ văn hoá thấp. Trong khu vực kinh tế tư nhân chỉ có 5,13% lao
động có trình độ đại học, khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp khơng có bằng cấp
chun môn. Cùng với sự lạc hậu về công nghệ, kỹ thuật, sự yếu kém của đội
ngũ lao động cũng là nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả sản xuất kinh doanh
của khu vực kinh tế tư nhân.
+ Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định là tình
trạng phổ biến đã tác động bất lợi tới chiến lược kinh doanh của các doanh
nghiệp. Luật đất đai chỉ quy định quyền sử dụng đất, không cho phếp tư nhân có
quyền sở hữu và hạn chế nghiêm ngặt việc mua bán đất đai do đó đất khơng

được chuyển nhượng công khai, giá đất thiếu ổn định dẫn đến tình trạng đất đai
bị đầu cơ, sử dụng kém hiệu quả. Vì vậy các cơ sở kinh tế tư nhân mới thành lập
rất khó có được mặt bằng đất đai ổn định. Thêm vào đó, sự phân biệt đối xử trong
việc giao đất của Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước và cho thuê đất đối
với các cơ sở kinh tế tư nhân cũng gây bất lợi và thiệt thòi cho khu vực kinh tế tư
nhân. Mặt khác, những vấn đề về chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất lại
chưa rõ ràng làm cho vấn đề mặt bằng sản xuất càng căng thẳng hơn. Ngay cả khi
doanh nghiệp đã bỏ ra rất nhiều chi phí để có mặt bằng sản xuất, nhưng sau đó họ
lại rất khó khăn trong việc dùng đất đai làm tài sản thế chấp vay ngân hàng. Rất ít
doanh nghiệp có được mặt bằng sản xuất ngay từ khi mới thành lập mà thường
14


phải đi thuê hoặc tận dụng đất và điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất
kinh doanh.
+ Thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, đây là vấn đề cản trở lớn đến phát
triển sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Hầu hết các doanh nghiệp
thuộc khu vực này mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra trên thị
trường địa phương và dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhân. Hiện nay một số sản
phẩm hàng hoá của khu vực kinh tế tư nhân cũng đã có mặt trên thị trường thế
giới, tuy vậy sản phẩm đủ chất lượng xuất khẩu cịn ít và và chịu sức ép cạnh
tranh gay gắt, còn lại phần lớn sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân được tiêu
thụ trên thị trường nội địa. Nhưng vài năm gần đây, do tác động bất lợi của cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực, nền kinh tế tăng trưởng giảm, thu nhập của dân
cư sút kém nên sức mua trong nước cũng giảm. Thêm vào đó, hàng hố trong
nước cịn tồn đọng với khối lượng lớn, cùng với hàng nhập lậu tràn lan khơng
kiểm sốt được đã làm cho việc tiêu thụ hàng hoá của khu vực kinh tế tư nhân
rơi vào tình thế cực kỳ bất lợi, làm cho nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn, phá
sản. Nhà nước đã có nhiều giải pháp kích cầu nhưng vẫn chưa tháo gỡ được khó
khăn trong tiêu thụ sản phẩm hành hoá cho khu vực kinh tế tư nhân.

+ Khả năng cạnh tranh để tồn tại, đứng vững trong cơ chế thị trường của
các cơ sở kinh tế tư nhân còn hạn chế, một số tiêu cực nảy sinh đã làm cho tốc
độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đang chững lại và có biểu hiện suy
giảm trong những năm gần đây. Cụ thể là tốc độ tăng trưởng của các doanh
nghiệp tư nhân giảm từ mức cao 60% ( năm 1994) xuống còn 4% ( năm 1998);
trong năm 1998 đã giảm đi 250 công ty trách nhiệm hữu hạn; tốc độ tăng GDP
của cả khối kinh tế tư nhân giảm từ 8,7% (năm 1995) xuống 4,2% (năm 1998).
Ngồi ra cịn có hiện tượng rất đánh lưu ý là: một số doanh nghiệp của khu vực
kinh tế tư nhân lớn chia nhỏ doanh nghiệp, không muốn dăng ký thành lập các
doanh nghiệp lớn, mà chỉ liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tập thể để núp bóng trốn lậu thuế, kinh doanh trái phép, hoạt động
kinh tế ngầm; một số chủ doanh nghịêp của khu vực kinh tế tư nhân móc nối,
cấu kết với một số cán bộ nhà nước thối hố để bịn rút, chiếm đoạt tài sản của
nhà nước, gây hậu quả ngiêm trọng nhiều mặt đối với nền kinh tế- xã hội...
2.3- Một số nguyên nhân chủ yếu
+ Luật pháp, chính sách, cơ chế quản lý vĩ mơ của Nhà nước vẫn chưa
hồn tồn tạo lịng tin cho những hộ cá thể, tiểu chủ và doanh nghiệp tư bản tư
nhân, nhất là những nhà doanh nghịêp có vốn lớn, có đầu óc kinh doanh, yên
tâm làm ăn lâu dài. Một thời gian dài trước đây Đảng và Nhà nước ta đã không
15


chủ trương khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, bởi vậy việc tích
luỹ vốn, trau dồi kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường và mở rộng
quan hệ quốc tế của các doanh nghiệp này gần như khơng có. Khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, ban hành Luật
doanh nghiệp... nhằm tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho khu
vực kinh tế tư nhân phát triển. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều chủ trương, chính
sách bị biến dạng qua các tầng nấc hành chính, cơ quan nhà nước vẫn “hành dân
là chính, sự tha hố trong bộ máy và đội ngũ cán bộ không giảm” nên vẫn khơng

tạo được lịng tin cho các chủ doanh nghịêp tư bản tư nhân. Mặt khác, ở tầm vĩ
mô cũng chưa hình thành được một hệ thống tổ chức có đủ thẩm quyền để quản
lý, hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân. Tình trạng tự phát, mạnh ai
nấy làm, phát triển thiếu định hướng, thiếu phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong khu
vực kinh tế tư nhân cũng như với các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi,.. cịn diễn ra phổ biến, đã khơng tạo nên sức
mạnh chung mà nhiều khi cịn kìm hãm lẫn nhau. Đó là những khó khăn lớn cả
về vật chất lẫn tinh thần, cả về khách quan và chủ quan đối với sự hình thành và
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
+ Thiếu một sự phối hợp giữa kinh tế Nhà nước với khu vực kinh tế tư
nhân trong một kế hoạch phát triển có bài bản ở tầm chiến lược. Trong kế hoạch
phát triển của ngành, hầu như khơng tính đến khu vực kinh tế tư nhân. Ở tầm vĩ
mơ chưa có sự phối hợp chặt chẽ và phân công rõ ràng giữa ngành và địa
phương trong việc quản lý khu vực kinh tế tư nhân. Quản lý Nhà nước đối với
khu vực kinh tế tư nhân chưa chặt chẽ và khơng rõ ràng, vì vậy những sơ hở
trong quản lý, cấp phép sản xuất kinh doanh không được kịp thời rút kinh
nghiệm, bổ sung, sửa đổi. Cho đến nay, việc xác định cụ thể những tiêu chí đánh
giá, phân loại kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân cũng chưa rõ ràng, thống
nhất; trong thực tế việc nhìn nhận, đánh giá các loại hình kinh tế này còn tuỳ
tiện, chủ quan.
+ Cho đến trước khi Luật doanh nghiệp được ban hành và có hiệu lực từ
tháng 1 năm 2000 thì thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp còn nhiều phức
tạp, phiền hà nên đã khơng khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp và huy
động vốn trong nhân dân vào đầu tư sản xuất kinh doanh. Nạn quan liêu giấy tờ
với nhiều thủ tục hành chính phức tạp, chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho
dân,.. đã làm nản lòng những người muốn lập nghiệp. Bên cạnh đó, vẫn cịn một
bộ phận khá lớn các chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân chưa thực sự yên tâm khi
bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh do chính sách của nhà nước cịn nhiều bất cập và
16



chưa đồng bộ, do những hạn chế về thông tin kinh tế, trình độ năng lực yếu,
kinh nghiệm kinh doanh chưa nhiều,... và nhất là còn lo nhà nước “ vỗ béo để
rồi làm thịt”
+ Cơ chế thương mại, thể chế tài chính tín dụng, chính sách thuế và các tổ
chức hỗ trợ thị trường,.. cho khu vực kinh tế tư nhân còn thiếu và yếu kém. Các
doanh nghiệp tư bản tư nhân chưa được tiếp cận đầy đủ các nguồn nhập khẩu và
mạng lưới xuất khẩu. Tuy gần đây Chính phủ đã nới lỏng các quiy định về vốn,
năng lực xuất nhập khẩu, xin hạn ngạch nhưng trong thực tế vẫn chưa hết
những phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn
trung và dài hạn hiện nay của các doanh nghiệp tư bản tư nhân vẫn cịn khó khăn
bởi các thủ tục về thế chấp vẫn chưa được giải quyết; thể chế tín dụng ngân hàng
chưa làm được vai trò hỗ trợ, giúp đỡ tích cực và có hiệu quả cho khu vực kinh
tế tư nhân phát triển. Chính sách thuế gần đây mặc dù đã có nhiều thay đổi theo
hướng đơn giản, dễ tính, dễ thực hiện, nhưng các doanh nghiệp cho rằng vấn đề
không phải ở mức thuế quá cao mà là ở chỗ có q nhiều loại thuế và mức thuế.
Ngồi ra, còn thiếu các tổ chức hỗ trợ thị trường, hoặc có thì cũng cịn rất yếu.
Các thể chế hỗ trợ kinh tế tư nhân ở nước ta còn rất sơ khai, cần được xây dựng
và phát triển, để thực sự là “ bà đỡ ” hỗ trợ đắc lực cho khu vực kinh tế tư nhân
quá độ sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
III-MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THÚC ĐẨY KINH TẾ TƯ
NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, muốn tăng trưởng kinh tể phương án
tốt nhất là tăng cả quy mô sản xuất kinh doanh và năng suất lao động.Có như
vậy mới đạt được sự thống nhất giữa mục tiêu và giải pháp, tạo nên sự tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Việt Nam đang thực hiện q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, cho nên trong giai đoạn đầu từ nay đến năm 2010 việc địi hỏi phải có

sự tăng đột biến về năng suất lao động xã hội là rất khó khăn, vì để có được điều
đó phải có một bước nhảy vọt về tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.Từ trước đến nay mỗi doanh nghiệp cũng đã bằng cách này hay cách
khác để có năng suất cao, chi phí sản xuất thấp để có sức cạnh tranh, trụ được
trong mơi trường cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường. Nhưng dù sao vẫn
chưa được như mong muốn. Bởi vậy, khâu đột phá trong thời gian tới sẽ tập

17


trung ở khu vực kinh tế tư nhân. Phải thu hút hơn nữa nhiều nguồn lực của tư
nhân vào đầu tư phát triển, bằng một số giải pháp cơ bản, như sau:
1-Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Trong chiến lược, quy
hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân, cũng như từng ngành, từng địa phương
cần xác định rõ hướng phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó chú trọng
tới kinh tế tư nhân. Gắn liền với chiến lược, quy hoạch ấy cần có chính sách, cơ
chế kèm theo để tạo động lực hoặc có biện pháp hỗ trợ, khuyến khích theo
hướng phát triển đã định. Về cách làm, cần công bố công khai quy hoạch, kế
hoạch để tồn dân biết và có cơ sở pháp lý chắc chắn để tự lựa chọn hướng đầu
tư kinh doanh của mình.
Xây dựng và hồn thiện đồng bộ luật pháp, chính sách bảo đảm tính nhất
qn và ổn định. Khi có thay đổi, nhất là các hạn chế hoặc cấm sản xuất, kinh
doanh cần có thời gian chuyển tiếp cần thiết để giảm thiểu những rủi ro, thiệt hại
của nhà đầu tư. Thúc đẩy nhanh việc hình thành và phát triển thị trường bất
động sản bao gồm cả quyền sử dụng đất để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa về
mặt bằng sản xuất, kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân. Nên có chính sách
giúp doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay
vốn ngân hàng hoặc góp vốn cổ phần, liên doanh với các doanh nghiệp khác cả

trong và ngoài nước.
2-Thiết lập các định chế hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều
yếu thế trong phát triển ở môi trường cạnh tranh; hơn thế nữa khu vực kinh tế tư
nhân ở Việt Nam mới được vực dậy từ khi có chính sách đổi mới kinh tế đồng
thời với quan điểm của Đảng và Nhà nước cần phát huy mạnh mẽ yếu tố nội lực
trong phát triển kinh tế, do đó sự hỗ trợ để phát triển khu vực kinh tế tư nhân
thông qua các định chế hỗ trợ là cần thiết. Các định chế hỗ trợ, có thể bao gồm
thành lập quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hình thành ngân hàng đầu tư
phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trung tâm đào tạo cán bộ quản lý kinh
doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Hiện nay chúng ta đang tiến hành cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước,
trong đó có chính sách cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta
cần mở rộng việc cho phép các doanh nghiệp tư nhân mà đa số là doanh nghiệp
nhỏ và vừa được tham gia tiến trình này. Thúc đẩy q trình cổ phần hóa để một
mặt sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước, mặt khác tạo cơ hội cho mọi người lao
18


động, mọi công dân đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh bằng hình thức
mua cổ phần tại các doanh nghiệp. Đây là điều kiện tốt để các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân có được những lợi thế mới để phát triển.
3-Phát triển những mối quan hệ hợp doanh giữa Nhà nước và tư nhân, giữa
tư nhân trong và ngồi nước.
Khắc phục tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm, phát triển thiếu định
hướng, thiếu phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong khu vực kinh tế tư nhân cũng như
với các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi,... nhằm bảo vệ quyền lợi trong liên kết phát triển, tránh việc ép giá, phân
phối khơng cơng bằng mang tính chèn ép, đặc biệt là trong thực hiện gia công
xuất khẩu hiện nay. Thực hiện tốt chức năng dẫn dắt khu vực kinh tế tư nhân

phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế nhà nước. Phối hợp chặt
chẽ và phân công rõ ràng giữa ngành và địa phương trong việc quản lý khu vực
kinh tế tư nhân.
Phát triển những mối quan hệ hợp doanh giữa tư nhân trong và ngoài nước
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới máy móc, trang thiết bị cơng nghệ đã
cũ nát, lạc hậu của phần lớn các doanh nghiệp tư nhân, cá thể, tiểu chủ; nâng cao
trình độ văn hoá, kỹ thuật cho đội ngũ lao động; nâng cao kinh ngiệm tổ chức,
quản lý, sản xuất kinh doanh cho các chủ doanh nghiêp tư nhân, các chủ hộ cá
thể, tiểu chủ.
4-Đổi mới cơ chế chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát
triển của kinh tế tư nhân.
Thúc đẩy nhanh việc hình thành các loại thị trường, nhất là thị trường bất
động sản, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ. Đi
liền với các loại thị trường là cơ chế, chính sách để các thị trường hoạt động
đồng bộ. Xây dựng và thực hiện chính sách tài chính, tín dụng bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; bảo đảm để kinh tế tư nhân dễ
dàng tiếp cận và được hưởng các ưu đãi nhà nước dành cho khu vực này; hướng
ưu tiên của Nhà nước thay vì chỉ tập trung vào các thành phần kinh tế, thì sắp tới
nên tập trung vào hiệu quả sử dụng vốn và vào các mục tiêu đầu tư để thực hiện
các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
làm cho hệ thống tài chính doanh nghiệp minh bạch hơn, lành mạnh hơn và ổn
định hơn để mọi doanh nghiệp đều có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn trong và
ngoài nước. Nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín
dụng trong việc chủ động xem xét thực tế khả năng thực tế của từng đối tượng
vay, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân được dùng tài sản hình thành từ vốn vay
19


để thế chấp vay vốn ngân hàng. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay, đi liền với
tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân. Sửa đổi

quy chế thành lập, hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa để những mục tiêu đề ra trong chính sách đi vào thực tiễn cuộc sống.
5- Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân
Cơ quan quản lý thích hợp nhất trong chỉ đạo quản lý phát triển là các sở
kế hoạch và đầu tư, song cơ quan chế tài mạnh nhất để giám sát sự hoạt động, có
khả năng tồn tại hay khơng có khả năng tồn tại của doanh nghiệp chính là ngành
thuế.
Cơ quan thuế thiết lập một quan hệ hành chính cơng song song với quan hệ
tài chính cơng giữa các doanh nghiệp với Nhà nước có quyền kiểm tra, kiểm
soát sổ sách kế toán của doanh nghiệp để biết kết quả hoạt động, kinh doanh,
xem xét, thu, chi, lợi nhuận, vốn...Như vậy để hoàn thiện về quản lý Nhà nước
đối với khu vực kinh tế tư nhân thì phải hoàn thiện cơ sở pháp lý, tinh giản thủ
tục đăng ký doanh nghiệp, củng cố hệ thống tổ giám sát hoạt động của doanh
nghiệp liên quan đến ba cơ quan quản lý nhà nước, trước tiên là ngành kế hoạch
và đầu tư, ngành thuế và ngành ngân hàng.

20


C-KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Từ những thành tựu kinh tế – xã hội đã đạt được từ sau cải cách kinh tế đến
nay, có thể nói phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là hoàn toàn đúng đắn. Đường lối đổi mới do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lí phù hợp với lịng dân và xu thế phát triển của kinh tế thế giới. Tuy nhiên
nền kinh tế nước ta vẫn còn rất nhiều khó khăn và yếu kém: trình độ phát triển
nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai; thị trường dân tộc
thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đơng bộ; nhiều thành
phần kinh tế tham gia thị trường,sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở
rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn

cảnh trình độ phát triển kinh tế- kỹ thuật của nước ta còn thấp xa so với hầu hết
các nước khác; quản lý nhà nước về kinh tế- xã hội còn yếu kém.
Các thành phần kinh tế trong quá trình phát triển vẫn còn nhiều hạn chế.
Sự yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân một mặt là do cơ chế, chính sách quản
lý điều hành vĩ mơ của Nhà nước tỏ ra chưa phù hợp với đòi hỏi của khu vực
kinh tế tư nhân đã có nhiều đổi khác sau hơn 10 năm đổi mới; mặt khác là do
những hạn chế về năng lực nội tại của bản thân khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù
vậy, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân gắn liền với công cuộc đổi
mới là to lớn và rất có ý nghĩa, góp phần tạo tiền đề quan trọng cho bước phát
triển mới của đất nước trước thềm thế kỷ XXI và là thành tựu đáng ghi nhận của
một chặng đường phát triển và những tồn tại cũng là tất yếu. Cùng với q trình
hình thành và hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng vã hội chủ nghĩa
của Việt Nam, việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách, cơ chế đối với khu
vực kinh tế tư nhân có một vị trí cực kỳ quan trọng, nó sẽ có tác dụng góp phần
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển chung, cũng như sự ra đời đồng bộ các loại
thị trường trong một thể chế kinh tế thị trường tương đối hoàn chỉnh trong nay
mai. Nhiệm vụ của giai đoạn tới là phải tiếp tục khắc phục những tồn tại nhằm
thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước theo cương lĩnh, chiến lược đề ra.

21


MỤC LỤC
A-ĐẶT VẤN ĐỀ
B-GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I-NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
1.Quan niệm về kinh tế tư nhân,đặc điểm của kinh tế tư nhân.
1.1-Quan niệm về kinh tế tư nhân
1.2-Đặc điểm của kinh tế tư nhân

a. Kinh tế cá thể và tiểu chủ
b. Kinh tế tư bản tư nhân
2.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
II-THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1.Khảo sát tiến trình phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.1-Thời kì trước đổi mới.
1.2-Thời kì đổi mới.
1.2.1-Sự phát triển về số lượng của các hình thức kinh tế thuộc khu vực kinh
tế tư nhân.
1.2.2- Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo ngành nghề sản xuất
kinh doanh
1.2.3- Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo vùng lãnh thổ.
1.2.4- Những đặc điểm về vốn, lao động và sản xuất kinh doanh của khu ực
kinh tế tư nhân
2.Đánh giá chung về thực trạng của thành phần kinh tế tư nhân ở Việt
Nam.
2.1-Những thành tựu đã đạt được.
2.1.1- Khơi dậy và phát triển tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư tham
gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm.
2.1.2 Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản
ứy theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
2.1.3 Hình thành và phát triển các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
tư nhân, góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam, làm đầu
tàu thúc đẩy nền kinh tế bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở
cửa hợp tác với bên ngoài.
22



2.1.4 Góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, thực hiện công bằng xã hội.
2.2-Những tồn tại, yếu kém chủ yếu.
2.3- Một số nguyên nhân chủ yếu
III-MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THÚC ĐẨY KINH TẾ TƯ
NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1-Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
2-Thiết lập các định chế hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân
3-Phát triển những mối quan hệ hợp doanh giữa Nhà nước và tư nhân,
giữa tư nhân trong và ngồi nước.
4-Đổi mới cơ chế chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự hình thành và
phát triển của kinh tế tư nhân.
5- Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân
C-KẾT THÚC VẤN ĐỀ

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin ( Nhà xuất bản Chính trị Quốc
Gia)
2. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân: lý luận và chính
sách
( Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia)
3. Việt Nam trên chặng đường đổi mới và phát triển kinh tế
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia)

4. Văn kiện đại hội Đảng bộ tồn quốc lần 7 ( Nhà xuất bản Chính trị Quốc
Gia)
5. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ( Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia)
6. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng lại đại hội VI
7. Tạp chí Cộng sản (số 1- năm 1987)
8. Tạp chí Nghiên cứu ( số 333- năm 2006)

24



×