Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI VIỆT NAM THAM GIA HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.77 KB, 10 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của
lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới nhiều
hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao.
Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến
quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa
chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng tạo ra những tác động tiêu cực đối với các
nền kinh tế như: làm cho q trình cạnh tranh trở nên gay gắt, có thể dẫn đến nguy
cơ phá sản của các doanh nghiệp, ngành kinh tế làm ăn kém hiệu quả, gây thất
nghiệp, dễ dẫn đến bất ổn về chính trị và xã hội; Chính phủ các quốc gia sẽ mất đi
một nguồn thu ngân sách do phải cắt giảm thuế quan; đối với các nước nghèo sẽ
thiếu tài chính và các nguồn lực khác cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, kinh
doanh; dễ tạo sự phụ thuộc của nước nghèo, thiếu công nghệ, vốn vào nước giàu,
ảnh hưởng đến sự độc lập dân tộc của các quốc gia yếu thế; Các giá trị đạo đức
truyền thống dễ bị xói mịn bởi văn hố ngoại lai. Với những tác động tích cực và
tiêu cực trên của hội nhập quốc tế mà gần ba mươi năm qua (từ năm 1986 đến nay)
Đảng ta đã kiên định đường lối chủ động hội nhập quốc tế để phát huy những mặt
tích cực của hội nhập, hạn chế những tiêu cực nhằm đưa đất nước ta trở thành một
cường quốc trong khu vực và trên thế giới.
PHẦN II: NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI VIỆT NAM
THAM GIA HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Khái niệm hội nhập quốc tế
Hội nhập với nghĩa chung nhất là hành động hoặc quá trình gắn kết các
phần tử riêng rẽ với nhau; họp chung các bộ phận vào một c hỉnh thể và kết hợp
các thành tố khác nhau lại. Quá trình hội nhập quốc tế ngày nay phát triển nhanh
chóng và diễn ra trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều cấp độ khác nhau: song phương,
tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu với sự tham gia của hầu hết các
nước trên thế giới.
2. Quan điểm chung của các nước về hội nhập quốc tế


Thứ nhất, hội nhập quốc tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế nhưng khơng giới hạn
ở đó, mà có thể mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội: từ kinh tế đến
chính trị, an ninh - quốc phịng, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác.
1


Thứ hai, hội nhập quốc tế là q trình khơng giới hạn thời gian. Đó là q
trình liên tục trong quan hệ hợp tác giữa các nước từ thấp đến cao, từ một lĩnh vực
cụ thể đến toàn diện.
Thứ ba, hội nhập quốc tế không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia các cơ
chế hợp tác đa phương mà trên nhiều bình diện, về bản chất, hợp tác song phương
nhưng lại dựa trên cơ sở các luật lệ và chuẩn mực chung thì cũng có đầy đủ tính
chất của hội nhập quốc tế.
Thứ tư, bản chất của hội nhập quốc tế là quá trình xây dựng và áp dụng các
luật lệ và chuẩn mực chung. Đây chính là đặc điểm để phân biệt hội nhập quốc tế với
các hoạt động hợp tác quốc tế khác như trao đổi, tham vấn, phối hợp chính sách...
3. Chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của
Việt Nam hiện nay
Về mục tiêu:
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố mơi trường hịa
bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và
bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng
bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh
tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực
vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Quan điểm chỉ đạo:
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, vì hịa bình, hợp tác và phát triển,
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán

triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan
hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), đồng thời phải chú trọng một số
quan điểm chỉ đạo sau:
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của
Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước. Mọi
cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của
2


tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của
các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và
làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc
đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa
kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn
kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, khu vực trong nước.
- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo
thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được phát triển
đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù
hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lọi ích
quốc gia - dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi
vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh
của bên này chống bên kia.

- Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đơi với
chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc
tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất
sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trị
của cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nội dung chủ động và tích cực hội nhập quốc tế:
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế: Đó là q trình thực hiện đầy
đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới. Việt Nam phải đưa hội nhập đi vào chiều sâu, tức là phải tận
dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ và nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế; gia tăng mức độ tự chủ của nền
kinh tế, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất, cung ứng ở khu vực và toàn cầu,
đồng thời phải tận dụng được hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để
bảo vệ các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam
trong quan hệ với các đối tác nước ngồi.
- Chủ động và tích cực hội nhập trên lĩnh vực chính trị, quốc phịng, an ninh.
3


Đưa quan hệ chính trị, quốc phịng, an ninh của Việt Nam đi vào chiều sâu, tức là
phải tạo được sự đan xen, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững giữa Việt
Nam và các đối tác, đưa khuôn khổ quan hệ đã được thiết lập đi vào thực chất, nhất
là với các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh và phát triển của
Việt Nam; tạo dựng được lịng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả
trong việc thúc đẩy quan hệ; ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng
và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng
tới an ninh và phát triển của Việt Nam.
- Chủ động và tích cực hội nhập trên các lĩnh vực khác: Đó là q trình chủ
động hơn trong việc nghiên cứu, lựa chọn các bộ tiêu chí, xây dựng và triển khai lộ

trình áp dụng, đồng thời tham gia xây dựng các tiêu chí, chuẩn mực chung, góp
phần nâng trình độ phát triển của Việt Nam trong các lĩnh vực này; phục vụ các
mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức và con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thời đại ngày nay:
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và
quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ và
liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên kết với nhau tạo thành
xã hội và các quốc gia-dân tộc. Các quốc gia lại liên kết với nhau tạo thành những
thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống thế giới.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị
trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động
lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc
tế nói chung.
Từ sau Chiến tranh thế giới II, đặc biệt là từ khi chấm dứt Chiến tranh lạnh,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thế giới nhờ hàng loạt tiến
bộ nhanh chóng về khoa học-cơng nghệ, xu thế hịa bình-hợp tác, nỗ lực tự do hóamở cửa của các nước đã thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc
biệt là trong kinh tế, phát triển rất nhanh và trở thành một xu thế lớn của quan hệ
quốc tế hiện đại. Quá trình này diễn ra trên nhiều cấp độ: song phương, đa phương,
tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Mức độ hội nhập cũng ngày một sâu
sắc hơn, bao quát toàn diện hơn. Hầu hết mọi nước trên thế giới đã và đang tích cực
tham gia vào q trình này.

4


Trên cấp độ toàn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc và
hàng loạt các tổ chức chun mơn của Liên hiệp quốc, trong đó gồm nhiều thiết chế
thuộc hệ thống Bretton Woods (đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế
giới), ra đời với số lượng thành viên gia nhập ngày một nhiều hơn, bao quát hầu hết

các nước trên thế giới. Đây là một tổ chức hợp tác toàn diện, bao quát hầu hết mọi
lĩnh vực và có quy mơ tồn cầu. Trong một số lĩnh vực, Liên hiệp quốc đã có sự
phát triển vượt lên trên sự hợp tác thông thường và có thể nói đã đạt đến trình độ
ban đầu của hội nhập (lĩnh vực chính trị-an ninh, lĩnh vực nhân quyền, lĩnh vực tài
chính). Trong lĩnh vực thương mại, tiến trình hội nhập tồn cầu được thúc đẩy với
việc ra đời của một định chế đa phương đặc biệt quan trọng, đó Hiệp định chung về
Thương mại và Thuế quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) kể từ năm 1995. Hiện nay, 164 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham
gia với tư cách thành viên chính thức của Tổ chức này. Trong hơn hai thập kỷ qua,
WTO đã phát triển mạnh mẽ hệ thống “luật chơi” về thương mại quốc tế, bao quát
hầu hết các lĩnh vực của quan hệ kinh tế giữa các thành viên như hàng hóa, dich vụ,
nơng nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt may, hàng rào kỹ thuật, đầu tư, sở hữu trí
tuệ, chống bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ, xác
định giá trị tính thuế hải quan, giám định hàng hóa, quy tắc xuất xứ, quy tắc và thủ
tục giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của WTO trở thành nền tảng của
tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song phương trên thế giới hiện nay. Vịng
đàm phán Đơ-ha, bắt đầu từ hơn mười năm trước, đang tiếp tục mở rộng và củng cố
các quy định của WTO theo hướng tự do hóa hơn nữa.
Ở cấp độ khu vực, q trình hội nhập phát triển rất nhanh trong những thập
niên 1960 và 1970, đặc biệt “nở rộ” từ thập niên 1990 trở lại đây. Hàng loạt tổ chức/
thể chế khu vực đã ra đời ở khắp các châu lục. Hầu như không một khu vực nào trên
thế giới hiện nay không có các tổ chức/thể chế khu vực của riêng mình. Các tổ
chức/thể chế khu vực về chính trị-an ninh và đặc biệt là kinh tế, chiếm nhiều nhất.
Nhiều tổ chức/thể chế liên kết kinh tế liên khu vực được hình thành, ví dụ như
APEC, ASEM, ASEAN với các đối tác ngoài khu vực chẳng hạn như Mỹ và EU
(dưới dạng các PCA và FTA), EU với một số tổ chức/thể chế hoặc quốc gia ở các
khu vực khác, v.v…
Bên cạnh các cấp độ tồn cầu và khu vực, q trình hội nhập giữa các nước
còn được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng hiệp ước liên
minh (chính trị, an ninh, quốc phịng), hiệp định đối tác toàn diện, hiệp định đối tác

5


chiến lược, hiệp định kinh tế-thương mại (BFTA, BCU…). Từ cuối thập niên 1990
trở lại đây, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch
tự do (BFTA) phát triển đặc biệt mạnh mẽ. Hầu hết các nước đều đã ký hoặc đang
trong quá trình đàm phán các BFTA. Thậm chí, có nước hiện đã ký hoặc đàm phán
tới hàng chục hiệp định BFTA (Singapore, Thái Lan, Nhật, Úc…). Điều này được
lý giải chủ yếu bởi bế tắc của vịng đàm phán Đơha và những ưu thế của BFTA so
với các hiệp định đa phương (dễ đàm phán và nhanh đạt được hơn; việc thực hiện
cũng thuận lợi hơn).
Về phạm vi lĩnh vực và mức độ hội nhập, xem xét các thỏa thuận liên kết
khu vực và song phương trong thời gian gần đây, có thể thấy rất rõ rằng các lĩnh
vực hội nhập ngày càng được mở rộng hơn. Bên cạnh xu hướng đẩy mạnh hội nhập
kinh tế, các nước cũng quan tâm thúc đẩy hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt
là chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội. Tiến trình hội nhập toàn diện trong EU đã đạt
đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một thực thể gần giống như một nhà nước
liên bang. ASEAN cũng đang tiến hành mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập
khu vực một cách tồn diện hơn thơng qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên
ba trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn
hóa-Xã hội. Hàng loạt các hiệp định đối tác tồn diện hay đối tác chiến lược song
phương được ký kết gần đây bao quát khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết
giữa các bên. Nếu chỉ xét riêng về mặt kinh tế, thì các thỏa thuận gần đây, chẳng
hạn như Hiệp định Mậu dịch tự do ASEAN-Úc-Newzeland, Hiệp định Mậu dịch tự
do Mỹ-Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do Hàn Quốc-Singapore, Hiệp định Mậu
dịch tự do Nhật-Singapore chứa đựng hầu hết các lĩnh vực và do vậy vượt xa so với
các hiệp định FTA truyền thống. Nhìn chung, các hiệp định FTA mới toàn diện hơn
và bao hàm cả những lĩnh vực “nhạy cảm” (ví dụ như mua sắm chính phủ, cạnh
tranh, lao động, mơi trường, hàng rào kỹ thuật) thường không được đề cập trong
hầu hết các hiệp định FTA ký trước đây. Bên cạnh đó, các hiệp định FTA mới đưa

ra các quy định về tự do hóa triệt để hơn, thể hiện mức độ hội nhập cao hơn. Ví dụ,
trong lĩnh vực hàng hóa, cắt giảm thuế quan mạnh hơn và sớm đưa về 0%, hạn chế
tối đa số lượng các sản phẩm loại trừ.
Rõ ràng, hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn và một đặc trưng quan
trọng của thế giới hiện nay. Khơng ít người khẳng định rằng chúng ta đang sống
trong thời đại tồn cầu hóa. Nói một cách khác, thời đại hội nhập toàn cầu. Xu thế

6


này chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi to lớn cấu trúc của hệ thống
thế giới cũng như bản thân các chủ thể và mối quan hệ giữa chúng.
4. Giải pháp hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
4.1. Thuận lợi
Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương
mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế-xã hội.
Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng
thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học
công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các
nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngồi và chuyển
giao cơng nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận
thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh;
được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngồi, từ đó có cơ hội phát

triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngồi nước.
Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt
hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát
triển phù hợp cho đất nước.
Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn
minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới
xây dựng một xã hội mở, dân chủ hơn và một nhà nước pháp quyền.
Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích
hợp trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả
năng duy trì an ninh, hịa bình và ổn định để phát triển.

7


Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hịa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các
nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nguồn lực của
các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới .
4.2. Khó khăn
Một, hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và
ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt
kinh tế-xã hội.
Hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường
bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của
thị trường quốc tế.
Ba, hội nhập không phân phối cơng bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các
nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu-nghèo.
Bốn, trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với
nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào
các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng

thấp. Do vậy, họ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại mơi trường.
Năm, hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước
(theo quan niệm truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.
Sáu, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền
thống bị xói mịn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngồi.
Bảy, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng
bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
4.3. Giải pháp
Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định
hướng đối ngoại của Đại hội XII, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình
hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối họp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao
nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các cấp, các ngành, các địa phương.
Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần
đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ với 5 đối tác
chiến lược và 12 đối tác tồn diện, đảm bảo mơi trường hịa bình, ổn định của đất
nước, thúc đẩy quan hệ trên tất cả các lĩnh vực, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước
và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
8


Thứ ba, Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ
các cam kết quốc tế. Theo đó, Việt Nam cần tăng cường cộng tác phổ biến các cam
kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình
triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân nhận thức đúng thách thức cũng như
cơ hội mà họ có được từ q trình hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động
và tích cực, biến quá trình hội nhập quốc tế chủ yếu là các hoạt động của các cơ
quan nhà nước tiến hành thành q trình tham gia chủ động và tích cực của bộ,
ngành, từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp và người dân.

Thứ tư, trong quá trình triển khai các định hướng lớn về hội nhập quốc tế
được xác định trong Văn kiện Đại hội XII, Việt Nam cần tập trung thực hiện Chiến
lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030 và các đề án, kế
hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế; khẩn
trương hồn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập quốc tế; tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập để đến năm 2020, mức độ
hội nhập trên các lĩnh vực của Việt Nam ở mức độ cao của các nước ASEAN.
Thứ năm, trong hội nhập kinh tế, Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Các bộ, ngành và địa phương cần chủ động xây dựng chương trình, kế
hoạch tồn diện và cụ thể thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, trong đó xác định
vai trị trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình hội nhập trong quan
điểm, nhận thức và hành động.
- Gắn kết hội nhập kinh tế quốc tế với cải cách trong nước, chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, mục
tiêu chính trị - ngoại giao và mục tiêu chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng mức độ
cam kết và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, đồng thời có các điều chỉnh
trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để có hiệu quả cao nhất trong
việc thực hiện các cam kết thương mại.
- Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có
hiệu quả các cam kết hội nhập, tạo mơi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch,
ngày càng phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, góp phần hồn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

9


- Tận dụng tới đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị
trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, nâng

cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.
- Tăng cường nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh
giá và dự báo các vấn đề mới liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc
triển khai thực hiện ở mức độ cao hơn các cam kết, các FTA để chủ động điều chỉnh
chính sách và biện pháp phù hợp...
PHẦN III: KẾT LUẬN
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước.
Tuy nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích
và gánh mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm
năng và đối với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện,
hồn cảnh, trình độ phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các
bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng
là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược/chính sách, biện pháp hội nhập và
việc tổ chức thực hiện. Thực tế, nhiều nước đã khai thác rất tốt các cơ hội và lợi ích
của hội nhập để đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cao, ổn định trong
nhiều năm liên tục, nhanh chóng vươn lên hàng các nước cơng nghiệp mới và tạo
dựng được vị thế quốc tế đáng nể, đồng thời xử lý khá thành công các bất lợi và
thách thức của q trình hội nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Singapore, Trung Quốc, … Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều lợi ích từ
hội nhập, song xử lý chưa tốt mặt trái của q trình này, nên phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức lớn, có thể kể tới trường hợp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđơnêxia,
Việt Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích
mà hầu hết các nước đã thu được trên thực tế từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái
giá mà họ phải trả cho những tác động tiêu cực xét trên phương diện tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Điều này giải thích tại sao hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn
chính sách của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.

10




×