Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Một số giải pháp đảm bảo quyền con người ở Việt Nam trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.5 KB, 10 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài lịch sử, con người ln đấu tranh nhằm giải phóng con người,
xây dựng xã hội tiến bộ vì con người. Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở mỗi quốc gia
là nỗ lực đóng góp chung đối với nhân loại nhằm bảo vệ giá trị thiêng liêng của quyền con
người. Trải qua nhiều đau thương, hi sinh, mất mát trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại
xâm nhằm giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân nên kể từ khi
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến nay, Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc
Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện
và thúc đẩy quyền con người đã được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận. Tuy nhiên vấn
đề hạn chế về quyền con người theo pháp luật Việt Nam vẫn là một vấn đề cần phải nghiên
cứu, giải quyết thỏa đáng nhằm thực hiện tốt các cam kết quốc tế về quyền con người.
PHẦN II: NỘI DUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1. Khái quát về quyền con người
1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người (Human rights) là những giá trị thiêng liêng, cao quý kết tinh từ
nhiều nền văn hóa, văn minh của các dân tộc trên thế giới. Trải qua quá trình đấu tranh của
Ịoài người nhăm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, cùng với sự phát triển của xã hội, tư tưởng
về tự do, về bình đẳng, ý thức về quyền con người, quyền làm người đã trở thành động lực
to lớn trong các cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột và bất công xã hội. Tuy nhiên, quyền
con người là khái niệm đa diện, có nhiều cách hiểu và cách tiếp cận khác nhau.
Dưới góc độ tơn giáo, đạo đức, khái niệm về quyền con người được hiểu không chỉ
bắt đầu với bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR, 1948), mà ý thức, tư
tưởng về quyền con người đã xuất hiện sớm trong lịch sử, nó thuộc nhiều truyền thống văn
hóa, tơn giáo khác nhau.
Dưới góc độ pháp lý, xét về mặt lịch sử, quyền con người đã được công nhận trong
nhiều văn bản pháp lý quan trọng như: Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1700 tr.CN),
Hiến chương Magna Carta (1215), Bộ luật về các quyền của Anh (1689), Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789) và Hiến pháp của Mỹ năm 1791... Tuy nhiên,
ngành luật quốc tế về quyền con người chỉ mới xuất hiện trong thể kỷ XX, mà khởi đầu là
Hiến chương Liên hợp quốc (1945) và ba năm sau đó là ƯDHR.


Do sự khác biệt về hồn cảnh lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, chế độ
chính trị, giá trị truyền thống, vãn hóa dân tộc, nên cách tiếp cận về quyền con người rất
khác nhau giữa các quốc gia, châu lục. Vì thế, khái niệm quyền con người/nhân quyền cịn
có nhiều cách hiểu khác nhau và đến nay chưa có một định nghĩa chính thức nào về quyền
con người đúng cho mỗi quốc gia, dân tộc và đúng cho mọi thời đại.

1


Trong bản Tuyên bố Viên và Chương trình hành động (1993) định nghĩa: “Quyền
con người và tự do cơ bản là quyền bẩm sinh của mọi người được hưởng; việc thúc đẩy và
bảo vệ các quyền đó là trách nhiệm trước tiên của Chính phủ”.
Tài liệu Hỏi đáp về quyền con người của Liên hợp quốc quan niệm “Quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu khơng được bảo đảm thì chúng
ta sẽ khơng thể sống như một người”.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR): “Quyền
con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được
phép và tự do cơ bản của con người”.
Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, viết: “Quyền con người là những nhu cầu lợi ích tự nhiên, vốn có và khách
quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế”.
Các định nghĩa nêu trên mặc dù cịn có những điểm khác nhau về nội dung và
phương pháp tiếp cận, song đã phản ánh một số đặc điểm chung của khái niệm quyền con
người như sau:
Một là quyền con người là các quyền bẩm sinh thuộc sở hữu vốn có của mọi người,
nó gắn liền với hành động cơng nhận, thừa nhận chứ không phải là ban phát, từ chối hay
tước đoạt vô cớ.
Hai là trung tâm của khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có

của mọi thành viên trong gia đinh nhân loại.
Ba là, quyền con người là các quyền được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người
mà khơng có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, chính
kiến, quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc địa vị xã hội...
Bốn là, quyền con người là các quyền được bảo đảm minh bạch về pháp lý nhằm
giúp cá nhân, các nhóm xã hội đạt được nhu cầu, lợi ích một cách độc lập trên các lĩnh vực.
Năm là, quyền con người xác lập nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm của nhà nước và xã hội.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt
nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
1.2. Nguồn gốc của quyền con người
1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên
Luận giải về nguồn gốc tự nhiên của quyền con người đã xuất hiện sớm từ thời kỳ
cổ đại. Giữa thế kỷ V tr.CN ở Hy Lạp, các nhà triết học ngụy biện (Sophiste) đã quan
niệm: về mặt tự nhiên mọi người đều được bình đẳng. Các nhà luật học La Mã (thế kỷ II-I

2


tr.CN) đã có sự phân biệt giữa quyền tự nhiên và quyền dân tộc. Trong khi quyền dân tộc
dựa trên sự thừa nhận chung, thì quyền tự nhiên dựa trên nhu cầu bẩm sinh. Ở Trung Quốc
cổ đại, Mặc Tử (479-371 tr.CN) đã dựa vào tư tưởng kiêm ái, yêu người như yêu mình để
xây dựng quan niệm về bình đẳng tự nhiên và quyền của các công dân tham gia vào công
việc nhà nước.
Trong thời kỳ Phục hưng và Khai sáng ở châu Âu, Học thuyết về quyền tự nhiên
(natural rights) được hình thành và phát triển với những tác giả tiêu biểu như RGrotius
(1583-1645), B.Spinoza (1632- 1677), G.Locke (1632-1704), T.Hobbes (1588-1679)...
Theo học thuyết này, các quyền con người bắt nguồn từ luật tự nhiên, phù hợp với bản tính
và lý trí con người; đó là tiếng gọi của lẽ phải, công lý và sự thiết yếu về đạo đức. Nội
dung quyền tự nhiên bao gồm: mọi người sinh ra bình đẳng, có các quyền bẩm sinh, vốn có

chứ không phải do nhà nước ban phát; bảo vệ quyền tự nhiên là nghĩa vụ đầu tiên của
Chính phủ và chúng giới hạn quyền lực của Chính phủ. Học thuyết về quyền tự nhiên có
ảnh hưởng sâu đậm đến sự hình thành Tun ngơn độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyên của Pháp (1789). Nhận xét về các quyền trong giai đoạn lịch sử
này, C.Mác cho rằng, quyền con người xuất hiện dưới hình thức các quyền tự nhiên, nhà
nước thừa nhận nó, chứ khơng sáng tạo ra nó.
Giữa thế kỷ XX, mặc dù có những tranh luận kéo dài giữa nhiều trường phái tư
tưởng khác nhau, song triết lý về quyền tự nhiên đã đạt được sự đồng thuận của nhiều
quốc gia và được phản ánh trong Điều 1 UDHR (1948).
1.2.2. Nguồn gốc pháp lý
Những người theo học thuyết về quyền pháp lý (legal rights) như Jeremy
Bentham (1748-1832), Edmund Burke (1729-1797) đã hoài nghi về nguồn gốc tự nhiên
của quyền con người. Trung tâm trong cách lập luận của học thuyết này là quyền con
người phải có sau nhà nước. Luật pháp (luật do con người đặt ra, không phải luật tự
nhiên) mới là nguồn gốc của quyền con người. Trong thế kỷ XX, quan điểm này tiếp tục
được một số quốc gia khẳng định, theo đó, quyền con người bắt nguồn duy nhất từ địa vị
pháp lý, chính trị của một người trong xã hội.
Trong Bộ luật Quốc tế về quyền con người, Liên hợp quốc đã thể hiện một cách
tiếp cận cân bằng giữa học thuyết về quyền tự nhiên và quyền pháp lý. Một mặt, thừa
nhận quyền con người, bao gồm cả các quyền áp dụng riêng cho công dân mỗi quốc gia
là bẩm sinh, không phụ thuộc vào sự ban phát hay tước bỏ của nhà nước. Mặt khác,
quyền con người là một quan hệ pháp lý, được bảo vệ thông qua pháp luật. Do vậy, các
quyền con người trong Bộ luật Quốc tế về quyền con người hàm chứa các giá trị đạo
đức, chinh trị và pháp lý có ý nghĩa toàn cầu làm cơ sở cho các nhà nước xây dựng hệ
thống pháp luật, chính sách về quyền con người, quyền công dân.

3


1.2.3. Nguồn gốc xã hội

Thực tế lịch sử đã ghi nhận, nhận thức về bảo vệ quyền con người đã xuất hiện
từ rất sớm, nó thuộc nhiều truyền thống đạo đức, văn hóa và tơn giáo khác nhau; từ
phương Đơng sang phương Tây; có cả trong Phật giáo, Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Tin
Lành, Hồi giáo… Nói cách khác, quyền con người là một giá trị xã hội cao quý mà mỗi
nền văn hóa đều tơn trọng và thừa nhận.
Theo quan điểm Mácxít, ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh và do vậy, quyền
con người khơng thuần túy xuất phát từ yếu tố tự nhiên, bẩm sinh mà còn là kết quả đấu
tranh của nhiều tầng lớp xã hội, giai cấp chống lại áp bức, bất công nhằm giải phóng con
người, để họ tỏ rõ năng lực của mình, cỏ thể ngẩng đầu, đứng thẳng, tự thấy mình là một
con người. “Cần phải tổ chức thế giới xung quanh sao cho người ta nhận thức và lĩnh hội
được ở đó cái gì thực sự hợp với tính người, sao cho người ta thấy được mình là con người”.
Theo quan điểm của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (các quyền và tự do
cơ bản của con người chưa bao giờ đạt được tiến bộ một cách tự động. Trong xã hội nào
cũng có những cuộc đấu tranh chống lại những hiện tượng xã hội tước đi phẩm giá tự do
cơ bản của con người. Cuộc đấu tranh đó vẫn đang tiếp tục diễn ra ở các nước giàu cũng
như nước nghèo.
1.3. Đặc trưng của quyền con người
1.3.1. Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì
bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên
trong gia đình nhân loại, khơng có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Tuy nhiên, cần
lưu ý là sự bình đẳng này khơng có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà là bình đẳng
về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền con người.
1.3.2. Tính khơng thể chuyển nhượng (inalienable): Thể hiện ở chỗ các quyền
con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể
cả bởi các nhà nước, trừ một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm
một tội ác thì có thể bị tước quyền tự do...
1.3.3 Tính khơng thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền con
người đều có tầm quan trọng như nhau, về ngun tắc khơng có quyền nào được coi là có
giá trị cao hơn quyền nào, bởi lẽ việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác động
tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, cần chú ý là

trong thực tế, tùy bối cảnh cụ thể và với những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực hiện
một số quyền con người nhất định (ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa, quyền được ưu
tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế, hoặc một số điều ước quốc tế đặt ra một số
quyền ưu tiên cần được bảo đảm với phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người thiểu số...)
Điều này khơng có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn, mà

4


bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với
các quyền khác.
1.3.4. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể
hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối
liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp
gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại, tiến bộ trong
việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm
các quyền khác.
2. Mối quan hệ giữa quyền con người với các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội.
2.1. Quyền con ngưòi và vấn đề đói nghèo: Đói nghèo khơng đơn giản chỉ là
vấn đề thu nhập, mà cịn là cơng bằng xã hội và quyền con người. Liên hợp quốc
khẳng định, đói nghèo cùng cực và cách biệt xã hội tạo thành sự vi phạm nhân
phẩm, cản trở sự hưởng thụ quyền con người, quyền cơng dân. Vì vậy lập tức
giảm nhẹ và dần dần xóa bỏ tình trạng nghèo khổ cùng cực phải là ưu tiên cao
đối với cộng đồng quốc tế.
2.2. Quyền con người và dân chủ
Dân chủ và quyền con người có mối quan hệ gắn bó với nhau. Trong quan
niệm của UNESCO, dân chủ bảo đảm các quyền và tự do cơ bản. Phương pháp
thảo luận tập thể, công khai để giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội sẽ
khơng thể thực hiện được nếu khơng có các qụyền như: tự do ngôn luận, quyền

lập hội, tự do đi lại và an ninh thân thể. Mọi người có thể dựa vào dân chủ để
bảo vệ các quyền đó, bởi vì chúng là tối quan trọng cho việc tồn tại của các nền
dân chủ.
2.3. Quyền con người và pháp quyền
Hội nghị thế giới về quyền con người tại Viên (Áo, 1993) đã nhấn mạnh,
hệ thống pháp quyền bao gồm các cơ quan thi hành pháp luật, các cơ quan công
tố, đặc biệt là ngành tư pháp theo đúng các chuẩn mực thông thường trong các
văn kiện quốc tế về quyền con người là điều kiện thiết yếu để thực hiện một cách
đầy đủ các quyền con người và là điều khơng thể thiếu đối với q trình dân chủ
và phát triền bền vững.
2.4. Quyền con người và phát triển con người
Với tiêu đề Quyền con người và phát triển con người, Báo cáo Phát triển
con người của UNDP đã đánh giá, quyền con người và phát triển con người đều
có cùng quan điểm và mục đích chung là bảo đảm tự do, hạnh phúc và phẩm giá
cho mọi người. Phát triển con người là nền tảng để công nhận quyền con người

5


và quyền con người là cơ sở để phát triển con người một cách đầy đủ.
2.5. Quyền con người và đa dạng văn hóa
Quyền con người phổ biến khơng phải phụ thuộc vào một truyền thống
văn hóa duy nhất, mà là kết quả đóng góp của nhiều nền văn hóa khác nhau
trong gia đình nhân loại. UNESCO đã ghi nhận: Mọi dân tộc, mọi nhóm người,
bất kể thành phần hay nguồn gốc xuất thân, đểu có khả năng đóng góp chung
vào tiến bộ văn hóa, văn minh, đều có quyền bình đẳng để đạt được những thành
tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, cơng nghệ. Tuy nhiên, sự da
dạng văn hóa phải gắn với thực hiện các quyền con người phổ biến phù hợp với
Hiến chương Liên hợp quốc, Bộ luật Quốc tế về quyền con người và các văn kiện
quốc tế khác về quyền con người.

3. Hạn chế về quyền con người theo pháp luật Việt Nam
Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế
về nhân quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở
mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người ở
nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định.
- Về nhận thức của cán bộ, công chức: Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở
nước ta hiện nay cịn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền và một số cơ
quan tư pháp. Sự hạn chế như vậy có ngun nhân từ cơng tác tuyên truyền, giáo dục về
nhân quyền.
- Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền và
đấu tranh chống vi phạm nhân quyền: Các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện
nay chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân quyền dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân
quyền để chống phá ta của các thế lực phản động, thù địch. Nhân quyền được coi là một vấn
đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
- Cơ chế bảo đảm nhân quyền chưa hiệu quả: Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ
quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa có một quy chế chặt chẽ
trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền.
- Sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo đảm: Mặc dù đòi hỏi ở mức độ khác nhau,
song việc bảo đảm bất cứ quyền con người nào cũng không thể tách rời các điều kiện vật
chất. Do những khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay cịn thiếu các điều kiện để chăm
sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm HIV/AIDS, những người
làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù…
4. Yêu cầu và định hướng bảo đảm, thúc đẩy quyền con người trong tình hình mới

6


Một là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc

biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa
các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp
điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư pháp, cải cách hành chính; mở
rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi
mới, phát triển đất nước, bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất
cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị
tổn thương.
Hai là, đổi mới tư duy, chủ động mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội
dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quyền con người, nhất là thông tin,
tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, được
cộng đồng quốc tế thừa nhận; chủ động, kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái,
xuyên tạc về quyền con người ở nước ta.
Ba là, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm thúc
đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người gắn với nâng cao
hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế. Trong q trình đó, cần tăng cường đối thoại để nâng
cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau
giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, quyền con người; đồng thời
kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đấu
tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, quyền con
người để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
5. Một số giải pháp đảm bảo quyền con người ở Việt Nam trong thời gian tới
5.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo
vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các
quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm
đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của cơng dân
cao tuổi… Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết tồn diện và sâu sắc hệ
thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và tổng kết
thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được quy định cụ thể hơn.
Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền khác. Theo đó, cần hồn thiện pháp luật cụ
thể hóa Điều 58 Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, cơng dân tự
kiểm sốt, bảo vệ tài sản của mình và Nhà nước thơng qua cơng cụ pháp lý và bộ máy

7


chun chính có trách nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân. Chỉ khi quyền sở hữu
cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của
cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền khơng chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung
mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, công dân cao tuổi
cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo
vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này
là: Khơng được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật; quyền
lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế. Đồng thời, từ chủ nghĩa nhân văn, “Uống nước
nhớ nguồn”, sớm hoàn thiện nâng lên thành luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách
mạng và người có cơng với đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội và
những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
5.2. Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, cơng chức nhà nước và hồn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong mối
quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ trách nhiệm
bảo đảm mỗi cán bộ, cơng chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời,
xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong q trình
thực thi cơng vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của cơng dân. Theo đó, pháp
luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ
chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân,

do đó xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng cơng dân có quyền được làm tất
cả những gì luật pháp khơng cấm, cịn cán bộ, cơng chức nhà nước chỉ được phép làm
những gì mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng,
bảo đảm thực hiện quyền con người và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát
sinh từ việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và cơng dân bảo đảm tính ràng buộc hai
chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức là phục vụ nhân dân,
chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện nước ta hiện nay, địi hỏi chuyển
mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tạo điều kiện
để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công việc nhà nước, công việc xã hội, trong
đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, hoạt động của
cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm tra và giám sát hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công
chức nhà nước – những người phục vụ nhân dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt động
trước nhân dân, bảo đảm quyền của công dân được cung cấp thông tin một cách chân thực

8


và chính xác từ phía cơ quan cơng quyền. Những người trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải
thường xuyên tiếp xúc với nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công
chức nhà nước, tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố
nơi cán bộ, vợ con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.
5.3. Giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu nghèo,
nền tảng cho phát triển bền vững
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN tự bản thân đã
địi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho thấy, bảo đảm quyền kinh tế
cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi hỏi chiến lược giảm nghèo, thực
hiện công bằng xã hội và dần dần giảm sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu với số

lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực hiện được điều
đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trị điều tiết vĩ mơ, quản lý nền kinh tế,
dùng cơng cụ, sức mạnh thơng qua chính sách thuế, thực hiện việc điều tiết, phân phối lợi
ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến các đối tượng hưởng chính sách xã
hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm
vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các thành phố, đô thị…
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và ly khai có
những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự phân bổ không công bằng về
lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và sự phân cách giàu nghèo quá lớn trong xã hội. Vì thế,
để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện tốt chiến lược xóa đói, giảm nghèo. Trong đó,
việc đào tạo nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo dục, đào tạo, trong đầu tư… đối với đối
tượng nghèo, gia đình khó khăn, gia đình thuộc diện chính sách, con em nông dân và đồng
bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số phải là bước đi đầu tiên trong hoạch
định chính sách cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một
nguyên tắc trong hoạch định chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
5.4. Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đó là trong q trình điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, cải tạo phạm nhân, bảo đảm rằng
mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh và suốt q trình
tiến hành tố tụng khơng được làm oan người vô tội. Người phạm tội phải bị đưa ra xét xử,
chịu hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội. Những mục đích của hình phạt lại không
phải chỉ là trừng trị mà giáo dục, cải tạo, răn đe và phịng ngừa tội phạm là mục đích ưu
tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp
quyền XHCN.

9


Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp
tận tâm, có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời

hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng,
cơ quan nhà nước, đoàn thể, nhân dân là rất cần thiết.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Quyền con người là nội dung lớn, phong phú và hết sức nhạy cảm. Cùng với sự phát
triển của nền văn minh thế giới, quyền con người ngày càng được hoàn thiện về mặt số
lượng và chất lượng. Sự ra đời của các cơ chế quốc tế để đảm bảo thực hiện quyền con người
đã đánh dấu sự phát triển quan trọng của quyền con người. Việt Nam đang trong quá trình
hội nhập quốc tế, thời gian qua chúng ta đã thực hiện nhiều cam kết quốc tế về quyền con
người đảm bảo quyền con người được thực thi đúng pháp luật và luật pháp quốc tế, nhằm tạo
điều kiện cho mọi người có sự phát triển tồn diện bản thân. Tuy nhiên bên cạnh thành tựu
thì cịn những hạn chế về quyền con người theo pháp luật Việt Nam đã nêu trên, cơ chế thúc
đẩy quyền con người chưa phát huy được hết chức năng của mình. Vì vậy cần phải hoàn
thiện hơn giải pháp thúc đẩy phát triển về quyền con người, đồng thời tranh thủ hợp tác với
cộng đồng quốc tế để thực hiện và đảm bảo các quyền con người.

10



×