Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận cao học tư tưởng chính trị chủ yếu trong tác phẩm “dân vận” của hồ chí minh ý nghĩa của các tư tưởng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.01 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Tác phẩm “Dân vận” đã khẳng định vị trí xứng đáng trong di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh, với giá trị đặc biệt, thể hiện xuyên suốt tư tưởng “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng”. “Dân vận” là tâm huyết Bác dành cho
mỗi cán bộ, đảng viên, khẳng định sâu sắc quan điểm dân vận là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, đồng thời phản chiếu sinh động, trọn vẹn cả tư
tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
Dân vận là bài báo được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào ngày 1510-1949 dưới bút danh X.Y.Z đăng trên Báo Sự thật, số 120, ngày 15-101949. Đây là thời điểm có những chuyển biến mới, địi hỏi công tác vận
quần chúng của Đảng phải đi vào chiều sâu, cụ thể, thiết thực nhằm động
viên tối đa sức người, sức của cho kháng chiến. Tác phẩm được in trong
Bộ Hồ Chí Minh tồn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr. 232.
Đây là một bài viết rất ngắn gọn, từ đầu đề (chỉ gồm hai từ), đến dung
lượng (chỉ 573 từ); được thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với quần
chúng; văn phong xúc tích, có tính khái qt cao; kết cấu mạch lạc, chặt chẽ,
sáng rõ, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ làm theo.
Tác phẩm chia thành bốn mục lớn, theo thứ tự từ I đến IV:
(1) Nước ta là nước dân chủ
(2) Dân vận là gì?
(3) Ai phụ trách dân vận?
(4). Dân vận phải thế nào?
I. Nước ta là nước dân chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất dân chủ của chế độ xã hội mới,
đó là:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
1


Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.


Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Sự nghiệp cách mạng của Đảng là lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu
tranh giành độc lập Dân tộc, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó
là một nhà nước tốt đẹp, trong đó người dân thực sự làm chủ.
Cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hành dân chủ là mục tiêu
động lực của cơng tác quần chúng, là cái “chìa khóa vạn năng” có thể giải
quyết được mọi khó khăn.

2


Nội dung
I. Dân vận là gì?
- Người đưa ra khái niệm: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành lực lượng tồn
dân, để thực hành những cơng việc Chính phủ và Đồn thể giao cho".Đó là
tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân (mọi người, mọi nhà,
mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng.
- Người đưa ra quy trình cơng tác dân vận:
+ Phải cho dân biết: Quyền làm chủ của nhân dân, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước, thơng tin thời sự, chính sách, cán bộ lãnh đạo, quản
lý mình.
+ Giải thích cho dân hiểu: "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải
thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm
vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được".
+ Bày cách cho dân làm: "phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa
phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành". Và "Trong lúc thi
hành phải theo dõi, giúp đỡ, đơn đốc, khuyến khích dân".

+ Tiến hành kiểm tra, kiểm soát: "Khi thi hành xong phải cùng với
dân kiểm thảo lại cơng việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng".
Theo Hồ Chí Minh, mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng, tâm
mới đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm, thì làm mới chóng. Đó chính là
khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà ngày nay chúng ta
thường đề cập tới.
II. Ai phụ trách dân vận?
Hồ Chí Minh chỉ rõ ai (lực lượng) làm công tác dân vận là: “tất cả cán
bộ chính quyền, tất cả cán bộ đồn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân
dân (Liên Việt, Việt Minh,v.v.) đều phải phụ trách dân vận”.Như vậy, lực
lượng làm công tác dân vận không chỉ là những người chuyên trách công tác
3


này, mà rất đông đảo, với nhiều tổ chức, cá nhân cùng tham gia. Đó chính là
sức mạnh nói chung, trên các phong trào cách mạng nói chung, trên các mặt
trận và lĩnh vực cụ thể nói riêng, trong đó có lĩnh vực dân vận.
Lực lượng làm cơng tác dân vận là lực lượng của cả hệ thống chính trị trước hết là của chính quyền. Điều ấy có nghĩa là, tất cả cán bộ chính quyền
đều phải làm dân vận. Đây là đặc điểm nổi bật của công tác dân vận khi Đảng
ta có chính quyền. Chính quyền của ta là cơng cụ chủ yếu của nhân dân.
Chính quyền khơng những chỉ phải làm dân vận mà cịn có nhiều điều kiện
làm công tác dân vận thuận lợi hơn.
III. Dân vận phải thế nào?
Đây chính là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt ra về phương pháp dân vận
với những yêu cầu rất cụ thể với cán cán bộ dân vận. Người đúc kết thành 12
từ: Đó là “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
- Ĩc nghĩ: Điều này được Hồ Chí Minh đặt ở vị trí hàng đầu, cho thấy
người đặc biệt đề cao trí tuệ và yêu cầu về sự “động não” của người làm công
tác dân vận.
Bác Hồ muốn khẳng định, công tác dân vận không chỉ là những thao

tác cụ thể, những cơng thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học -khoa học
về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người,
phải dày cơng tìm tịi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận
dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu
quả.
- Mắt trơng: Là quan sát mọi sự việc, hiện tượng từ thực tiễn phong
trào cách mạng của quần chúng, để “trăm nghe không bằng một thấy”. Với sự
nhạy cảm, tinh tế trong quan sát, kết hợp với “óc nghĩ” xác định được đúng,
sai, nhận rõ bản chất và hiện tựợng của từng sự việc, từng vấn đề để làm
đúng, tham mưu kịp thời cho Đảng và Nhà nước để có cách giải pháp đúng
đắn kịp thời đưa phong trào của quần chúng đi đúng hướng. Ở điểm này, Hồ
Chí Minh muốn nhắc nhở cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải
4


thường xun sâu sát cơ sở. Vì chỉ có sát cơ sở mới có thể “thấy” mọi sự việc,
vấnđề. Theo đó, muốn vận động quần chúng một cách thiết thực, muốn làm
tốt vai trò tham mưu phải “mục sở thị” được các sự việc và vấn đề liên quan
đến công tác dân vận.
- Tai nghe: Là một phương pháp khoa học của cơng tác dân vận, theo
Hồ Chí Minh cũng với “óc nghĩ”, “mắt trơng”, người làm cơng tác dân vận
cịn phải đồng thời nắm bắt kịp thời các thơng tin từ quần chúng. Địi hỏi phải
biết nghe dân nói, từ đó mà hiểu được những tâm tư, nguyện vọng chính đáng
của dân; loại trừ những thơng tin thiếu chân thực, chính xác. Nghe dân nói,
cũng là để biết dân đã hiểu gì, hiểu đến mức như thế nào, đã làm như thế nào
và làm được đến đâu. Về bản thân, mình cũng thấy được những gì cần phải
bổ sung, điều chỉnh khi thực hiện công tác dân vận.
- Chân đi: Là yêu cầu gắn với cơ sở, một đòi hỏi bức thiết, luôn đặt ra
đối với cán bộ dân vận, đây cũng là một yếu tố chống căn bệnh quan liêu,
hành chính, làm việc theo kiểu giấy tờ của các cơ quan. Hồ Chí Minh là tấm

gương mẫu mực ln ln hướng về cơ sở và gắn bó với cơ sở. Sinh thời, dù
bận trăm cơng, nghìn việc nhưng chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn ln dành thời
gian đi cơ sở để khảo sát tình hình thực tế, lắng nghe ý kiến của dân và trực
tiếp tháo gỡ những khó khăn nẩy sinh trong dân. Xuống với dân như về gia
đình mình, người tuyệt đối khơng muốn “cờ rong, trống mở” xe đưa xe
đón.Nhiều lần người đến thăm cơ sở nhưng không báo trước. người hết sức
nghiêm khắc với bệnh tơ vẽ, thổi phồng thành tích dẫn tới lừa dân, hại dân,
dối trên, lừa dưới của một số cán bộ mắc bệnh thành tích.
- Miệng nói: Là thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, nhất là tuyên tuyền
miệng, một hình thức tuyên truyền không thể thiếu của người làm công tác
dân vận. Người cán bộ dân vận phải thường xuyên có trách nhiệm tuyên
truyền, cổ động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, pháp luật,
văn hóa, xã hội và an ninh quốc phịng... Theo Hồ Chí Minh, để dân hiểu, dân
tin, dân ủng hộ và làm theo thì cơng tác tun truyền miệng phải đúng và phải
5


khéo. Nói với với dân phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực và cụ thể, tránh mệnh
lệnh, hơn thế, còn phải có thái độ mềm mỏng; đối với người già, các bậc lão
thành phải cung kính, lễ độ, với đồng chí, đồng bào phải đúng mực, nghiêm
trang, với nhi đồng phải thương yêu, quý mến.
- Tay làm: Là thể hiện quan niệm học đi đôi với hành, là gương
mẫu,làm gương trước cho quần chúng. Nếu nói là để dân nghe, thì làm là để
dân thấy, dân tin, dân học làm theo. Lời nói đi đơi với hành độnglà một u
cầu, một phương pháp hết sức quan trọng đối với cán bộ nói chung, cán bộ
làm cơng tác dân vận nói riêng. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
hai mặt của một vấn đề này. Người từng có hàng loạt bài viết, bài nói phê
phán những cán bộ, đảng viên “nói khơng đi đơi với làm”, “nói hay mà làm
dở” hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ rõ “cán bộ, đảng viên phải gương
mẫu, phải thiết thực, miệng nói, tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay

mà khơng làm thì nói vơ ích”.
Như vậy: “Mắt trơng, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực
tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp
dân giải quyết các cơng việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính
sách cho phù hợp, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách.
“Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay, “phải
thật thà nhúng tay vào việc”, khơng được nói một đằng, làm một nẻo, miệng
thì vận động người khác nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại. Bác
cũng nghiêm khắc phê phán “bệnh nói sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”.Đây
cũng thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng và hành động thường ngày Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
"Ĩc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" là có sự
thống nhất, hòa quyện chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Đó có thể coi
cẩm nang về phương pháp dân vận cho tất cả cán bộ, đảng viên trong công tác
dân vận.

6


Cuối cùng, Người khẳng định rõ tầm quan trọng của cơng tác dân
vận:“Dân vận kém thì việc gì cũng kém”. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành
cơng”.
* TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CHỦ YẾU TRONG TÁC PHẨM
- Đây có thể coi là “cương lĩnh dân vận” của Đảng cộng sản
Việt Nam có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần thiết trong mọi giai đoạn
cách mạng. Thể hiện rất rõ tư tưởng trọng dân và tin dân, phong cách quần
chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Lấy dân là đối tượng phục vụ và để phục vụ dân, Người luôn gần gũi
với nhân dân để thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí và thực
hành dân chủ.

- Quan trọng nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra quy trình và phương
pháp dân vận:
+ Quy trình: Phải cho dân biết; Giải thích cho dân hiểu; Bày cách cho
dân làm; Tiến hành kiểm tra, kiểm sốt.
+ Phương pháp dân vận: “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm”.
- Là cở sở lý luận để Đảng, Nhà nước ta đề ra các chủ trương, chính
sách về cơng tác Dân vận.
Tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân vận”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất coi trọng đến cơng tác dân vận. Ngay từ những ngày đầu cách mạng,
Hồ Chí Minh đã khẳng định công tác dân vận là một nhiệm vụ chiến lược, có
ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác dân vận được hình thành từ tình thương yêu nhân dân, thương yêu
con người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lịng phục vụ
nhân dân, đó là hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm
nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của Người. Những tư tưởng ấy
7


của Hồ Chí Minh được phát triển một cách hồn chỉnh trong tác phẩm Dân
vận đăng trên Báo Sự Thật số ra ngày 15-10-1949. Tuy tác phẩm Dân vận chỉ
có 573 từ, nhưng hàm chứa nhiều nội dung công việc thiết thực và cấp bách
với những chỉ dẫn quý báu về cách thức tiến hành công tác dân vận; không
những chỉ ra quan niệm về dân vận, mà còn nêu lên những quan điểm chỉ đạo
công tác dân vận, phương thức dân vận và lực lượng làm dân vận rất cụ thể,
dễ hiểu, dễ làm.
Ngay phần mở đầu, Hồ Chí Minh đã viết: “Vấn đề dân vận nói đã
nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu,
chưa làm đúng, cho nên cần phải nhắc lại” . Khẳng định trên của Người đến

nay vẫn mang tính thời sự đối với cán bộ, đảng viên, những người làm công
tác dân vận hôm nay. Cùng với những kết quả đạt được của công tác dân vận,
ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều cán bộ, đảng viên, những yếu kém trong thực
hiện công tác dân vận vẫn thường xảy ra. Trên thực tế, một số chủ trương,
chính sách chưa sát với thực tiễn và phù hợp với ý nguyện của đại đa số nhân
dân nên khi vừa mới ra đời đã phải điều chỉnh, bổ sung... đồng thời, những
hành động quan liêu, mệnh lệnh, vô cảm trước dân, thậm chí “phản dân vận”
như mối liên hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân bị xói mịn, tệ tham ơ,
tham nhũng, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... chưa được
ngăn ngừa kịp thời đã làm cho dân bất bình, ốn ghét, lịng tin của nhân dân
với Đảng, với chế độ bị giảm sút. Vì vậy, việc nghiên cứu, quán triệt nâng cao
nhận thức, ý thức về dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay quan trọng
hơn bao giờ hết.
1. Tư tưởng về dân chủ và vai trò của nhân dân - tiền đề của cơng
tác dân vận
Tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác dân vận dễ nhận thấy
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người ln ước mơ xây dựng
trên Tổ quốc mình một thiết chế dân chủ mới. Trong thiết chế dân chủ đó,
nhân dân sẽ là người chủ thật sự trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
8


xã hội, quốc phòng, an ninh...; cán bộ phải là người đầy tớ trung thành của
nhân dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ” vì Nhà
nước ta ra đời sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, là Nhà
nước do nhân dân ta làm chủ: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (2). Đây được coi
là điểm xuất phát, là tiền đề của công tác dân vận. Dân chủ là bản chất của
chế độ ta. Dân chủ vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của nhân dân. Đảng
cầm quyền phải coi “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”. Do đó, cơng

tác dân vận phải coi thực hiện dân chủ là nội dung chủ yếu nhất. Thực tiễn đã
minh chứng, chúng ta đã có nhiều bước tiến về thực hành dân chủ xã hội. Dân
chủ ở cơ sở đã được tập trung chỉ đạo, có những tiến bộ quan trọng. Dân chủ
trong bầu cử được coi trọng hơn. Hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp đã tiến bộ hơn trước song hiện nay dân chủ xã hội vẫn còn hạn chế.
Để xây dựng dân chủ, công tác dân vận nên tập trung góp phần xây dựng các
cơ chế dân chủ trong bầu cử, trong việc thông qua các quyết định, trong việc
tổ chức cho nhân dân tham gia quản lý, giám sát cũng như phát huy vai trò
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, trong
tuyên truyền nâng cao ý thức dân chủ và chấp hành pháp luật cho nhân dân...
có như vậy mới thể hiện rõ vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ nhân dân là lực lượng duy nhất, có đủ sức mạnh lật đổ cường quyền, bạo
lực của bọn áp bức bóc lột để giành lấy chính quyền. Người kêu gọi: “Tồn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” (3). Mọi
cơng việc dựng nước và giữ nước, làm cho dân giàu, nước mạnh đều là trách
nhiệm của nhân dân. “Nếu khơng có nhân dân thì khơng có lực lượng”, khơng
có thắng lợi, mọi cơng việc to nhỏ dù “dễ mười lần không dân cũng chịu”
nhưng “khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Rõ ràng, nhân dân là nền tảng, là
gốc của cách mạng và “Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân”. Như vậy, nếu khơng có nhận thức đúng đắn về vai trò của nhân
9


dân thì khó có thể tiến hành “dân vận khéo” được và mn việc cũng khó
thành cơng.
2. Thường xun quan tâm chăm lo lợi ích cho nhân dân - nội dung
cốt lõi của công tác dân vận
Trong tác phẩm “Dân vận”, Hồ Chí Minh đã nêu ra một nguyên lý:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Nhấn mạnh điều này, Người muốn khẳng định

nội dung cốt lõi của công tác dân vận là tất cả vì lợi ích của nhân dân. Ngồi
lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, Đảng ta khơng có lợi ích
nào khác. Đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu trong toàn bộ vấn đề là quan
điểm sâu sắc, hiện đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng “Nước ta là
nước dân chủ”. Người luôn căn dặn, nhắc nhở cán bộ, đảng viên và các tổ
chức đảng, đoàn thể các cấp phải thường xuyên chăm lo giải quyết các vấn đề
dân sinh, dân chủ, dân trí và giải phóng con người. Người nói: “Chính phủ và
Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích
của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (4) và “việc gì có
lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” (5).
Đó cũng chính là mục đích của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cả đời tơi chỉ có một
mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Do
vậy, công tác dân vận cần hết sức coi trọng yếu tố lợi ích trong phát động các
phong trào, các cuộc vận động, quan tâm sâu sắc đến những lợi ích cụ thể của
quần chúng, bảo vệ lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân, nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trường. Đồng thời, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân cần phải được thể chế hóa, cụ thể hóa trong chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải được bảo đảm trên thực tế và
cần coi trọng uốn nắn những nhận thức lệch lạc chỉ thấy lợi ích cá nhân, lợi
ích cục bộ, khơng thấy lợi ích tồn cục, lợi ích cộng đồng, tập thể...
3. Đại đoàn kết toàn dân tộc - một tư tưởng nổi bật, trở thành đường
lối cơ bản của Đảng ta

10


Đồn kết, tập hợp lực lượng khơng chỉ là nhiệm vụ cơ bản của cơng tác
dân vận, mà cịn là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Trong tác phẩm Dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân vận là
vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một người

nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm,
những cơng việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho” (6). Vậy, tất cả lực
lượng của mỗi người dân là thế nào? Đó là vấn đề ngày nay chúng ta gọi là
nguồn lực con người, nhân tố con người. “Khơng bỏ sót một người nào” - đó
là Người muốn đề cập đến tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc với tinh thần
triệt để nhất. Như vậy, công tác dân vận phải đi vào từng con người, khơi dậy
và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và tự giác của mỗi con người,
thể hiện ở tài trí, sức lực, vật chất mà mỗi con người góp vào cơng việc
chung. Dân vận khơng phải chỉ giáo dục, động viên chung chung, mà phải
hiểu rõ năng lực, yêu cầu, nguyện vọng, hoàn cảnh cụ thể của mỗi con người,
từ đó mới vận động được tất cả lực lượng của mỗi người dân. Đó là chiều sâu
của dân vận. Nhưng dân vận lại phải không được để sót bất cứ một người nào.
Do đó, các hình thức tập hợp nhân dân phải hết sức đa dạng để đoàn kết mọi
người dân, mọi lứa tuổi vào tổ chức. Khác với thời kỳ chưa có chính quyền,
cơng tác dân vận chỉ có điều kiện đi vào các đối tượng tiên tiến, giác ngộ, nay
phải đi đến với mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng. Cũng khác với thời kỳ
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, công tác dân vận thường tập trung vào đối
tượng quần chúng trong kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, nay trong kinh tế
thị trường, các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng, cơ cấu giai cấp - xã hội
cũng hết sức phong phú, công tác dân vận cũng phải chú ý phát huy tác dụng
trong các đối tượng rộng rãi như trong kinh tế tư nhân, kinh tế cổ phần, kinh
tế có vốn đầu tư của nước ngồi... Đây là bề rộng, là yêu cầu cao của công tác
dân vận. Làm được như vậy mới tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
11


4. Phẩm chất và phong cách người cán bộ dân vận
Bàn về phong cách làm việc của người cán bộ dân vận, Người đúc kết

thành 12 từ: “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu, Hồ Chí Minh muốn khẳng định, công tác
dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những cơng thức có sẵn mà bản
thân nó là một khoa học - khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật
tiếp cận và vận động con người. Đó là tầm cao trí tuệ của người làm cơng tác
dân vận. Cho nên phải dày cơng tìm tịi suy nghĩ để phân tích chính xác tình
hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để vận dụng
vào thực tiễn vận động nhân dân có hiệu quả. Muốn vậy, hoạt động dân vận
phải coi trọng khả năng tuyên truyền, giáo dục, thu phục, thuyết phục quần
chúng; khả năng nắm bắt tâm tư nguyện vọng, tình cảm của nhân dân để tham
mưu, đề xuất cho Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành các chủ trương, đường
lối, chính sách hợp lịng dân, đồng thời kịp thời ngăn chặn mặt tiêu cực phát
sinh trong quần chúng nhân dân, góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
“Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu người làm công tác dân vận
cần sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe và hiểu tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân; biết loại trừ những thông tin nhiễu,
thiếu chân thực, không khách quan, không đúng sự thật mà giúp dân giải
quyết các công việc cụ thể, đề xuất hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
Đồng thời, tiến hành công tác dân vận tuyệt đối không được quan liêu, hành
chính nặng về làm việc theo kiểu giấy tờ, chỉ ngồi nghe điện thoại, nhận báo
cáo rồi nhận định, phán xét chủ quan... dẫn tới tô vẽ, thổi phồng thành tích;
nghe dân nói, nhưng khơng theo đi quần chúng mà phải biểu thị được thái
độ vừa cầu thị vừa định hướng, dẫn dắt, vận động nhân dân thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương.

12



“Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay của người
làm cơng tác dân vận. Vì vậy, “phải thật thà nhúng tay vào việc”, thường
xuyên có trách nhiệm tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội và quốc phịng, an ninh...
khơng được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác
nhưng mình thì khơng làm hoặc làm ngược lại.
Đối lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối “chỉ nói sng, chỉ
ngồi viết mệnh lệnh”, tức là nói mà khơng làm và nếu có làm thì chỉ làm theo
lối quan liêu “bàn giấy”. Theo Người: “Cái lối làm việc như vậy rất có hại.
Nó làm cho chúng ta khơng đi sát phong trào, khơng hiểu rõ được tình hình
bên dưới, cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được
đến nơi đến chốn” (7). Theo Hồ Chí Minh, người làm dân vận phải thật thà
“nhúng” tay vào việc, tức là làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động,
cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân, coi trọng hiệu
quả công việc, lấy hiệu quả của cơng việc làm thước đo, mục đích của cơng
tác dân vận. Nếu “chỉ nói sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì làm sao hiểu
được dân, làm sao “vận” được dân, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật
sự.
5. Mấy vấn đề đặt ra đối với đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận
hiện nay
Từ Nghị quyết Ðại hội lần thứ IX đến Ðại hội lần thứ XII của Ðảng đều
đã khẳng định: Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Ðảng ta luôn ln
giương cao ngọn cờ đại đồn kết tồn dân tộc. Ðó là đường lối chiến lược, là
nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó
đã làm tăng thêm niềm tin tưởng của nhân dân vào Ðảng và công tác dân vận
trong giai đoạn mới có nhiều thuận lợi, góp phần quan trọng vào sự thành
công của sự nghiệp đổi mới.
Nhắc lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc dân vận rất quan trọng.
Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành
13



công”. Tất nhiên, cốt lõi thành công trong công tác dân vận nằm ở người cán
bộ làm công tác dân vận. Người từng nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Ðó là
lời chỉ dạy đối với cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ làm cơng tác dân vận
nói riêng. Vì vậy, để cơng tác dân vận thành công hơn, theo chúng tôi, cần
quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận hiện nay có những phẩm chất, tiêu
chuẩn sau:
Cán bộ dân vận phải có trí tuệ, đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ
Chí Minh muốn khẳng định cơng tác dân vận không chỉ là lao động cụ thể,
đơn thuần. Dân vận vừa là khoa học trong chính trị - xã hội, vừa là nghệ thuật
trong tiếp cận, giao tiếp, vận động, thuyết phục giữa con người với con người.
Vì vậy, cán bộ dân vận phải dày cơng tìm tịi, nghiên cứu, suy nghĩ, tư duy
thấu đáo mới phát hiện và giải quyết được những vấn đề đặt ra, góp phần
hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Cán bộ dân vận phải có uy tín, giỏi tun truyền, thuyết phục. Uy tín là
phẩm chất hàng đầu của người làm cơng tác dân vận. Để được nhân dân hiểu,
tin tưởng và làm theo thì nhất định người cán bộ làm cơng tác dân vận phải có
uy tín. Uy tín của người làm công tác dân vận, nhất là cán bộ ở cơ sở hằng
ngày tiếp xúc, giải quyết công việc trực tiếp với nhân dân lại càng quan trọng.
Đồng thời, giỏi tuyên truyền, thuyết phục cũng là phẩm chất không thể thiếu
của cán bộ làm dân vận. Cần thuyết phục bằng cả lời nói và việc làm, phải
thống nhất trong nhận thức và hành động. Phải nâng cao khả năng dùng ngôn
ngữ phù hợp với địa phương, vùng miền, dân tộc; phải hiểu được ít nhiều
ngơn ngữ địa phương mới có thể vận động, thuyết phục nhân dân có hiệu quả.
Cán bộ dân vận phải có tác phong quần chúng. Phải “trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân
hiểu, làm dân tin”. Có trọng dân thì người cán bộ mới thật sự xứng đáng là
người lãnh đạo, người đày tớ của nhân dân; mới đến với dân như người thầy,

người chủ của mình. “Gần dân” là địi hỏi khách quan của người cán bộ dân
14


vận. Những người có phong cách gần dân sẽ tránh được căn bệnh quan liêu,
hách dịch, mệnh lệnh; mới hiểu được cuộc sống tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng của người dân và mới tham mưu đúng, trúng cho cấp ủy đảng, chính
quyền những chủ trương, chính sách phù hợp với lịng dân. Muốn “học dân”
thì người cán bộ phải thực sự biết lắng nghe, khiêm tốn, cầu thị. Chính nhân
dân là những người sáng suốt, nhiều kinh nghiệm trong đối nhân xử thế, sáng
tạo ra cuộc sống, làm nên lịch sử. Cán bộ dân vận muốn thực sự đến với nhân
dân, muốn trở thành người đày tớ của nhân dân thì phải có trách nhiệm với
nhân dân, mọi việc đều vì hạnh phúc của nhân dân; việc gì có lợi cho nhân
dân thì phải cương quyết làm, việc gì có hại cho nhân dân thì phải cương
quyết tránh như Người đã dạy.
Cán bộ dân vận phải biết nêu gương. Người yêu cầu cán bộ phải gương
mẫu, cùng với nhân dân thực hiện cơng việc, đồng thời phê phán “bệnh nói
sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, nói khơng đi đơi với làm, ít đi cơ sở, thiếu
sâu sát nhân dân của một số cán bộ, trong đó có cán bộ làm công tác dân vận.
Đối với tổ chức đảng và cơ quan chức năng có liên quan cần quan tâm
xây dựng và cụ thể hóa tiêu chuẩn, phong cách cán bộ dân vận. Phải nhận
thức rõ, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận là cán bộ thuộc các ban xây
dựng Đảng. Do đó, cần tuân thủ những tiêu chuẩn chung trong chiến lược cán
bộ thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa VIII) và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) của Đảng đã quy
định. Ngoài những tiêu chuẩn chung, cần xác định rõ tiêu chuẩn chính của hệ
thống đội ngũ cán bộ dân vận từ Trung ương đến cơ sở là công tác tham mưu
cho cấp ủy đảng về công tác vận động quần chúng, nên trước hết phải lựa
chọn người có nhận thức đúng về vai trị của cơng tác dân vận, tự nguyện, tâm
huyết với công việc được giao, sống thật sự với cuộc sống và sinh hoạt hằng

ngày của nhân dân. Mặt khác, phải đưa cán bộ làm công tác dân vận vào rèn
luyện, trưởng thành từ phong trào quần chúng, được nhân dân tín nhiệm, tin
yêu. Bởi người cán bộ dân vận có từ nhân dân mà ra, có lăn lộn “cùng ăn,
15


cùng ở, cùng làm, cùng nói” với dân, có trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân
và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, dân u...
mới có “chiếc chìa khóa” đi vào lịng dân - nhân tố quan trọng góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả cơng tác dân vận. Ðó cũng là một trong những yếu
tố để thực hiện tốt việc “dân vận khéo”. Mà “dân vận khéo” thì việc gì cũng
thành cơng, từ đó mà tích lũy cho mình được nhiều kinh nghiệm q, giúp ích
cho cơng tác dân vận của mình. Đồng thời, phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ dân vận tồn diện cả về chun mơn, nghiệp vụ và lý luận chính trị...
đáp ứng địi hỏi của u cầu, nhiệm vụ cơng tác dân vận trong tình hình mới
theo đúng quan điểm của Ðảng, đó là kiên định với đường lối đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần tạo mọi điều kiện để cán bộ dân vận được
học tập và tiếp thu các tri thức mới; có chính sách, cơ chế để cán bộ đi học
nâng cao trình độ; có chế tài bắt buộc cán bộ phải tự học, tự bồi dưỡng thông
qua hoạt động hằng ngày để khơng ngừng nâng cao năng lực, trình độ, kỹ
năng công tác vận động nhân dân...
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong bối cảnh đất nước
ta đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, chúng ta càng thấm nhuần sâu sắc kết luận có tính khái quát của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì
việc gì cũng thành cơng”.
IV. BÁC HỒ VỚI CƠNG TÁC DÂN VẬN
Sách “Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử” ghi lại câu chuyện về Bác: Một
ngày tháng 8-1949, thị xã Bắc Cạn mới được giải phóng (ngày 9-8-1949), trên
đường đi Ngân Sơn, Bác Hồ đã nghỉ tại Nà Phạc. Lúc này, dân ở đây đi sơ tán

chưa dọn về. Cán bộ huyện dựng tạm lán cho Bác ở qua đêm. Chỉ tay vào căn
lán mới dựng, Bác hỏi: nhà này nhà ai? Cán bộ địa phương thưa: Cách đây
năm, ba cây số mới có lán ở của dân, chúng cháu dựng tạm lán này cho Bác
nghỉ chân. Bác nghiêm sắc mặt phê bình: “Thế là các chú làm cho Bác xa
dân! Chỉ có năm, ba cây số, nhân dân đi lại được, sao Bác không đi được”.
16


Anh em cán bộ địa phương lúng túng nhìn nhau trước lời trách nhẹ nhàng của
Bác. Và ngay sáng sớm hôm sau, Bác yêu cầu đưa Người đi bộ vào thăm hỏi
đồng bào ở nơi sơ tán. Một lần khác, trong chuyến đi công tác tại tỉnh Hà
Đông, Bác xuống tát nước cùng nông dân ngay trên bờ ruộng. Một đồng chí
lãnh đạo tỉnh cũng xuống cầm dây gầu nhưng lóng ngóng khơng sao tát được
nước. Bác Hồ khơng nói gì. Chỉ riêng một chi tiết này thơi cũng khiến chúng
ta phải ngỡ ngàng và đặt câu hỏi: "Tại sao Bác xa đất nước hơn 30 năm, từ
ngày còn là anh thanh niên Nguyễn Tất Thành 20 tuổi, lại sinh trưởng trong
một gia đình nhà Nho, nhưng cơng việc nhà nơng Bác vẫn rành rẽ. Đó lẽ nào
khơng phải là trọng cái gần dân, không xa rời nhân dân, gắn bó mật thiết với
nhân dân"…. Trong phong cách sinh hoạt hằng ngày của Bác nói lên tư tưởng
lớn “dân là gốc”, tốt lên phong cách “thường xun gắn bó với nhân dân” rất
rõ nét. Bác cho rằng: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì
cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”. Bác vạch rõ “khuyết
điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận” và Bác đòi hỏi “tất cả cán bộ
chính quyền, tất cả cán bộ đồn thể và tất cả các hội viên của các đoàn thể
nhân dân … đều phải phụ trách dân vận”; “cần phải óc nghĩ, mắt trơng, tai
nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, ngày 3-6-2013, Trung ương Đảng đã
ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới đã tạo điều kiện cho công
tác dân vận của Đảng phát triển sâu rộng hơn. Đây là Nghị quyết có tầm quan

trọng đặc biệt và ý nghĩa to lớn về công tác dân vận trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức Đảng tỉnh Lâm Đồng luôn quan tâm
xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ dân vận; đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng công tác dân vận cho cán bộ Mặt
trận, đoàn thể; phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên
gắn với xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở. Cán bộ, cơng chức phát huy
17


năng lực, chất lượng tham mưu, tổ chức thực hiện nhiệm vụ được nâng lên;
có tác phong sâu sát cơ sở, năng động. Định kỳ, tổ chức rà soát, đánh giá, biểu
dương mơ hình “Dân vận khéo”, gương điển hình tiên tiến trong công tác dân
vận. Nhiều vụ, việc nổi cộm kéo dài thông qua hoạt động tổ dân vận đã giải
quyết thấu đáo, có lý, có tình.
Kinh nghiệm trong công tác tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với cơng tác dân vận trong tình hình mới, đáng chú ý là: Phải có sự
lãnh đạo kịp thời, thường xuyên của cấp ủy Đảng, chỉ đạo và cụ thể hóa của
chính quyền về cơng tác dân vận thành những quy định, quy chế cụ thể trên
từng lĩnh vực, sát thực tiễn; đồng thời nâng cao trách nhiệm trong cơng tác
tham mưu. Chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết phải gắn với thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống nhân dân. Người
đứng đầu cấp ủy, chính quyền, thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc, đối thoại với
nhân dân, nắm bắt kịp thời và có biện pháp giải quyết dứt điểm, hiệu quả
những bức xúc của nhân dân. Một kinh nghiệm quan trọng nữa là phải xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức có tinh thần, trách
nhiệm, gương mẫu “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm
với dân”, biết “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, nhằm nâng cao ý
thức trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Cảm nhận về bài báo Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về các gương

điển hình Dân vận khéo ở cơ quan, đơn vị
Nhìn lại quá trình và sự sự trưởng thành của vơ vàn người làm cơng tác
Dân vận mà tơi được biết, có thể nhìn thấy thành quả lớn lao mà cơng tác Dân
vận đã tạo dựng được hết sức cụ thể. Qua công tác Dân vận, đó là sự lắng
nghe, quan tâm, chia sẻ, vượt qua bao khó khăn thách thức để nỗ lực thực
hiện hoàn thành những nhiệm vụ trên từng lĩnh vực kinh tế- chính trị – văn
hóa – xã hội. Từ q trình đó, người cán bộ Dân vận dần trưởng thành, thay
đổi dần những hạn chế của bản thân, mà không biết từ lúc nào sự gần gũi,
thấu hiểu, sâu sát với nhân dân trở thành đặc điểm trong không chỉ phong
18


cách, tác phong mà còn trong cả nhân cách sống, khiến ai tiếp xúc cũng tin
tưởng, yêu quý. Dù biết rằng hiện nay, bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác Dân vận nói chung vẫn cịn rất nhiều thách thức và hạn chế, tồn tại.
Nhưng những cảm nhận từ thực tế sống và làm việc đó, với tơi mang theo cả
niềm tin yêu, trân trọng đối với công tác Dân vận mà bản thân đã gắn bó là
nghề, là nghiệp suốt hơn 10 năm qua. Việc cần làm đối với công tác Dân vận
hiện nay là phải tiếp tục nhìn thấy, nhận ra những hạn chế, tồn tại để điều
chỉnh, thay đổi sao cho thực sự hiệu quả, đáp ứng được u cầu thực tế đang
đặt ra.
Vậy thì, cơng tác Dân vận hiện nay có những hạn chế gì?
Trong tác phẩm Dân vận khéo, Bác đã căn dặn: “Những người phụ
trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay
làm. Chứ khơng phải chỉ nói sng, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà
nhúng tay vào việc”. Đó chính u cầu, là phẩm chất tiên quyết, có thể nói
cịn là nhân tố tạo nên sự khác biệt trong tính chất cơng việc người làm công
tác Dân vận với công việc, nhiệm vụ khác như cán bộ hành chính, cán bộ văn
thư,… Tuy nhiên, 70 năm trôi qua với biết bao thăng trầm, biến đổi trong đời
sống xã hội, nhìn lại, ta vẫn có thể nhận thấy đây vẫn chưa là đặc điểm phổ

biến, mà vẫn là hạn chế của người làm công tác Dân vận. Đối với công tác
vận động, giáo dục thanh thiếu nhi, mảng đối tượng trẻ trung, tiếp thu nhanh
với cái hay, cái mới thì sự thay đổi, “chuyển động” của cán bộ công tác thanh
thiếu nhi cũng rất rõ nét. Sự năng động, thích nghi, chịu lắng nghe, chịu học
hỏi… dễ nhận thấy ở từng cán bộ Đoàn-Hội-Đội đã khiến cho phong trào
thanh thiếu nhi vẫn giữ được rất nhiều ưu điểm vượt trội trong thời đại hiện
nay, được sự đánh giá, thừa nhận của các cấp ủy, của xã hội. Tuy nhiên, vẫn
còn cần quyết liệt, triệt để hơn nữa trong cơ chế thi đua, trong cách thực triển
khai thực hiện các phong trào, hoạt động,… hàng năm hay cả nhiệm kỳ, giai
đoạn. Bởi quá trình thực hiện vẫn cho thấy những “khập khễnh” trong chỉ đạo
với thực tiễn đời sống, nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng của thanh thiếu
19


nhi. Làm sao để bệnh thành tích, tính hình thức trong tổ chức thực hiện phong
trào thanh thiếu nhi thực sự được khắc phục, được xóa bỏ? Điều đó phụ thuộc
vào bản thân từng người cán bộ cụ thể, tại từng địa phương, đơn vị cụ thể, họ
chính là chủ thể quyết định cách thức, phương pháp, cách tiếp cận với nhu
cầu, mong muốn của thanh thiếu nhi. Do đó, không thể chỉ cho rằng nguyên
nhân từ các cấp chỉ đạo, định hướng mà yếu tố quyết định chất lượng Dân vận
cịn xuất phát từ chính mỗi bản thân cán bộ. Để người làm Dân vận có thể
thực hiện được phương châm “Ĩc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng
nói, tay làm” phải dành cho họ khoảng thời gian, môi trường, điều kiện để họ
suy ngẫm, thực hiện, để họ thực sự làm “Dân vận”. Khi thời gian hội họp, giải
quyết các cơng việc hành chính, sự vụ sự việc, những công việc chung,…
chiếm hầu hết quỹ thời gian, nguồn lực nhân sự và cả tài chính của các tổ
chức làm cơng tác Dân vận thì thật khó khi họ chun tâm “Ĩc nghĩ, mắt
trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”
Nhìn lại cơng tác thanh thiếu nhi chúng ta, việc giải đáp cho bài tốn
đồn kết, tập hợp, giáo dục, bồi dưỡng cho thanh thiếu nhi trong điều kiện

kinh phí, nhân lực, cơ chế, chính sách nhất định song song với ngày càng
nhiều hơn thách thức, khó khăn… được giao cho những cán bộ trẻ, chưa trải
qua nhiều kinh nghiệm thực tiễn, chưa nhuần nhuyễn tất cả phương pháp
tham mưu, làm việc, vận động thanh thiếu nhi. Cho nên, thiếu sự dìu dắt, sâu
sát, quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo cấp ủy, thì sẽ như Bác đã phân tích:
“Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc
vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt,
vận khơng được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự
cho mình khơng có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”.
Những khó khăn trong cơng tác Dân vận đặt ra ngày càng nhiều hơn
với tính chất ngày càng khó khăn, phức tạp hơn nữa. Chúng ta boăn khoăn,
tìm kiếm giải pháp, và có một khuynh hướng được quan tâm nhiều đó chính
là tìm kiếm các mơ hình mới, cách làm hay. Đây là một hướng đi không sai.
20



×