Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận dư luận xh tt chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.31 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Dư luận xã hội là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá
của các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tượng thể hiện
lợi ích cấp bách trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. ý nghĩa của việc
nghiên cứu dư luận xã hội được khẳng định: Là công cụ để mở rộng quyền
làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân chủ; tăng cường mối quan hệ với
Đảng, Nhà nước và nhân dân; thực hiện quản lý xã hội trên cơ sở khoa học.
Dư luận xã hội được phát hiện bằng các phương pháp xã hội học như:
trưng cầu ý kiến bằng câu hỏi, phân tích tư liệu của báo chí, các báo cáo, phản
ánh của các cấp... Hệ thống thơng tin đại chúng có vai trị đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành, định hướng và thể hiện dư luận xã hội. Vai trò ấy được
biểu hiện là phương tiện của các thiết chế xã hội nhằm bảo đảm phổ biến
thông tin quy mô đại chúng (các luật, nghị định, quyết định, các vấn đề kinh
tế, xã hội...); và diễn đàn toàn dân tập hợp các tư tưởng, ý kiến, kinh nghiệm
của quần chúng, hình thành các chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị phù
hợp với các mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới.
Báo chí truyền thơng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có vai trị to
lớn trong việc nắm bắt, hình thành và định hướng dư luận xã hội, đặc biệt
trong q trình truyền thơng chính sách. Đây là một phương thức truyền
thông đặc biệt quan trọng, là cầu nối giữa giúp Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Đồng thời, báo chí cịn cung cấp cho nhân dân những thơng tin tồn diện,
chính xác và bổ ích thơng qua định hướng đúng dư luận xã hội.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THÔNG VÀ DƯ LUẬN
XÃ HỘI
1.1. Hệ thống truyền thơng đại chúng có vai trị đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành và định hướng dư luận xã hội


Hệ thống truyền thông đại chúng là phương tiện của một thiết chế xã
hội nhằm đảm bảo phổ biến thông tin trên quy mô đại chúng. Công cuộc đổi
mới hiện nay đặt ra những yêu cầu mới đối với các phương tiện truyền thông
đại chúng. Hệ thống này đã trở thành diễn đàn của nhân dân, thể hiện các ý
kiến khác nhau, chứa đựng trong nó những tâm tư, nguyện vọng và thái độ
phán xét của các nhóm xã hội, các cá nhân; tập hợp các tư tưởng, ý kiến, kinh
nghiệm của quần chúng, hình thành các chuẩn mực đạo đức và định hướng
giá trị phù hợp với các mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới. Chính
Các Mác đã chỉ ra rằng: Sản phẩm của truyền thông là dư luận xã hội. Đặc
điểm của hệ thống truyền thông đại chúng là các tin tức từ hệ thống này được
truyền đến công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn. Nó vừa phải hướng
tới các đối tượng cơng chúng nói chung và các nhóm công chúng cụ thể.
Các phương tiện truyền thông đại chúng hướng đến việc hình thành và
định hướng dư luận xã hội, đồng thời hệ thống này cũng là kênh thể hiện dư
luận xã hội. Sự hình thành dư luận xã hội thơng qua các phương tiện truyền
thơng đại chúng có mối liên hệ ngược (feedback). Các phương tiện này không
chỉ tạo nên dư luận xã hội, mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng tác động trở
lại tới hoạt động của hệ thống truyền thơng đại chúng, vì trong lĩnh vực thông
tin, sự phân chia giữa người truyền tin (chủ thể) và người nhận tin (khách thể)
là rất tương đối và thường diễn ra đồng thời.

2


1.2. Truyền thơng hình thành và định hướng dư luận xã hội
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại, kéo theo sự phát triển
của các phương tiện truyền thông đại chúng, mọi sự kiện lớn nhỏ xảy ra trong
nước đều nhanh chóng có ảnh hưởng dư luận trong cả nước. Bởi vậy, cơng tác
nắm tình hình diễn biến tư tưởng và dư luận xã hội của mọi tầng lớp nhân
dân, phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước là một việc rất

quan trọng. Bên cạnh nguồn thông tin từ đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội,
những thông tin dư luận xã hội trên báo chí có vai trị quan trọng để Đảng và
Nhà nước có thêm những thơng tin cần thiết, từ đó quản lý tốt hơn. Như vậy,
vai trị của báo chí trong hình thành và định hướng các dư luận xã hội, góp
phần giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống xã hội của các tầng lớp
nhân dân thông qua việc chuyển tải những thông tin hai chiều, nhiều chiều từ
Đáng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và ngược lại, từ đó hâm nóng lên dư
luận xã hội một cách tích cực.
Ngồi ra, các tin tức từ hệ thống báo chí truyền thơng được truyền đến
cơng chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp. Nó vừa phải hướng
đến đối tượng cơng chúng nói chung, vừa phải quan tâm tới nhu cầu thông tin
của các nhóm cơng chúng cụ thể. Hoạt động của báo chí ln chịu sự tác
động từ hai phía, phía thứ nhất là các thiết chế xã hội mà tờ báo đó là cơng cụ,
là cơ quan tun truyền, và phía thứ hai là cơng chúng báo chí. Mối quan hệ
giữa báo chí và cơng chúng trong q trình hình thành và thể hiện dư luận xã
hội có tính chất biện chứng. Một mặt, báo chí nhằm thỏa mãn những nhu cầu
ngày càng tăng của bạn đọc, mặt khác, bản thân công chúng lại đặt ra các yêu
cầu mới đối với hoạt động của hệ thống báo chí. Sự trưởng thành trong mối
quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị – xã hội của bản thân hệ thống báo
chí và của cơng chúng báo chí. Mỗi tờ báo với cơ quan chủ quản khác nhau
có nhiệm vụ cung cấp tới bạn đọc những loại thông tin khác nhau, phù hợp
với định hướng và tơn chỉ mục đích của riêng mình.

3


Báo chí truyền thơng ngày này đã đạt được hiệu quả tun truyền cao,
đó là vừa thơng tin kịp thời những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và thành phố đến mọi người dân, vừa phản ánh trung thực, khách quan ý
kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đến với các cấp lãnh đạo, tạo thông

tin đa chiều, góp phần hình thành và định hướng dư luận xã hội theo hướng
vừa đảm bảo lợi ích của nhân dân vừa thể hiện trách nhiệm của nhân dân
trước những vấn đề lớn của thành phố. Đây cũng là kết quả đáng ghi nhận các
tờ báo và cơ quan báo chí.
Dư luận xã hội là một hiện tượng có ý nghĩa trong đời sống xã hội, do
đó nó cũng là một đối tượng quan trọng để báo chí phản ánh. Mặt khác, dư
luận xã hội biểu lộ thái độ, tình cảm, nhận thức của công chúng trong xã hội
về những vấn đề cụ thể. Truyền thơng có khả năng và trách nhiệm chuyển tải
thái độ, nhận thức, tình cảm ấy đến bộ máy công quyền nhằm phát ra thông
điệp cần thiết, giúp bộ máy ấy điều chỉnh, xử lý những vấn đề dư luận quan
tâm.
Báo chí truyền thơng ln được coi là lực lượng chủ lực và xung kích
trên mặt trận tư tưởng, tạo sự thống nhất và liên kết trong xã hội nhằm giải
quyết các nhiệm vụ xã hội. Công tác tư tưởng thực chất là việc tác động vào ý
thức của con người nhằm hình thành và củng cố hệ tư tưởng chính trị lãnh
đạo xã hội.
Cơ sở lý luận báo chí đã chỉ ra, báo chí là phương tiện thông tin tác
động đến đông đảo công chúng một cách thường xuyên, liên tục nhất. Hoạt
động của báo chí ln gắn với chính trị, mục đích của báo chí là mục đích
chính trị, báo chí lơi kéo, tập hợp, giáo dục và thuyết phục, tổ chức đông đảo
Nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề về kinh tế – văn hóa – xã hội. Báo
chí tun truyền thơng qua sự kiện và vấn đề thời sự, lựa chọn thơng tin sự
kiện, qua đó tác động đến nhận thức của công chúng theo định hướng tư
tưởng đã được hoạch định.
4


Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, báo chí là cơng cụ đắc lực của
Đảng với thơng tin nhanh chóng nhất, phổ cập nhất, phản ánh một cách chủ
động và trung thực mọi mặt của đời sống xã hội; thông tin cập nhật tình hình

trong nước và quốc tế. Báo chí là diễn đàn của Nhân dân, thường xuyên tiếp
xúc với Nhân dân và góp phần giải đáp những vấn đề mới do cuộc sống đặt
ra. Báo chí gắn bó mật thiết với Nhân dân, không chỉ thực hành chức năng
phản ánh xã hội, cung cấp thông tin, luận cứ hướng dẫn tư tưởng và hoạt động
cho người đọc, người xem, người nghe mà còn phục vụ nhu cầu giải trí, nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân. Báo chí thực sự là vũ khí sắc bén, hiệu
quả trong mọi mặt đời sống chính trị – xã hội.
Đây là một thực tế đã được chứng minh trong nhiều giai đoạn lịch sử,
đặc biệt trong công cuộc đổi mới và hội nhập hiện nay. Một số cơ quan báo
chí xa rời tơn chỉ, mục đích, thiếu tính định hướng, ảnh hưởng khơng tốt đến
uy tín của giới báo chí. Những sai sót này xảy ra ở nhiều mức độ, nhiều hình
thức khác nhau, song ít nhiều đã gây hiệu ứng không tốt trong đời sống xã
hội, cần được nhận thức và chấn chỉnh kịp thời.
Việc nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là một khoa học. Với báo chí,
truyền thơng thì đây là một việc mới. Nếu khơng có phương pháp làm khoa
học, chặt chẽ thì khơng thể phản ánh, hình thành và định hướng dư luận xã
hội một cách đầy đủ, đúng đắn.
Một cơ quan truyền thông muốn nắm bắt và góp phần hình thành, định
hướng dư luận xã hội (theo đúng nghĩa của khoa học này) thì phải biết tổ chức
công việc ngay trong cơ quan báo chí, phải có chỉ đạo, có bộ máy nhất định,
có người chuyên theo dõi, tổng hợp... Trong thực tế, nhiều cơ quan báo chí
chưa có ý thức đầy đủ về cơng tác này, vì vậy gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Đôi khi truyền thông tiếp nhận và phản ánh thông tin một chiều nên
không phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân.Vì
vậy, trong hoạt động thực tiễn, các tờ báo thường phải điều chỉnh, cân đối,
5


sắp xếp các mặt thông tin cho phù hợp, vừa đảm bảo định hướng chính trị,
vừa tạo sự hấp dẫn công chúng. Ở một số địa bàn, sự tham gia của quần

chúng đối với các sinh hoạt chính trị xã hội chưa được mở rộng, người dân
chưa có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng nên báo
chí chưa thực sự phát huy hết tác dụng hình thành và định hướng dư luận xã
hội cho nhân dân.
Trong những năm qua, truyền thơng thường xun đóng vai trị là một
kênh thơng tin quan trọng cung cấp thơng tin nhiều mặt của đời sống xã hội;
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, giúp cho các cơ
quan lãnh đạo của thành phố nắm bắt tình hình kịp thời, cụ thể để giải quyết.
Nếu chỉ xét riêng trong lĩnh vực dư luận xã hội, với chức năng, nhiệm vụ của
mình, truyền thơng đã góp phần quan trọng trong việc đưa ra những thông tin
dư luận xã hội lan truyền tới mọi tầng lớp nhân dân, tăng cường sự đánh giá
của nhân dân về những vấn đề, những hiện tượng và quá trình mà họ quan
tâm, do đó báo chí cịn góp phần vào việc hình thành và định hướng dư luận
xã hội.
Trong “cuộc chiến” phòng, chống dịch Covid-19, báo chí một lần nữa
khẳng định vai trị của mình trong việc định hướng dư luận.
Với vai trị, trách nhiệm của mình, xác định cơng tác tun truyền
chiếm vị trí quan trọng trong cơng tác phịng chống dịch Covid-19, các cơ
quan báo chí – truyền thơng đã đồng loạt vào cuộc tham gia tuyên truyền
phòng chống dịch Covid-19. Đặc biệt, các lực lượng truyền thông đã chung
sức, đồng lòng, tham gia đồng bộ, vào cuộc mạnh mẽ, quyết liệt trên cả các
báo chính thống, các nhà mạng, các mạng xã hội. Với tinh thần công khai,
minh bạch, tất cả các thông tin chỉ đạo điều hành, khuyến cáo phịng, chống
và diễn biến tình hình dịch bệnh… được nhanh chóng truyền tải đến cơng
chúng để nâng cao nhận thức người dân trong phòng chống dịch.

6


Ngay từ những ngày đầu phòng chống dịch, các báo, đài ở Trung ương

và địa phương đã cử phóng viên, nhóm phóng viên bám sát, tác nghiệp tại
những nơi cách ly, các bệnh viện, sân bay, cửa khẩu biên giới… để nắm bắt
tình hình và phản ánh kịp thời, chính xác tình hình dịch bệnh.
Các cơ quan báo chí địa phương, dưới sự chỉ đạo của cấp ủy, chính
quyền đã mở chuyên mục “Phòng, chống dịch Covid-19” trên các ấn phẩm.
Qua theo dõi tình hình dịch Covid-19 trên thế giới và trong nước cũng như tại
địa phương, các cơ quan báo chí – truyền thơng trên địa bàn đã đăng tải hàng
chục nghìn tin, bài, hình ảnh về cơng tác phòng chống dịch Covid-19 của cả
nước, của địa phương, cung cấp thông tin kịp thời về tất cả các hoạt động
phòng chống dịch trên địa bàn; tập trung tuyên truyền về các biện pháp,
nhiệm vụ phòng chống dịch Covid-19 để nâng cao tính tự giác, ý thức chấp
hành nghiêm các yêu cầu, biện pháp phòng chống dịch; thực hiện tốt cơng tác
khử khuẩn, giữ gìn vệ sinh, đeo khẩu trang khi ra đường, tại nơi làm việc; tích
cực tham gia khai báo y tế tự nguyện; tham gia có trách nhiệm các hoạt động
phòng chống dịch của các cơ quan chức năng và cộng đồng để tự bảo vệ
mình, gia đình và ngăn chặn nguy cơ lây nhiễm trong cộng đồng…
Các cơ quan báo chí của Trung ương như Báo Nhân Dân, Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thơng tấn xã Việt Nam; báo, tạp chí
của các bộ, ban, ngành đã nhanh chóng vào cuộc với mật độ tuyên truyền dày
đặc về lượng tin, bài trên tất cả các ấn phẩm in, điện tử, phát thanh, truyền
hình. Trong chiến dịch truyền thơng về phịng chống dịch Covid-19 đã có
hàng chục nghìn tin, bài viết, phóng sự của các cơ quan báo chí, truyền hình
trung ương và địa phương; trung bình mỗi ngày có hơn 1.000 tin, bài phản
ánh về dịch bệnh ở cả trong nước và trên thế giới. Bộ trưởng Bộ Thông tin –
Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã ghi nhận: “Qua dịch Covid-19 đã thể
hiện niềm tin của xã hội vào báo chí tăng lên nhiều. Mỗi ngày, có tới 20-30
triệu lượt người đọc báo chí với hàng ngàn tin, bài về dịch bệnh. Báo chí giữ

7



vai trị chủ đạo trong thơng tin về dịch Covid-19 và điều tiết mạng xã hội dù
số người đọc mạng xã hội nhiều hơn báo chí”1.
Hầu hết các tin bài đều đánh giá cao sự chủ động, quyết liệt và hiệu quả
trong công tác chỉ đạo triển khai thực hiện của cả hệ thống chính trị và người
dân cả nước triển khai đồng bộ các giải pháp phòng chống dịch; phản ánh
khách quan sự chủ động, hiệu quả trong triển khai các biện pháp phịng chống
dịch Covid-19 của Chính phủ, ngành y tế, qn đội, cơng an, cả hệ thống
chính trị, các địa phương và nhân dân. Qua đó, khích lệ các cấp, các ngành,
đơn vị, địa phương và nhân dân đồng lòng, quyết tâm và trách nhiệm trong
triển khai nhiệm vụ; người dân yên tâm, tin tưởng vào công tác chỉ đạo và
triển khai phịng chống dịch của Chính phủ. Qua thông tin đại chúng, nhân
dân cả nước hiểu đầy đủ, đúng các chủ trương của Đảng và chính sách của
Nhà nước để chia sẻ, chung tay cùng cả nước phòng chống dịch.
Đồng thời, cũng trong thời gian này, báo chí cũng đã tăng cường đấu
tranh, phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch trên các trang mạng
xã hội, lên án mạnh mẽ những hành vi sai trái, dẹp bỏ tin đồn thất thiệt, gây
hoang mang dư luận xã hội; đưa tin kịp thời việc các cơ quan chức năng xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về phịng chống dịch, từ đó góp
phần để các lực lượng trên tuyến đầu yên tâm dành thời gian, sức lực cho
cơng tác phịng, chống đại dịch thay vì phải “chống giặc trên mạng”, từ đó đã
đem lại kết quả tích cực, góp phần nâng cao trách nhiệm, ý thức của người
dân, cộng đồng trong phòng chống dịch Covid-19 và kiểm soát tốt dịch bệnh.
Đánh giá về báo chí trong “cuộc chiến” phịng chống dịch Covid-19,
phát biểu tại cuộc họp giao ban trực tuyến ngày 10/4/2020 giữa Ban Tuyên
giáo Trung ương, Bộ Y tế, Hội Nhà báo Việt Nam với các cơ quan báo chí về
cơng tác tun truyền phịng chống dịch Covid-19, Phó Thủ tướng Chính phủ
Vũ Ðức Ðam – Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19
Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp
bách phòng, chống dịch Covid-19.

1

8


biểu dương và cảm ơn các cơ quan báo chí, các nhà báo đã tích cực chung vai,
sát cánh cùng lực lượng chức năng trong cơng tác phịng chống dịch Covid19. Phó Thủ tướng Chính phủ đề nghị các cơ quan báo chí phát huy vai trị
của mình, tiếp tục chung sức cùng cả nước trong công cuộc chống dịch. Các
cơ quan báo chí cần tập trung tuyên truyền tạo sự tin tưởng, đồng lòng của
người dân trong thực hiện các giải pháp, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn
tuyệt đối khơng được chủ quan, vì chúng ta mới thắng từng trận đánh, nhưng
cả cuộc chiến vẫn cịn ở phía trước. Báo chí cần tiếp tục dẫn dắt, định hướng
dư luận, lên án mạnh mẽ những hành vi sai trái, dẹp bỏ tin đồn thất thiệt, gây
hoang mang dư luận xã hội; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định
về phòng chống dịch…

9


CHƯƠNG II
CHỨC NĂNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA TRONG
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ TRUYỀN THƠNG CHÍNH SÁCH
2.1. Chức năng của dư luận xã hội
Dư luận xã hội (hay công luận) là một hiện tượng đời sống xã hội quen
thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc sống hàng
ngày, thường phải quan tâm và tính tốn đến. Những người theo học ở Liênxô (cũ) thường sử dụng thuật ngữ “dư luận xã hội” (dịch trực tiếp từ thuật ngữ
tiếng Nga). Những người biết tiếng Anh thường sử dụng thuật ngữ “công
luận” (dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: “public opinion”).
Phần đông các nhà nghiên cứu dư luận xã hội Liên Xô (cũ) định nghĩa
dư luận xã hội là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng

xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Ví dụ, theo B. K. Paderin: “Dư
luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự
phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý
nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể, giai
cấp, xã hội nói chung và thái độ cơng khai hoặc che đậy của các nhóm xã hội
lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi ích
chung của họ”.
- Dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến, quan điểm, thái độ mang tính
phán xét đánh giá của số đông người trước một thực tại xã hội nhất định, sự
phán xét đánh giá đó chỉ nảy sinh những vấn đề xã hội mang tính thời sự, và
đặc biệt liên quan đến lợi ích chung của các nhóm xã hội, cộng đồng xã hội.
- Dư luận xã hội là sự đánh giá, tâm trạng và thái độ của các nhóm xã
hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tượng, sự kiện có liên quan đến
lợi ích, giá trị vật chất tinh thần và quan hệ xã hội mà họ quan tâm.

10


- Dư luận xã hội bao giờ cũng xuất phát từ những sự kiện và vấn đề xác
thực trong đời sống xã hội liên quan mật thiết đến đời sống và lợi ích của
nhóm lớn xã hội hay thậm chí của cộng đồng. Đó là những sự kiện bản chất,
xuất hiện tất yếu, còn tin đồn phần nhiều là do sự bịa đặt hay tưởng tượng bởi
chủ kiến cá nhân, mục đích cá nhân. Nếu có xuất phát từ sự kiện thì sự kiện
ấy đã được khuếch đại lên, khơng vì lợi ích chung.
Dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước, đặc biệt
là trong công tác vận động quần chúng. Nắm được dư luận xã hội nhằm tham
mưu cho Đảng, Nhà nước đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể trong
từng thời điểm nhất định. Bởi vì trong đời sống xã hội địi hỏi chúng ta phải
hiểu sâu sắc nhu cầu và lợi ích của quần chúng. Nắm dư luận xã hội là một
trong những hình thức tốt nhất để thu thập thơng tin, phản ảnh những tâm tư,

nguyện vọng cũng như những suy nghĩ và cảm xúc của các tầng lớp nhân dân
trong xã hội. Đồng thời, giúp những người làm công tác vận động quần chúng
nắm bắt kịp thời thực trạng cũng như diễn biến tư tưởng của các nhóm người
trong xã hội khác nhau. Đây là những nguồn thông tin quý giá giúp ta khắc
phục được bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn, khắc phục
bệnh duy ý chí trong lãnh đạo, quản lý.
Điều hịa các mối quan hệ xã hội ngay cả khi xã hội chưa phân chia
thành các giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị ln ln tìm
cách sử dụng dư luận xã hội phục vụ của giai cấp mình.
Dư luận xã hội điều hòa cả hành vi xã hội. Trên cơ sở phán xét, đánh
giá các sự kiện, hiện tượng, dư luận xã hội nêu ra các chuẩn mực xã hội,
hướng dẫn những việc nên làm, nên tránh. Nó làm cho các truyền thống,
phong tục đã hình thành phát huy ảnh hưởng của mình trong xã hội.
Dư luận xã hội một khi đã được hình thành thì nó tác động vào ý thức
con người, chi phối ý thức cá nhân. Giáo dục con người nhiều khi mạnh hơn
cả biện pháp hành chính. Về phương diện này, dư luận xã hội có thể động
11


viên, khuyến khích hoặc phê phán, cơng kích những biểu hiện đạo đức hoặc
hành cá nhân, của nhóm người trong xã hội, phịng ngừa các hành vi phạm
pháp, nó buộc từng cá nhana phải thu mình vào lễ nghi, phong tục.
Dư luận xã hội giám sát các hoạt động của các tổ chức xã hội, các
nhóm dân cư và từng cá nhân. Dư luận xã hội đưa ra sự phán xét, đánh giá.
Cố vấn cho các tổ chức, cho cơ quan chức năng giải quyết các vấn đề
có liên quan đên cộng đồng.
Dư luận xã hội có vai trị to lớn trong đời sống xã hội nên việc nghiên
cứu nó có ý nghĩa quan trong trong việc phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, mở rộng xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và công chúng.

- Dư luận xã hội là một trong những hiện tượng phức tạp nhất xét từ
các khía cạnh khác nhau, dư luận xã hội phản ánh các quan hệ xã hội với hiện
tượng thực tiễn tương ứng, khi lan truyền và củng cố các quan hệ xác định
giữa các cá nhân và cộng đồng, qua đó cho thấy khả năng điều hịa của mình.
- Dư luận xã hội tác động đến mọi sự kiện, hiện tượng trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và từ đó tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi
của nhà báo.
- Dư luận xã hội là nguồn chất liệu dồi dào và phong phú, đa dạng cho
báo chí truyền thơng tiếp nhận, phát tán và tích hợp để hình thành những dịng
thơng tin tương ứng.
Báo chí và dư luận xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại,
ảnh hưởng chặt chẽ tới nhau.
- Báo chí truyền thơng là lực lượng thơng tin nhanh chóng nhất, phổ
cập nhất, phản ánh một cách chủ động và trung thực mọi mặt của đời sống xã
hội; thông tin cập nhật tình hình trong nước và quốc tế.

12


- Báo chí truyền thơng ln được coi là lực lượng chủ lực và xung kích
trên mặt trận tư tưởng, tạo sự thống nhất và liên kết trong xã hội nhằm giải
quyết các nhiệm vụ xã hội.
- Báo chí truyền thông là kênh để phát hiện ra những vấn đề cuộc sống
đặt ra, định hướng dư luận quần chúng, dư luận xã hội phát triển một cách
lành mạnh hơn. Phải nói rằng, báo chí cách mạng Việt Nam có tác dụng rất
lớn không chỉ trong thời kỳ cách mạng, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, cho đến cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Báo chí truyền thơng là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
chính quyền địa phương… đến với nhân dân Việt Nam cả trong và ngồi
nước.

- Báo chí truyền thơng là chủ thể khơi nguồn dư luận xã hội, có vai trị
khơng thể thay thế trong định hướng dư luận xã hội và ngược lại, dư luận xã
hội là đối tượng phản ánh của báo chí, đồng thời là thước đo để đánh giá khả
năng và hiệu quả tác động của báo chí đối với xã hội. Trong xã hội hiện đại,
phần lớn dư luận xã hội được châm ngịi từ báo chí truyền thơng.
- Báo chí truyền thơng góp phần biểu dương và phê phán. Trong đó, đã
phát hiện và phản ánh trung thực những điển hình tiên tiến, nhiệt tình ủng hộ
và cổ vũ nhân tố mới, những người tốt, việc tốt, những biểu hiện tích cực nảy
sinh trong đời sống kinh tế - xã hội. Thông qua việc biểu dương cái tốt, đấu
tranh chống cái xấu, tiêu cực, báo chí truyền thơng góp phần làm trong sạch
đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, làm lành mạnh quan hệ xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên.
2.2. Ý nghĩa của nghiên cứu, điều tra dư luận xã hội trong hoạt
động quản lý và truyền thơng chính sách
Dư luận xã hội là ý kiến của đông đảo người dân, biểu thị sự đánh giá,
thái độ và định hướng hành động của các nhóm xã hội về sự kiện xã hội liên

13


quan đến lợi ích của họ. Theo đó, có thể hiểu rằng, dư luận xã hội phản ánh
tâm tư, nguyện vọng của người dân về những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống của họ. Nắm bắt dư luận xã hội là nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân, thực hiện quan điểm “dân là gốc nước”.
Thời điểm hiện nay, việc nắm bắt, định hướng dư luận xã hội nên được
xem là phong cách lãnh đạo, phương thức quản lý xã hội và là trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên các cấp thực hành nắm bắt, định
hướng dư luận xã hội là “người biết lãnh đạo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy,
gom góp ý kiến của từng bộ phận thành ý kiến chung, đem ý kiến chung đó
đúc thành chỉ thị, khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái

đường lối lãnh đạo quần chúng, làm như thế “mới thật là biết lãnh đạo”.
Người chỉ rõ, người lãnh đạo phải: “…gom góp ý kiên rời rạc, lẻ tẻ của quần
chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ
thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, và làm cho nó
thành ý kiến quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý
kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến
đó có đúng hay khơng. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển
những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích làm cho
quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực
hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn trước. Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt”.
Theo lời dạy của Hồ Chí Minh, việc nắm bắt, định hướng dư luận xã
hội, trước hết phải “gom góp”, “phân tích”, “nghiên cứu” những ý kiến của
quần chúng, sắp đặt nó thành “hệ thống”. Nghĩa là, việc nắm bắt dư luận xã
hội phải tn theo một quy trình, phân tích theo phương pháp khoa học, dựa
trên cơ sở lý luận và tình hình thực tế, khung cảnh xã hội của từng dư luận xã
hội, để sắp đặt nó thành “hệ thống” các ý kiến của quần chúng. Trên cơ sở
phân tích dư luận xã hội mà “đúc thành chỉ thị”, xây dựng và ban hành các
chủ trương, chính sách, quy định,… Tiếp theo, phải đem kết quả nghiên cứu

14


đó tun truyền, giải thích cho quần chúng, để quần chúng hiểu đúng về vấn
đề của dư luận xã hội, hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
“làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến của lãnh đạo”, trên cơ sở
đó mà thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động, tạo sự đồng thuận cao
trong xã hội. Như thế, cần nên chuyển hóa kết quả nắm bắt, phân tích, nghiên
cứu dư luận xã hội thành nội dung của công tác tuyên giáo, công tác dân vận,
nội dung tuyên truyền, vận động nhân dân của các tổ chức, đồn thể chính trị
- xã hội và cán bộ, đảng viên.

Dư luận xã hội được hình thành thơng qua các bước (giai đoạn): Bàn
luận và thống nhất nhận định; Thống nhất thái độ; Xác định phương thức
hành động. Tiếp nhận, chứng kiến các sự kiện xã hội liên quan đến lợi ích,
các nhóm xã hội sẽ tiến hành bàn thảo, đi đến thống nhất nhận định về sự kiện
đó; sau đó là định hướng thái độ đồng tình hay phản đối và tiếp theo là xác
định phương thức hành động đồng tình hay phản đổi.
Thực hành định hướng dư luận xã hội, trước hết là cung cấp thông tin
đủ, đúng, kịp thời về sự kiện xã hội giúp cho người dân “có đủ thơng tin
chính thống” để bàn luận, thống nhất nhận thức và hình thành thái độ đúng
với chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Khi các nhóm xã
hội đã chuyển sang giai đoạn bàn thảo phương thức hành động thì tiếp tục
thơng tin, tập trung vào những thông tin về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ
công dân, về dân chủ và pháp luật, về hành vi được làm và không được làm,
về các quy phạm pháp luật. Như thế, phương thức chủ yếu của hoạt động định
hướng dư luận xã hội là “cung ứng thông tin đủ, đúng, kịp thời”, là hoạt động
tun truyền, vận động nhân dân.
Trình độ dân trí là một yếu tố ảnh hưởng đến tính chất dư luận xã hội
tích cực hay tiêu cực. Trình độ dân trí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, khơng
chỉ là trình độ học vấn, mà là sự hiểu biết hay là tri thức của người dân liên
quan đến các sự kiện xã hội, trong đó có hiểu biết về chủ trương, chính sách,
15


pháp luật của Đảng, Nhà nước, về tình hình kinh tế - xã hội của địa phương
và các tri thức khoa học. Thực tế hiện nay cho thấy, sự hiểu biết của người
dân liên quan đến các sự kiện xã hội chưa thật đầy đủ, chưa thật đúng, chưa
cập nhật, vì thế trong nhiều trường hợp sự bàn luận đi đến thống nhất nhận
thức và thái độ về các sự kiện xã hội dễ sai lệch theo chiều hướng tiêu cực.
Thực tế đó càng đỏi hỏi phải “cung ứng thơng tin đủ, đúng, kịp thời” cho
người dân. Ở những thời điểm lịch sử quan trọng, trong quá trình chuẩn bị,

ban hành và thực thi những quyết sách của Đảng, Nhà nước và địa phương,…
cần chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền để mọi người dân nắm được thơng tin
đầy đủ, chính xác, cập nhật. Dân có “biết” thì việc “bàn, làm, kiểm tra, giám
sát, thụ hưởng” mới được phát huy tích cực. Những địi hỏi đó càng cho thấy
tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân.
Cung ứng thông tin đủ, đúng, kịp thời, tuyên truyền cho người dân về
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, về các vấn đề về kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước,... trước hết là trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Cán bộ, đảng viên phải
tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm sự của nhân dân,
kịp thời giải quyết nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thực
hiện trách nhiệm đó, và để đối thoại, giải quyết kịp thời nguyện vọng hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, địi hỏi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần
trách nhiệm cao, bản lĩnh vững vàng và tri thức phong phú. Trách nhiệm Bản lĩnh - Tri thức là ba yếu tố cần đủ, gắn kết với nhau trong hoạt động
tuyền truyền, vận động, cung ứng thông tin cho người dân của cán bộ, đảng
viên; thiếu một trong ba yếu tố đó, cán bộ, đảng viên khó có thể thực hiện
đúng, tốt vai trò lãnh đạo “định hướng dư luận xã hội”. Hiện nay, cần phải
chú trọng bồi đắp cả ba yếu tố đó cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ, đảng viên ở cơ sở, những người sống với dân hàng ngày. Trong đó, vấn đề
nổi cộm nhất là bồi dưỡng tri thức cho cán bộ, đảng viên. Có thể dễ nhận thấy
rằng, cán bộ, đảng viên ở cơ sở đang thiếu tri thức cần thiết, chưa được tiếp
16


cận đủ, kịp thời với “thơng tin chính thống”. Do vì khơng đủ tri thức nên họ
bị động, lúng túng trong việc đối thoại với nhân dân, trong thực hành định
hướng dư luận xã hội cho các nhóm xã hội nơi mình sinh sống. Có lẽ cần nên
tích cực đổi mới cách thức bồi dưỡng tri thức cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở
và bằng cách nào đó kịp thời đưa được thơng tin chính thống đến cho cán bộ,
đảng viên ở cơ sở. Đồng thời có cách thức cụ thể, hiệu quả khuyến khích cán

bộ, đảng viên tự học, ham đọc, ham nghiên cứu, sưu tầm tri thức. Căn bệnh
lười học, ngại đọc, ngại nghiên cứu trong cán bộ, đảng viên chậm được khắc
phục thì hoạt động đối thoại, kịp thời giải quyết nguyện vọng hợp pháp, chính
đáng của nhân dân của cán bộ, đảng viên khó có hiệu quả, việc nắm bắt, định
hướng dư luận xã hội từ cơ sở khó có thể được thực hiện tốt.
Truyền thơng có vai trị quan trọng trong việc cung ứng thông tin, định
hướng dư luận xã hội. Vấn đề đặt ra mang tính cấp thiết hiện nay là, thực
hành quản lý nhằm phát huy vai trị của truyền thơng trong cung ứng thông
tin, định hướng dư luận xã hội. Song hành với quản lý truyền thơng đại chúng
cần có những giải pháp quản lý thông tin xã hội, mạng xã hội. Thời gian vừa
qua, ở một vài thời điểm, thông tin trên các trang mạng xã hội đã gây nhiễu
loạn nhận thức, tạo dựng thái độ tiêu cực trong một vài nhóm xã hội đối với
một số vấn đề xã hội ở nước ta. Ngăn chặn, đấu tranh với các thông tin không
đúng, tin giả trên các trang mạng xã hội là một nội dung trọng điểm trong
hoạt động định hướng dư luận xã hội.
Hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng,
Nhà nước và đất nước ta. Chúng đã và đang sử dụng truyền thông, mạng xã
hội để tung tin giả, thông tin xuyên tạc sự thật,… làm nhiễu loạn thơng tin về
tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh của đất nước,
gây nên sự rối loạn về nhận thức, lôi kéo người dân chuyển dần sang thái độ
tiêu cực đối với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, qua đó
mà nhen nhóm hình thành tư tưởng, hành vi chống đối.

17


Một hoạt động rất quan trọng khi xuất hiện dư luận xã hội bị thao túng
bởi tin giả, thông tin xuyên tạc sự thật là “cung ứng thông tin đủ, đúng, kịp
thời” cho người dân. Theo đó, với vai trị lãnh đạo của mình, cán bộ, đảng
viên phải đi vào các điểm nóng dư luận xã hội để lắng nghe tâm sự của người

dân, tiến hành đối thoại, tuyên truyền cho nhân dân hiểu đúng chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội của địa
phương và vạch trần âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực
thù địch. Trong chiến tranh giải phóng, cán bộ, đảng viên bám dân để tuyên
truyền, vận động, tổ chức nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, góp phần
tạo dựng chiến tranh nhân dân. Ngày nay, cán bô, đảng viên hàng ngày sống
cùng nhân dân phải có trách nhiệm, và nên xem là trách nhiệm hàng đầu,
công việc hàng ngày là tuyên truyền, vận động nhân dân, tạo dựng “chiến
tranh nhân dân” trong đấu tranh phản bác tin giả, thông tin xuyên tạc sự thật,
đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên
truyền thông, trên các trang mạng xã hội.
Trước sự chống phá của các thế lực thù địch, không ai khác, cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên ở cơ sở phải đi đầu trong hoạt động tuyên
truyền, vận động nhân dân, giảng giải cho dân hiểu về chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội của địa
phương; vạch trần âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù
địch. Cán bộ, đảng viên ở cơ sở là “lãnh đạo tại chỗ”, “lực lượng tại chỗ”
trong hoạt động nắm bắt, định hướng dư luận xã hội. Thực hiện được như
vậy, hoạt động nắm bắt, định hướng dư luận xã hội mới kịp thời, chất lượng
và hiệu quả.
Đẩy mạnh tuyên truyền thơng tin chính thống; ngăn chặn, phản bác với
các tin giả, thông tin xuyên tạc sự thật trên truyền thông, trên các trang mạng
xã hội; đẩy mạnh đối thoại trực tiếp, tuyên truyền vận động nhân dân để định

18


hướng dư luận xã hội tích cực, góp phần vào củng cố “thế trận lòng dân”, tạo
dựng nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


19


KẾT LUẬN

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, truyền thông với tiêu biểu là báo chí
ln được Đảng coi là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng. Báo chí
truyền thơng là tiếng nói của Đảng, đồng thời cũng phản ánh tiếng nói của
quần chúng. Trình độ mọi mặt của nhân dân ta ngày càng cao, đòi hỏi báo chí
và các phương tiện thơng tin phải bảo đảm tính chân thực, nâng cao chất
lượng, tăng cường tính quần chúng và tính chiến đấu, khắc phục tình trạng
giản đơn, đơn điệu, hời hợt, một chiều...
Qua các nội dung nghiên cứu trong đề tài, có thể thấy Đảng và Nhà
nước ta đã xác định công tác tư tưởng cần phải coi nhiệm vụ hướng dẫn, định
hướng dư luận xã hội là một trong các nhiệm vụ cơ bản của mình. Chỉ có gắn
cơng tác cơng tác nghiên cứu dư luận xã hội với công tác tuyên truyền mới
làm cho công tác tư tưởng đạt kết quả, có chiều sâu và bền vững.
Cùng với sự chỉ đạo, hỗ trợ của các cơ quan quản lý, cơ quan Đảng,
chính quyền, các cơ quan báo chí, truyền thơng cũng cần tập trung thực hiện
tốt hơn nhiệm vụ, chức năng của mình, từ đó mới có thể thực hiện tốt hơn nữa
vai trị hình thành và định hướng dư luận xã hội cho nhân dân, đáp ứng những
đòi hỏi mà thực tế cuộc sống đặt ra.

20



×