Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học khlđ tư tưởng “pháp trị” của hàn phi tử và sự vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.81 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU....................................................................................................
B.NỘI DUNG.................................................................................................
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG “PHÁP TRỊ” CỦA
HÀN PHI TỬ...........................................................................................................
1.1. Khái quát chung về lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng
“Pháp gia”................................................................................................................
1.2. Hàn Phi Tử - tập đại thành của Pháp gia...........................................
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA TƯ TƯỞNG “PHÁP TRỊ” CỦA
HÀN PHI TỬ VÀO THỰC TIỄN LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.............................................................................................................14
2.1. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng pháp trị trong đời sống
chính trị - xã hội ở Việt Nam................................................................................14
2.2. Bài học lịch sử từ sự vận dụng tư tưởng pháp trị trong quá trình
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay...................................................................16
C.KẾT LUẬN..............................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................23


A.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp gia và học thuyết của trường phái này có lịch sử phát triển khá
độc đáo trong quá trình hình thành nhà nước quân chủ chuyên chế Trung
Hoa cổ đại. Vai trò của học thuyết Pháp gia khơng chỉ ở việc Tần Thủy
Hồng đã áp dụng thành công học thuyết này trên đất Tần để kết thúc cục
diện Xuân Thu – Chiến Quốc, mà còn tiếp tục tác động đến xã hội phong
kiến Trung Hoa và các nước phương Đơng đồng văn, trong đó có Việt
Nam.
Trong 30 năm qua, cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển
mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đai hóa, hội nhập với kinh


tế toàn cầu nhằm hướng đến xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh,
một xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
đó, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó phải đổi mới, kiện tồn phương thức quản lý xã hội
bằng pháp luật nhằm đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đất nước.
Để thực hiện thành công sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực
đời sống xã hội, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị XHCN, mà trực tiếp
là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước quản lý, xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhận thức rõ
u cầu đó, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định:
“Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan Nhà

1


nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật”. Trong q trình kiện tồn tổ chức,
đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý xã hội của
Nhà nước, việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng và học thuyết quản lý
xã hội trong lịch sử đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Bởi vì những tư
tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở phương Đông và phương Tây,
đều là sản phẩm trí tuệ con người, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn lịch
sử. Chúng có giá trị nhất định trong việc giúp chúng ta tìm ra những giải
pháp hữu hiệu để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử, một trong những tư
tưởng chính trị - xã hội nổi bật trong thời kỳ Trung Quốc cổ đại, đã để lại

nhiều kinh nghiệm lịch sử to lớn đối với quá trình thực hiện thực tiễn lãnh
đạo, quản lý xã hội ở Việt Nam bằng pháp luật của Nhà nước. Xuất phát
từ những đòi hỏi về lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu thuyết
pháp trị của Hàn Phi Tử là thực sự cấp thiết. Đó là lý do tơi chọn đề tài:
“Tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử và sự vận dụng vào thực tiễn
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay”, làm đề tài nghiên cứu của mình.
Bài tiểu luận của tơi cịn nhiều hạn chế, mong q thầy cơ bổ sung
thêm để bài tiểu luận này được hồn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử đã được nhiều tác giả nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau như:
 “Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi” của tác giả Nguyễn Tài Đơng,
được đăng trên Tạp chí triết học năm 2006.

2


 “Tư tưởng trị nước của Pháp gia và vai trị của nó trong lịch sử”
của tác giả Nguyễn Thị Kim Bình, được đăng trên Tạp chí khoa học và
cơng nghệ, đại học Đà Nẵng năm 2008.
 “Luận bàn về tính thiện ác trong học thuyết” Tuân Tử - Hàn Phi
của tác giả Phạm Việt Hưng. 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vị thế, vai trò của Pháp trị trong lịch sử tư tưởng chính trị xã hội Trung Hoa cổ đại và ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị trong học
thuyết này đến chế độ phong kiến Trung Hoa, cũng như sự vận dụng vào
thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài cần giải quyết và làm rõ những nội dung căn bản sau:
Một là, trình bày khái quát những tư tưởng gia tiêu biểu trong buổi

đầu đề xuất và xây dựng học thuyết pháp trị như: Quản Trọng, Thận Đáo,
Thân Bất Hại, Thương Ưởng;
Hai là, Trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong tư
tưởng của Hàn Phi Tử với tư cách là tập đại thành của Pháp gia, là đại
biểu điển hình nhất, có vai trị phát triển học thuyết này đền đỉnh cao của
nó;
Ba là, đề tài sẽ luận giải sự vận dụng của tư tưởng pháp trị đối với
sự lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi
Tử và sự vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
3


Về nội dung: tài tiến hành, nghiên cứu những nội dung căn bản về tư
tưởng pháp trị của các Pháp gia thời kỳ cổ đại mà đỉnh cao là tư tưởng
Hàn Phi Tử;
Về không gian, thời gian: Làm rõ sự vận dụng của tư tưởng “Pháp
trị” của Hàn Phi Tử vào sự lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng “Pháp trị” của
Hàn Phi Tử và sự vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu và có sự phối hợp
giữa chúng khi nghiên cứu, đó là các phương pháp cơ bản sau đây:

Phương pháp phân tích; lịch sử, so sánh; tổng hợp và khảo cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Bài tiểu luận góp phần làm rõ một số nội dung tư tưởng “Pháp trị”
của Hàn Phi Tử thông qua những đại biểu xuất sắc của nó. Và sự vận dụng
thực tiễn lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước ở nước ta hiện nay.
6.2. Thực tiễn của đề tài
Tư tưởng chính trị pháp gia là những nét phác thảo khái quát về một
trường phái triết học lớn, với sự mở đầu tìm hiểu một số nội dung cốt lõi,
có thể tiếp tục được phát triển cả về phương diện lý luận và sự vận dụng
vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của tiểu luận

4


Bài tiểu luận ngoài mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thi có ba
phần: Phần mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần mở đầu gồm: Lý do chọn đề tài; tình hình nghiên cứu đề tài;
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu; đối tượng và phạm vi nghiên cứu; cơ
sở lý luận và phương pháp nghiên cứu; Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề
tài; kết cấu của tiểu luận.
Phần nội dung gồm ba phần, cụ thể:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử.
- Chương 2. sự vận dụng của tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi Tử vào
thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.

5



B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG “PHÁP TRỊ” CỦA HÀN
PHI TỬ
1.1. Khái quát chung về lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng
“Pháp gia”
1.1.1.

Bối cảnh lich sử
Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, khi chế độ chiếm hữu nô lệ lâm

vào thời kỳ khủng hoảng và đi đến ta rã, cũng là cột mốc đánh dấu sự hình
thành và đi lên của chế độ phong kiến sơ kỳ, sử học gọi đó là thời Xuân
thu - Chiến quốc.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ
thời nhà Hạ, qua nhà Thương đến cuối thời Tây Chu thì bắt đầu bước vao
giai đoạn khủng hoảng và ngày càng đi tới suy tàn. Xã hội Trung Quốc
trải qua một giai đoạn giao thời, từ chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia
trưởng, giá trị tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ bi băng hoại, lỗi thời và
khơng cịn vai trò lịch sử nữa. Nhưng những giá trị và tư tưởng đạo đức
của xã hội mới còn ở trạng thái manh nha và đang trên đường xác lập. Sự
biến đổi toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội đã tạo tiền đề
cho sự giải phóng tư tưởng con người, thoát khỏi sự chi phối của thế giới
quan thần thoại tơn giáo, thần bí truyền thống, ảnh hưởng sâu sắc đến quá
trình phát triển của tư tưởng triết học.
Triết học pháp gia rất phong phú, đa dạng, đặc biệt là phương pháp
lý luận trị nước bằng pháp luật. Đây là trường phái triết học đại biểu cho
lợi ích giai cấp địa chủ thời phong kiến. Những đại biểu tiêu biểu của

6



trường phái này như: Quản trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng, Hàn Phi Tử.
1.1.2.

Tư tưởng “Pháp trị” - giai đoạn đề xuất và xây dựng

1.1.2.1. Quản Trọng
(khoảng thế kỷ VI trước công nguyên): tên là Di Ngô, người đất
Dĩnh Thượng, nước Tề, xuất thân từ giới bình dân nhưng học giỏi. Ơng có
tài trong chính trị, làm tướng quốc cho Tề từ năm 685 đến 645 trước Công
nguyên. Trong thời gian này “nước Tề đương suy hóa thịnh, thành bá chủ
các nước chư hầu”. Lúc đầu ông là Nho gia, sau đó nghiên cứu Pháp gia
và chuyển từ đức trị sang pháp trị. Người ta cho rằng, ông là người đầu
tiên bàn về vai trò của pháp luật như là cách trị nước chủ trương công bố
luật pháp công khai cho dân chúng.
Như vậy, có thể nói rằng, Quản Trọng là thủy tổ của Pháp gia, đồng
thời là cầu nối Nho gia và Pháp gia. Ông là người biết trọng nhân, nghĩa,
lễ, tín và cũng biết vận dụng luật pháp vào thực tiễn cuộc sống để trị quốc,
bình thiên hạ.
1.1.2.2. Thận Đáo (370 – 290 trước Cơng ngun)
Ơng là người nước Triệu. Người đời sau chỉ tập hợp được 5 thiên có
tên là Thận tử. Nhưng cũng bị thất lạc, nên chúng ta chỉ biết tư tưởng của
ông thông qua các tác giả khác. Tư tưởng triết học của ông chịu ảnh
hưởng của tư tưởng về “đạo” tự nhiên, “vơ vi” thuần phác của Lão tử. Tuy
nhiên về chính trị, ông chủ trương dùng pháp luật để trị nước. Trong phép
trị nước, Thận Đáo đặc biệt đề cao “thế” trị nước. Theo ơng: ..Pháp luật
khơng hồn hảo cũng cịn hơn khơng có pháp luật, vì nó có thể thống nhất
được lòng người. Lã Trấn Vũ cho rằng: Lập trường căn bản của Thận

Đáo nhất trí với Thân Bất Hại, chỉ có điều tương đối tinh tế và có phần
tiến bọp hơn.
7


Tóm lại, “Thế” trong phép trị nước của Thận Đáo là địa vị, quyền
hành của người cai trị, là sức mạnh của đất nước… Nó có thể thay thế
được bậc hiền, trí mà “trị quốc, bình thiên hạ”. Vì vậy, trong thực tế, Thận
Đáo chủ trương tập quyền, cấm không được lập bè phái, phân biệt và quy
định rõ địa vị, quyền lợi của từng tầng lớp người trong xã hội cho rõ ràng.
Tuy nhiên, điểm thiếu sót của Thận Đảo là ở chỗ không lấy “ Thuật” làm
cơ sở đảm bảo quyền lực được bền vững, thêm vào đó tư tưởng của ơng
cũng chưa có sự kết nối giữa “thế” và “pháp”, cho nên khi áp dụng vào
thực tiễn, học thuyết của ông bị thất bại.
1.1.2.3. Thân Bất Hại (khoảng 401 - 337 trước Công nguyên)
Thân Bất Hại (khoảng 401 - 337 trước Công nguyên) là người thuộc
nước Trịnh, chuyên học về hình danh; làm một chức quan nhỏ ở nước
Trịnh, sau đó được Chiêu Li Hầu dùng làm tướng quốc nước Hàn, là
người xuất thân từ giai cấp quý tộc mới. Ông chủ trương ly khai “đạo
đức”, chống “lễ”, đề cao “thuật” trong phép trị nước. Quyển Thân tử bị
thất lạc nên hiện nay, chúng ta biết tư tưởng của ông chỉ thông qua thiên
Định pháp và thiên Ngoại trừ thuyết hữu thượng của Hàn Phi Tử.
Thân Bất Hại kịch liệt phản đối chế độ phân phong, phản đối “lễ
trị”, chủ trưởng thiết lập nhà nước trung ương tập quyền , đồng thời đề
cao “thuật cai trị” nhằm thi hành pháp luật với các thủ pháp, mưu lược,
sách lược cứu người cầm quyền ( nhà cua). Nếu Quản Trọng, Ly Khôi,
Ngô Khởi được coi nhà những nhà nho thực hiện biến pháp, thì Thân Bất
Hại là người có tính thần pháp trị triệt để nhẩt.
1.1.2.4. Thương Ưởng ( ? – 338 trước Công nguyên )
Người nước Vệ, tên họ là Công Tôn, xuất thân từ giới quý tộc

nhưng đã sa sút, sống cùng thời với Mạnh Tử, Thân Bất Hại và Thận Đáo.
Ơng là nhà chính trị có tài được Tần Hiếu Công trọng dụng làm tể tướng.
8


Trong thời gian này, ông đã hai lần giúp Tần Hiếu Cơng cải cách pháp
luật, hành chính và kinh tế làm cho nước Tần ngày càng mạnh. Năm 359
trước Công nguyên, ông đề xuất cải cách về pháp luật với những nội dung:
tổ chức liên gia thực hiện chính sách cáo gian; khuyến khích khai hoang,
cày cấy, ni tằm, dệt lụa; thực hiện thưởng cho người có cơng và phạt
người phạm tội; q tộc mà khơng có chiến cơng thì sẽ hạ xuống thứ dân.
Khi thực hiện chính sách này, trong 10 năm đã làm cho nước Tần mạnh
lên.
Tóm lại, quan điểm về luật pháp được hình thành khá sớm trong
lịch sử tư tưởng trung quốc cổ đại. Nó phát triển đến thời Chiến quốc đã
hình thành nên ba học thuyết cơ bản: “thế” của Thận Đáo, “thuật” của
Thân Bất Hại, và “pháp” của Thương Ưởng. Trong đó, mỗi thuyết có vị
trí, vai trị quan trọng riêng của mình trong phép trị nước. Tuy nhiên,
chúng đã bộc lộ sự hạn chế của mình khi đứng tách rời từng học thuyết, có
những khuyết điểm mà tự bản thân chúng khơng khắc phục được. Yêu cầu
lịch sử đặt ra là phải hợp nhất và phát triển ba thuyết trên lên một trình độ
mới. Người đảm nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này là Hàn Phi Tử.
1.2. Hàn Phi Tử - tập đại thành của Pháp gia
Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 trước Công nguyên) là một vị công
tử vương thất của nước Hàn. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thơng minh, học
giỏi. Ơng say mê nghiên cứu cả Nho, Lão, nhưng thích nhất vẫn là học
thuyết của Pháp gia.
Xuất thân từ tầng lớp quý tộc, nhưng ông ghét bọn quý tộc bảo thủ,
trọng kẻ sĩ giỏi pháp thuật và ln mang trong mình tinh thần cách mạng,
tiến bộ. Cả đời Hàn Phi theo đuổi lý tưởng chính trị, đó là giúp các ông

vua trị nước, làm cho đất nước hết loạn lạc và được phú cường. Chính vì
vậy, ơng tập trung nghiên cứu triết học, luật học, khảo sát chính trị, bày tỏ
9


quan điểm chính trị của mình dâng lên vua Hàn nhưng vua Hàn không
nghe. Vua Tần khi đọc sách của ông rất ngưỡng mộ và trọng dụng ông.
Ông đã để lại cho hậu thế cuốn “Hàn Phi Tử” gồm 55 thiên, khoảng
hơn 10 vạn từ; trong đó thể hiện tư tưởng của ông về thế giới, về lịch sử xã
hội, về đạo đức và đặc biệt là về luật pháp với tư cách là một hệ thống
pháp trị duy nhất và thống nhất.
1.2.1.

Tư tưởng về pháp trị
quan điểm pháp trị được hình thành và phát triển khá sớm trong lịch

sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại. Trải qua hàng trăm năm, từ những tiền bối
như Quản Trọng, Tử Sản, Lý Khôi, Ngô Khởi - những người “trọng thực”,
sang thời Chiến Quốc đã hình thành thêm ba học phái cơ bản khác, đó là
"trọng thế” của Thận Đáo, "trọng thuật” của Thân Bất Hại và "trọng pháp”
của Thương Ưởng. Trong đó, mỗi hệ phái có một vị trí và vai trị riêng và
cũng đạt được những thành công nhất định giúp các quân vương ổn định
một thời. Người thực hiện sứ mệnh lịch sử đó chính là Hàn Phi - nhà triết
học, chính trị học đã tích hợp cả ba yếu tố “pháp – thuật – thế” để kiến tạo
nên một sức mạnh tổng hợp giúp các quân vương trị nước.
1.2.1.1. Quan niệm về “pháp”
 Khái niệm “Pháp”
“Pháp” nguyên nghĩa là luật, pháp luật, hình pháp, phương pháp,
cách thức, phương thức; tiêu chuẩn mẫu mực; bắt chước, theo; phép,
pháp thuật. Chữ “pháp” xuất hiện sớm trong lịch sử, ngay cả Nho gia

cũng bàn về pháp theo nghĩa là phép tắc, lễ giáo. Điển hình là Khổng Tử
và Mạnh Tử với chủ trương “pháp tiên vương” tức noi theo người xưa, họ
thường lấy gương Nghiêu, Thuấn để răn dạy các vua đời sau làm theo; cịn
Tn Tử thì chủ trương “pháp hậu vương”, trọng thực tế, việc trị nước
phải tuân theo thời thế. Danh gia quan niệm “pháp” là khuôn mẫu và có
10


bốn loại gọi là “tứ trình”: một là, pháp bất biến là ngôi thứ quần thần
thượng hạng; hai là, pháp chỉnh đốn tập tục là năng lực coi thường đồng
dị; ba là, pháp trị số đông là thưởng phạt; bốn là, pháp thuế bình chuẩn là
luật đo, cân, đếm.
 Nội dung của “Pháp”:
Nội dung chủ yếu của pháp luật, đó là “thưởng” và “phạt”. Hàn
Phi Tử gọi chúng là hai địn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền.
Ơng phê phán chính sách “chỉ phạt tội mà khơng thưởng công” của
Thương Ưởng, và cho rằng, cần phải thực hiện tồn diện cả hai mặt:
khuyến khích và răn đe, thưởng và phạt.
Với nội dung và mục đích như trên “pháp” xứng đáng là tiêu chuẩn
khách quan để phân định danh phận và hình pháp, phán xét phải - trái, tốt xấu, thiện - ác… Luật pháp rõ ràng, việc thưởng phạt nghiêm minh sẽ làm
cho nhân tâm và vạn sự đều quy về một mối. Vì vậy, “pháp” trở thành cái
gốc của thiên hạ”, có tác dụng khuyến khích điều thiện, ngăn ngừa điều
ác. Ở đây, “pháp” có ý nghĩa giáo dục và đạo đức nhất định.
 Nguyên tắc của “Pháp”:
Theo Hàn Phi và các Pháp gia thì việc dùng pháp không thể tuỳ tiện
mà phải đảm bảo theo một trật tự lơ gic có tính ngun tắc như sau:
Ngun tắc thứ nhất, pháp luật phải thống nhất, ổn định, công khai;
Nguyên tắc thứ hai, pháp luật phải công bằng;
Nguyên tắc thứ ba, pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ thi hành;
Nguyên tắc thứ tư, pháp luật phải hợp thời.

Nói tóm lại, trong quan niệm về “pháp” của những người theo Pháp
gia có hai mặt. Một mặt,“pháp” là để phòng ngừa, những cái quy định
sẵn, nếu phạm vào điều cấm nào thì xử theo hình phạt ấy. Với ý nghĩa này,
quan niệm “pháp” của Pháp gia là công cụ đắc lực cho kẻ thống trị dùng
11


với nhân dân, cho nên nói “pháp” của Hàn Phi đi liền với “cấm”; Mặt
khác, “pháp” để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người dân, tạo ra một
xã hội công bằng dưới ánh sáng của pháp luật. Đây là giá trị đáng được
bảo tồn để đi đến xây dựng một xã hội dân sự hiện đại, lúc này pháp luật
là để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người dân.
1.2.1.2. Quan niệm về “Thế”
 Khái niệm về “Thế”
“Thế” là một thuật ngữ triết học chính trị có ý nghĩa quan trọng bậc
nhất đối với Pháp gia. Những người chủ trương dùng “thế” và đề cao
“thế” được gọi là phái “trọng thế”. Trước Hàn Phi, người đề cao và
“trọng thế” là Thận Đáo.
Có thể hiểu “thế” theo quan niệm của Thận Đáo là địa vị, quyền
hành của người cai trị, là sức mạnh của đất nước… nó có thể thay thế
được bậc hiền trí mà trị vì thiên hạ.
 Nội dung của “Thế”
Trong sách Hàn Phi Tử, có lúc Hàn Phi gọi “thế” là “thế vị”, có lúc
là “uy quyền”, “uy thế” hoặc “thế trọng”…Tất cả đều nói về quyền thống
trị hay chủ quyền. Theo Hàn Phi, “thế” trước hết là thế lực, quyền uy của
kẻ cầm quyền, là sức mạnh ủng hộ của nhân dân, quần thần, là thế của
quốc gia, xu thế của lịch sử. Thế của vua làm cho dân và người hiền thán
phục, chứ không phải sự nể phục vì đạo nghĩa hay tài giỏi.
Có thể nói, theo Pháp gia thì “thế” là uy thế, quyền lực, địa vị, xu
thế do con người đặt ra và có vị trí hàng đầu trong mối tương quan “pháp

– thuật – thế”, thậm chí cịn hơn cả “pháp” và “thuật”. Bởi lẽ, nếu khơng
có “thế” thì bậc minh chủ khơng thể thi hành được pháp luật, cịn việc vận
dụng “thuật” là để bảo vệ quyền thế của vua, nếu mất “thế” thì “thuật”

12


cũng mất chỗ dựa. Vị vua sáng là người biết nắm lấy cái “thế” để cùng
với thiên thời, lòng người, kỹ năng đưa ông ta đến thành công.
1.2.1.3. Quan niệm về “Thuật”
 Khái niệm về “thuật”
Pháp gia cho rằng, vua phải sử dụng “thuật”, vì “thuật” là “cơng
cụ đế vương”. Thuật là một trong những phạm trù triết học chính trị đặc
sắc của Trung Hoa nói chung và của Pháp gia nói riêng. Cùng với “pháp”
và “thế”,“thuật” trở thành thế chân vạc trong tư tưởng pháp trị của Pháp
gia. Thuật được hiểu là: phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều
khiển công việc và dùng người, khiến người triệt để, tận tâm thực hiện
hiến lệnh của nhà vua mà khơng hiểu vua dùng họ như thế nào. Tóm lại,
“thuật” là nghệ thuật cai trị của nhà vua.
 Nội dung, nguyên tắc dùng “Thuật”
Mặc dù “thuật” là danh từ đa nghĩa và tồn tại ở hai phương diện
(kỹ thuật và tâm thuật). Song, theo quan niệm của Pháp gia, “thuật” hàm
chứa bốn nội dung căn bản sau: thứ nhất, thuật trị quan lại và gian tà; thứ
hai, thuật dùng người; thứ ba, thuật thưởng phạt; thứ tư, tâm thuật.
Tóm lại, để trị nước hiệu quả nhà vua cần sử dụng “thuật trị nước”,
kế sách vàng để trị nước là phải biết cả “kỹ thuật” và “tâm thuật”. Trong
đó, “kỹ thuật” gồm: Thuật trị quan lại, thuật trừ gian, thuật thưởng phạt,
thuật dụng nhân; cịn “tâm thuật” là điều bí ẩn bên trong chỉ nhà vua mới
biết. Có thể so sánh một cách ước lệ rằng, nếu như “tâm thuật” là nội
dung bên trong, thì “kỹ thuật” là cách thức biểu hiện ra bên ngồi. Tuy

mỗi thành tố có một chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng có chung
một mục đích là tạo ra cơng cụ đắc lực của bậc đế vương.
1.2.2.

Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm tư tưởng “Pháp trị”

của Hàn Phi Tử
13


Thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc là thời kỳ xã hội Trung Quốc trải
qua những biến đổi lịch sử to lớn. Trong bối cảnh chính trị - xã hội như
thế, trên cơ sở quan điểm về sự tiến hóa của lịch sử, tiền đề luân lý đạo
đức của Pháp gia được khởi xướng từ Tuân Tử, Hàn Phi Tử đã vận dụng
và phát triển trong học thuyết của mình. Những nội dung đó nếu được
nghiên cứu và tiếp thu có phê phán trong giai đoạn hiện nay thì nó vẫn tiếp
tục phát huy những giá trị tích cực và có ý nghĩa lịch sử nhất định.
Tuy khơng nói trực tiếp đến kiểm soát quyền lực của bậc vua chúa
nhưng bằng sự lý giải về Thế trong chính trị Hàn Phi Tử đã đặt ra vấn đề
tập trung và kiểm sốt quyền lực trong chính trị. Muốn có quyền lực mạnh
thì bậc vua chúa phải thâu tóm quyền lực vào tay mình, Đặc biệt là phải
nắm lấy quyền “thưởng” và “phạt”. Tuy nhiên thưởng phạt phải trong
khn khổ pháp luật.
Tóm lại, mặc dù tư tưởng pháp trị cịn có những những hạn chế do
điều kiện lịch sử, sự chi phối của lợi ích giai cấp, nhưng nếu bỏ qua những
hạn chế này, học thuyết trị nước này của Pháp gia vẫn có những ý nghĩa
lớn lao đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa và bài học lịch sử đó là tinh thần đề cao
pháp luật, là tư tưởng “biến pháp”, cũng như tính nghiêm minh trong thực
thi pháp luật và chính sách “dụng nhân” - đào tạo và sử dụng con người

trong bộ máy nhà nước.
CHƯƠNG 2.
SỰ VẬN DỤNG CỦA TƯ TƯỞNG “PHÁP TRỊ” CỦA HÀN
PHI TỬ VÀO THỰC TIỄN LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

14


2.1. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng pháp trị trong đời sống
chính trị - xã hội ở Việt Nam
2.1.1.

Giá trị
Sự vận dụng đó phản ánh những giá trị nhất định, đó là:
Thứ nhất, tư tưởng pháp trị là cơ sở lý luận vững chắc giúp các triều

đại phong kiến Việt Nam có cơ sở phương pháp để lập pháp. Trải qua 10
thế kỷ với hàng chục triều đại đã cho ra đời hàng nghìn chỉ, dụ, sắc…, đặc
biệt có 4 bộ luật thành văn ra đời: Hình thư, Hình Luật thời Lý, Trần;
Quốc triều hình luật thời Lê Sơ, Hồng triều luật lệ thời Nguyễn. Đó là
những sản phẩm trí tuệ của hệ thống kiến trúc thượng tầng chế độ phong
kiến nước ta;
Thứ hai, cùng với hệ tư tưởng có sự điều phối bằng pháp luật, một
chính thể nhà nước quân chủ chuyển động tích cực theo hướng tập quyền,
bằng phương pháp hợp pháp hóa quyền và lợi ích của tầng lớp trên thơng
qua hệ thống pháp luật, nhà nước phong kiến từng bước thâu tóm quyền
lực thông qua bộ máy quan lại giúp việc ở các cấp…;
Thứ ba, cùng với những chính sách quản lý thơng qua hệ thống
pháp luật, bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam hiện ra với những nét

đặc trưng: Trên lĩnh vực kinh tế, phản ánh một nền kinh tế thuần nơng có
pha trộn thủ cơng, mỹ nghệ và thương nghiệp. Dưới các triều đại Lý, Trần,
Lê Sơ chính sách ruộng đất, thuế khóa có phần hợp lý, thuận lịng dân, làm
cho nền sản xuất phát triển; Nền văn hóa, tư tưởng, giáo dục dân tộc cũng
có sự phát triển rực rỡ, bên cạnh văn hóa dân gian là tư tưởng bác học du
nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Ấn Độ dần được Việt hóa bằng những chủ
trương được ấn định trong các bộ luật, đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo;
Thứ tư, mặc dù có sự kế thừa và mô phỏng kinh nghiệm trị nước
của các triều đại phong kiến Trung Hoa cũng như những học thuyết chính
15


trị xã hội của nước này, nhưng trong cách cai trị và quản lý xã hội của các
nhà nước phong kiến Việt Nam chúng ta chưa thấy triều đại nào lại áp
dụng ngun xi mà ln có sự phát triển bổ sung về cách thức cai trị.
Ngày nay chế độ phong kiến đã lùi xa vào quá khứ lịch sử, song
đường lối trị nước của các triều đại phong kiến đã áp dụng tư tưởng pháp
trị một cách phù hợp sẽ giúp cho việc quản lý xã hội một cách khá hiệu
quả. Trong suốt một ngàn năm, chế độ phong kiến đã để lại cho chúng ta
bài học lịch sử về vai trị của pháp luật thơng qua việc định pháp và hành
pháp là hết sức quan trọng.
2.1.2.

Hạn chế
những hạn chế cố hữu của nó khi vận dụng vào thời kỳ phong kiến

nước ta là điều khơng tránh khỏi. Đó là:
Thứ nhất, mặc dù các triều đại phong kiến Việt Nam đã xây dựng
được một hệ thống pháp luật khá mạnh để quản lý xã hội, nhưng xét về
bản chất, đây là những bộ luật được sinh ra để bảo vệ chính thể qn chủ,

cho nên nó chưa phản ánh được ý chí và nguyện vọng thiết thực của nhân
dân. Đó cũng là điều tất nhiên, bởi lẽ luật pháp của nhà nước là do giai cấp
cầm quyền quyết định;
Thứ hai, để khắc phục những sai lầm của tư tưởng pháp trị, các triều
đại phong kiến Việt Nam đã ra sức đề cao các học thuyết khác (Nho, Phật,
Đạo) với hy vọng những giáo lý này sẽ làm bệ đỡ cho việc thi hành những
chính sách cai trị của nhà nước. Tuy nhiên, do lợi ích căn bản giữa triều
đình với người dân là khác nhau, cho nên ở bất kỳ triều đại nào sự dung
hợp lợi ích cũng chỉ đạt được ở thời mới thành lập, ngay cả triều đại tiến
bộ nhất trong lịch sử là nhà Lê Sơ, điều này cũng lý giải vì sao trong xã
hội phong kiến Việt Nam liên tục diễn ra các cuộc khủng hoảng ngắn về
chính trị - xã hội;
16


Thứ ba, do áp dụng máy móc phương thức quản lý xã hội bằng con
đường pháp luật, lại thêm ý thức hệ bảo thủ của tư tưởng Nho giáo thống
trị đã làm cho chế độ phong kiến Việt Nam gặp phải mâu thuẫn trong
chính nó. Một mặt, bằng con đường pháp trị các quân vương phong kiến
đã xây dựng được bộ máy nhà nước trung ương tập quyền; mặt khác, lại
chậm đổi mới, khơng gắn với lợi ích thiết thực của người dân, cho nên bộ
máy nhà nước đó là quan liêu, tập quyền;
Thứ tư, tư tưởng pháp trị đòi hỏi nhà nước phải thực hiện biện pháp
sử dụng con người theo tinh thần “cử hiền dữ năng” (tiến cử và sử dụng
người hiền tài theo đúng năng lực) trong các bộ máy nhà nước. Tuy nhiên,
do tính duy tình cao hơn duy lý đã làm cho hầu hết các triều đại phong
kiến Việt Nam thực hiện việc “nhậm hiền trong khuôn khổ thân thân”, tức
đi ngược với chủ trương của Pháp gia. Thậm chí bất cơng, thể hiện khi
những cuộc kháng chiến thành công, tiến hành xây dựng vương triều thì
triều đình tìm mọi cách loại bỏ những người ngoài họ để cất nhắc những

người hoàng tộc.
2.2. Bài học lịch sử từ sự vận dụng tư tưởng pháp trị trong quá trình
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay
2.2.1.

Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và những tiêu chí, đặc trưng của nó
từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân và
vì dân ở Việt Nam, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật - phương tiện quan trọng trong quản lý nhà nước. Tư tưởng về nhà
nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử
nhân loại vốn được đặt ra và tiến hành từ lâu, trở thành xu hướng phổ biến
của nhiều nước trên thế giới. Do đó, khơng chỉ do tính cấp thiết của sự
17


nghiệp tồn cầu hóa và quản lý xã hội ở nước hiện nay, mà có cả tính lịch
sử văn minh nhân loại qui định.
Tóm lại, đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam có thể khái qt bằng những tiêu chí như sau:
- Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của
nhân dân;
- Hai là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức
và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp;
- Ba là, Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp
luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội;
- Bốn là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn

trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ
vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội;
- Năm là, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và
tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà
nước;
- Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
2.2.2.

Tiếp thu những giá trị cơ bản từ học thuyết pháp trị của Pháp

gia trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay
Bài học lịch sử từ học thuyết pháp trị của Pháp gia, có thể được vận
dụng ở một số phương diện về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta như sau:
18


Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp trên tinh thần
thượng tôn pháp luật;
Nguồn của các đạo luật chính là Hiến pháp và Luật nhà nước. Các
bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013
(sửa đổi, bổ sung) là sự phát triển không ngừng chế độ dân chủ nhân dân
để phục vụ Nhà nước pháp quyền XHCN. Từ khát vọng có được một bản
Hiến pháp, được thể hiện trong “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” do
Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị Vécxây năm 1919, nhưng phải sau 27
năm (tức năm 1946) khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trên

cương vị là người đứng đầu nhà nước, chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã gấp rút cho xây dựng một bản Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ
cộng hịa. Người nói: Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế
cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta
khơng có hiến pháp. Nhân dân khơng được hưởng quyền tự do dân chủ.
Chúng ta phải có một bản hiến pháp dân chủ.
Tư tưởng pháp trị của Pháp gia thật sự là bài học bổ ích và thiết
thực trong quá trình xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta
hiện nay. Đó là pháp luật phải thống nhất, ổn định, rõ ràng, hợp thời và
nghiêm trị; pháp luật phải có sự phân cơng, phân cấp, phân quyền minh
bạch; sau cùng là pháp luật phải công khai rộng rãi cho người dân được
biết.
Hai là, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Về bản chất pháp luật ra đời là công cụ để thực hiện chức năng quản
lý của nhà nước. Với Pháp gia dưới chế độ phong kiến thì quyền làm chủ
là của các quân vương, bởi lẽ đất đai và thần dân đều là của vua. Còn ngày
nay, nhà nước ta là của nhân dân, quan điểm nhà nước của dân được quy
định rất rõ trong Hiến pháp. Vì thế, mọi hoạt động của chính quyền, hoạt
19



×