Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Giáo trình giáo dục kỹ năng sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.71 KB, 58 trang )

2


LỜI MỎ ĐẦU
Trong những năm gần đây vấn đề kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống đang là vấn đề
“nóng” được giới nghiên cứu và xã hội quan tâm ,nhất là trước tình trạng báo động về nhân
cách,đạo đức ,lối sống của một bộ phận giới trẻ hiện nay. Tuy nhiên giáo dục kỹ năng sống
cần cả một quá trình giáo dục từ gia đình đến nhà trường và cả xã hội. Trong đó có thể nói
giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường theo chủ trương của Bộ giáo dục và đào tạo là một
trong nhiều con đường hình thành kỹ năng sống ở mỗi người, nhưng giáo dục kỹ năng sống
theo con đường giáo dục nhà trường sẽ đảm bảo vai trò chủ đạo của giáo dục và có thể đem
lại hiệu quả cao hơn nhờ tính khoa học và tính chun nghiệp của nó. Trên tinh thần đó,
chúng tơi biên soạn cuốn giáo trình giáo dục kĩ năng sống nhằm giúp cho sinh viên có nguồn
tư liệu để tham khảo trong quá trình nghiên cứu và học tập.
Cuốn giáo trình được biên soạn dựa trên sự tham khảo các sách báo, cơng trình nghiên
cứu khoa học một cách có hệ thống, lơgics. Hy vọng tài liệu là nguồn tư liệu tốt cho sinh viên
học tập.

3


CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
(5LT-0TH)
1.1 Khái niệm
1.1.1 Kĩ năng sống
-

Khái niệm kĩ năng: Kĩ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của cá nhân về một

hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay cơng việc nào đó phát
sinh trong cuộc sống.


Cần phân biệt kĩ năng và khả năng. Kĩ năng là khi con người làm một việc nào đó mang
tính thành thạo, chun nghiệp. Để có kĩ năng phải trải qua rèn luyện mới có. Cịn khả năng là
những tố chất thiên bẩm, mang tính có sẵn. Người có khả năng thì rèn luyện thành kĩ năng dễ
dàng, đơn giản và nhanh hơn. Người khơng có khả năng về lĩnh vực nào đó mà muốn trở thành
kĩ năng về lĩnh vực đó cần phải trải qua rèn luyện mới có.
Người có kĩ năng về một hoạt động nào đó cần phải:
+ Có tri thức về hoạt động đó. Ví dụ, muốn có kĩ năng giao tiếp trước hết phải hiểu biết về
giao tiếp, nghệ thuật giao tiếp; muốn có kĩ năng ứng phó với stress phải có học cách chấp
nhận, đương đầu với thử thách, sống tích cực.
+ Biết cách tiến hành hoạt động có hiệu quả. Ví dụ, trong giao tiếp thấy đối tượng mệt mỏi,
liếc nhìn đồng hồ, trả lời cho qua chuyện thì ta nên kết thúc câu chuyện; s inh viên đi kiến tập
không nên hỏi thu nhập của giáo viên; sinh viên đến thăm trẻ em ở Làng SOS khơng nên tị mị
hỏi cha, mẹ em ở đâu, làm gì vì trẻ em ở đó khơng nơi nương tựa, mồ cơi cha, mẹ...
+ Biết hành động có kết quả trong điều kiện mới. Ví dụ, sinh viên đến thực tập tại cơ sở
mới phải linh động, sáng tạo trong vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Như vậy để có kĩ năng con người cần trải qua quá trình rèn luyện lâu dài. Khi đạt được kĩ
năng về một lĩnh vực, cơng việc nào đó sẽ cho ta kết quả khả quan.
-

Kĩ năng sống:

Thuật ngữ kĩ năng sống được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương trình của
UNICEF (1996)- giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho
thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường.

4


Cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống. Mỗi quan niệm được diễn
tả theo cách thức khác nhau.

Theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO), Kĩ năng
sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng
ngày.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Kĩ năng sống là những kĩ năng thiết thực mà con
người cần để có cuộc sống an tồn , khỏe mạnh. Đó là những kĩ năng mang t ính tâm lí xã hội
và kĩ năng về giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hằng ngày để tương tác một
cách hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của
cuộc sống hằng ngày.
Tuy diễn đạt về kĩ năng sống khác nhau nhưng giống nhau ở nội dung cơ bản đó là kĩ năng
sống là những cách thức ứng xử, xử lý các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống một cách linh hoạt,
mềm dẻo, có hiệu quả.. Từ đó giúp con người xác lập được mối quan hệ tốt đẹp với mọi người
xung quanh, hồn thiện nhân cách của mình.
Một cách khác, có thể tiếp cận khái niệm kĩ năng qua 4 trụ cột của giáo dục:Học để biết;
Học để khẳng định bản thân; Học để chung sống; học để làm việc. Kĩ năng sống có hiểu là: Kĩ
năng học tập; kĩ năng làm chủ bản thân; kĩ năng thích ứng và hịa nhập với cuộc sống, kĩ năng
làm việc.
Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với
người khác, xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Kĩ năng sống là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi, thói quen
tích cực.
Người có kĩ năng sống là người có khả năng kiểm sốt được các tình huống rủi ro giải
quyết nó một cách hiệu quả. Là người ln bình tĩnh, khơn khéo, giải quyết các tình huống nảy
sinh trong cuộc sống một linh hoạt có hiệu quả theo hướng tích cực. Người có kĩ năng sống
bao giờ cũng có các kĩ năng giao tiếp tốt, kĩ năng đồng cảm, kĩ năng kiềm chế, tự kiểm soát, kĩ
năng quyết đoán tự khẳng định. Như vậy, người có kĩ năng sống nó hàm chứa sự thơng minh,
sắc sảo, năng lực cảm hóa và tâm hồn hướng thiện. Người ta thường dùng hình ảnh cây cầu và
dịng sơng để diễn tả sự cần thiết của kĩ năng sống đối với con người. Con người muốn sang
được bến bờ thành công phải đi qua con sông đầy
5



thử thách, rủi ro. Khi đó kĩ năng sống như cây cầu giúp con người chuyển từ rủi ro, thách thức
có kết quả mĩ mãn. Kĩ năng sống trở thành một trong những yếu tố quan trọng của nhân cách.
Theo triết lý của Edgar Morlin thì mục tiêu của giáo dục là cần tạo ra những con người được
rèn luyện tốt để chiếm lĩnh và làm chủ thế giới. Ý nghĩa của cuộc sống khơng phải ở chỗ nó
đem đến cho ta điều gì mà ở chỗ ta có thái độ đối với nó ra sao; khơng phải ở chỗ điều gì xảy
ra với ta mà ở chỗ ta phản ứng với những điều đó như thế nào? Nếu con người có kiến thức, có
thái độ tích cực mới đảm bảo 50% của sự thành cơng, 50% cịn lại là những kĩ năng cần cho
cuộc sống mà ta thường gọi là kĩ năng sống. Người có kĩ năng sống là người biết làm cho mình
và người khác cùng hạnh phúc. Họ luôn yêu đời, làm chủ cuộc sống và thành cơng trong cơng
việc. Kĩ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội góp phần ngăn ngừa các
vấn đề xã hội. Người có kĩ năng sống sẽ xử lý các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống một cách
tích cực, góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp và do vậy sẽ giảm bớt các tệ nạn xã hội,
làm cho xã hội phát triển văn minh hơn, lành mạnh hơn.
1.1.2 Giáo dục kĩ năng sống Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm
có mục đích, có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến
thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội, thực hiện cơng
việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống hàng ngày...
Thực tế cho thấy, kĩ năng sống được hình thành bằng nhiều cách thức khác nhau tùy vào môi
trường sống, môi trường giáo dục. Theo một số nghiên cứu cho thấy, các kỹ năng sống khác
nhau theo địa lý, thời gian.. .ví dụ như trẻ em vùng biển thì có một số kỹ năng sống khác với
trẻ em vùng núi, kỹ năng sống của trẻ em thành phố khác với kỹ năng sống trẻ em nông thôn,
kỹ năng sống của trẻ em ngày xưa khác với kỹ năng sống trẻ em bây giờ. Tuy nhiên có thể
thấy rất rõ ràng là kỹ năng sống ln gắn bó với các giá trị. Các giá trị sống đúng đắn là kết
tinh được truyền lại như sự tôn trọng, sống trách nhiệm, yêu thương, sự tự tin, sự sáng tạo,
lòng ham hiểu biết. Các giá trị này được truyền lại nhằm giáo dục giúp cho con người sống có
chuẩn mực và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội.

6



Định hướng của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giúp cho các em chủ bản thân, ứng xử
phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập hiệu quả, nâng cao sức khỏe tinh thần và
thể chất, ứng phó tích cực trong các tình huống của cuộc sống. Giáo dục kĩ năng sống là hướng
đến thay đổi hành vi theo hướng tích cực.
Kĩ năng sống được xem là biểu hiện của chất lượng giáo dục, là một trong những tiêu
chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Do đó, giáo dục kĩ năng sống trở thành mục tiêu,
chiến lược giáo dục của các cơ sở đào tạo.
1.2 Đặc điểm của công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT
1.2.1 Đặc điểm phát triển tâm sinh lý của học sinh THPT Đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh THPT:
Lứa tuổi học sinh THPT còn gọi là lứa tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ
lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào người lớn.
Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi được chia thành hai thời kì:
Thời kì 15 đến 18 tuổi gọi là thời kì đầu của thanh niên (THPT)
Thời kì từ 18 đến 25 tuổi là thời kì hai của thanh niên (sinh viên).
Thể chất: Cơ thể có sự phát triển cân đối hài hịa, có sức khỏe, có thể làm những cơng
việc nặng nhọc của người lớn. Các em bắt đầu chú ý nhiều hơn tới cơ thể của mình.
Về tâm lí, có sự khác biệt giữa năm và nữ. Nam thích cảm giác mạnh, nữ yếu ớt, yểu
điệu, nhẹ nhàng, khéo léo. Học sinh ở lứa tuổi này thường phát triển các mối quan hệ xã hội
nhất là bạn bè. Các em bắt đầu tự khẳng định mình trong tập thể, thể hiện cái tôi, bản sắc riêng.
Các em hay bắt chước, hay thần tượng về một ai đó mà các em u thích.
Về sự phát triển trí tuệ: Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh
phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Cảm giác và tri giác của
các em đã đạt tới mức độ của người lớn. Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí
nhớ có chủ định giữ vai trị chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu
học tập theo một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Có nghĩa là khi học bài
các em đã biết rút ra những ý chính, đánh dấu lại những đoạn quan trọng, những ý trọng tâm,
lập dàn


7


ý tóm tắt, lập bảng đối chiếu, so sánh. Các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng
một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng hợ p, so sánh, trừu tượng hóa phát
triển cao giúp cho các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích
khái qt, thích tìm hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày,
của những tri thức phải tiếp thu...
Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để
nhận thức chân lý một cách sâu sắc hơn. Thanh niên cũng thích những vấn đề có tính triết lí vì
thế các em rất thích nghe và thích ghi chép những câu triết lý. Nhìn chung tư duy của học sinh
THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán
đoán và giải quyết vấn đề một cách rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược
điểm là chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo
cảm tính. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một cách tích cực độc lập để
phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Việc phát triển khả năng nhận thức
của học sinh trong dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên.
Về sự phát triển của tự ý thức: Các em bắt đầu có thói quen tự nhận thức về chính mình, tự
khẳng mình trong tập thể. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu cầu khẳng định mình,
muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người khác quan tâm, chú ý đến
mình. Nhìn chung thanh niên mới lớn có thể tự đánh giá bản thân một cách sâu sắc nhưng đôi
khi vẫn chưa đúng đắn nên các em vẫn cần sự giúp đỡ của người lớn. Một mặt, người lớn phải
lắng nghe ý kiến của em các, mặt khác phải giúp các em hình thành được biểu tượng khách
quan về nhân cách của mình nhằm giúp cho sự tự đánh giá của các em được đúng đắn hơn,
tránh những lệch lạc, phiến diện trong tự đánh giá. Cần tổ chức hoạt động của tập thể cho các
em có sự giúp đỡ, kiểm tra lẫn nhau để hồn thiện nhân cách của bản thân. Nhìn chung, ở tuổi
này các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người
lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái
niệm, biết xử sự một cách đúng đắn trong


8


những hồn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi các em lại thiếu tin tưởng vào những hành
vi đó. Vì vậy, giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi phê phán những hì nh ảnh lý tưởng cịn lệch
lạc để giúp các em chọn cho mình một hình ảnh lý tưởng đúng đắn để phấn đấu vươn lên.
2.2.2 Nguyên tắc công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT
-

Ngun tắc tương tác: KNS khơng hình thành từ ghi chép, nghe giảng mà phải

thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Việc nghe giảng, đọc tài liệu chỉ có tác
dụng thay đổi nhận thức chỉ khi nào tương tác với bạn bè và những người xung quanh.
-

Nguyên tắc trải nghiệm: KNS được hình thành khi học sinh có cơ hội trải

nghiệm thực tế, học sinh chỉ có kĩ năng khi các em làm việc đó chứ khơng chỉ nói về việc đó.
-

Ngun tắc tiến trình: KNS có được phải là một tiến trình, phải có thời

-

Ngun tắc thay đổi hành vi: Mục tiêu của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh

gian.

THPT không chỉ dừng lại việc thay đổi nhận thức mà mục tiêu chính là thay đổi thói quen,
hành vi tiêu cực. KNS hướng đến rèn luyện kĩ năng ứng phó những vấn đề nảy sinh trong thực

tiễn theo huxongs tích cực.
1.3 Vai trị, ý nghĩa của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT
-

KNS thúc đẩy sự hồn thiện nhân cách, góp phần thúc đẩy xã hội phát trine.

Thanh niên nếu thiếu các kĩ năng sống rất dễ rơi vào cạm bẫy như cơ bạ c, rượu chè, ma
túy...giáo dục kĩ năng sống thúc đẩy hành vi tích cực giảm thiểu các vấn đề xã hội khác.
-

Giáo dục KNS cho học sinh THPT nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục

phổ thông
Mục tiêu của giáo dục phổ thông được xác định alf đào tạo con người phát trine tồn diện, có
đạo đức, có tri thức và có sức khỏe, nghề nghiệp trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ gnhiax xã hội. GDKNS là nhằm hình thành cho học sinh kĩ năng làm chủ bản thân, ứng
phó tình huống nảy sinh trong cuộc sống.

9


1.4 Nhiệm vụ của công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT
Mục đích của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT là trang bị cho học sinh những
hieur biết và kinh nghiệm thực tế để trải nghiệm trong đời sống một cách tích cực. Do đó,
nhiệm vụ của giáo dục kĩ năng sống là hướng đến rèn luyện cho học sinh thói quen và kĩ năng
xử lý tình huống nảy sinh trong cuộc sống một cách mềm dẽo, linh hoạt, tích cực. Vì thế có thể
coi là nhiệm vụ cấp thiết và không thể thiếu được đối với cá nhân, mỗi gia đình, trường học
vfa toàn xã hội.
Nhiệm vụ của nhà trường, trước hết nâng cao chất lượng dạy triết lí sống, quan niệm
nhân sinh quan tích cực và cách rèn luyện bản thân. Nếu biết sống khéo léo nhưng triết lý sống

lệch lạc, không biết tu dưỡng nhân cách thì cách số ng khéo léo đó lại đưa đến tai hạ khơn
lường.
Đối với giáo viên phải ý thức được vai trị, vị trí, tầm quan trọng của GDKNS cho học
sinh. Nắm vững mục tiêu, nội dung bài dạy để tích hợ một số nội dung KNS cần thiết vào bài
giảng giúp học sinh hình thành kĩ năng thái độ phù hợp với các vấn đề thực tiễn.
-

Tăng cường bồi dưỡng phương pháp kĩ năng học tập cho học sinh.

-

Học sinh nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc lĩnh hội tri thức có ý

thức vươn lên trong học tập, tích cực chủ động trong việc tự tìm kiếm tri thức và sự trải
nghiệm để nâng cao kĩ năng sống cho bản thân.
CHƯƠNG 2 HỆ THỐNG CÁC KĨ NĂNG SỐNG CẦN GIÁO DỤC CHO HỌC SINH
THPT (15 LT-0BT)
2.1 Kĩ năng tự nhận thức giá trị của bản thân
-

Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, đánh giá bản thân mình

Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể,
tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng,
tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,...của bản thân mình; quan tâm và ln ý
thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.

10



Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp,
ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thơng được với người
khác. Ngồi ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể cớ những quyết định, những sự
lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã
hội. Ngược lại, đánh giá khơng đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai
lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.
Nếu mỗi cá nhân càng hiểu về bản thân mình tốt, cá nhân đó có thể chấp nhận hoặc thay đổi
bản thân mình. Chỉ khi nhận thức rõ, hiểu rõ về mình, cá nhân mới nhận ra được điều gì chưa
phù hợp để hướng đến thay đổi, thích ứng. Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được
trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác.
Trong thế kỷ thứ 21, nền kinh tế tri thức ln địi hỏi mỗi cá nhân tự phát triển kiến thức,
năng lực của mình để theo kịp với những thay đổi khơng ngừng của xã hội. Điểm khởi đầu cho
sự phát triển khơng ngừng bản thân là kiến thức về chính mình, đặc điểm, tính cách, giá trị của
mình như một cá nhân độc lập và đầy bản sắc cũng như quan hệ của mình với người khác, xã
hội như một thực thể xã hội. Độ rõ ràng, khúc chiết của các câu trả lời cho các câu hỏi: “mình
là ai ?”, “mình đang ở đau”, “mình muốn gì”, “mình sẽ đi đến đâu ?” quyết định năng lực tự
hoạch định cho bản thấn cũng như nhận ra tiềm năng của mình.
Tự nhận biết về bản thân mình khơng có nghĩa là ích kỷ. Tự nhận thức cũng cho phép
mình hiểu về người khác, cách họ cảm nhận về bản thân mình cũng như thái độ và phải hồi
của mình. Sự tự nhận thức là cơ sở - nền tảng - hỗ trợ tất cả các năng lực tư duy cảm xúc. Tự
nhận thức phải có trước, bởi nếu khơng hiểu bản thân và cảm xúc của mình, làm sao chúng ta
có thể biết và hiểu cảm xúc của người khác như thế nào ? Khám phá nội tấm mình sẽ giúp ta
vui lịng “cho” chứ khơng chỉ “nhận”. Điều này giúp xây dựng quan hệ bền vững cũng như
giúp chúng ta tự tin hơn.

ll


Tự nhận thức được về mình ở mọi thời điểm cũng là tiền đề cho việc rèn luyện các kỹ
năng khác như kỹ năng tự đánh giá bản thân, đồng cảm, quản lý cảm xúc, kỹ năng đương đầu

v.v.
Với tuổi đầu thanh niên, tự nhận thức về bản thấn cũng có ý nghĩa quan trọng khơng
kém so với giai đoạn trước. Học sinh tuổi đầu thanh niên vẫn còn đang có những thay đổi, xáo
trộn phát triển về mặt tâm lý cũng như cơ thể để chuẩn bị bước sang một giai đoạn mới, giai
đoạn người trưởng thành. Trước hết, tự nhận thức tốt về mình giúp các em hiểu được bản chất
con người mình và sẽ vững vàng hơn trước những thay đổi mang tính quá độ. Thứ hai, học
sinh tuổi này cũng là lứa tuổi suy nghĩ nhiều về tương lai, định hướng đường đời của mình.
Hiểu rõ về bản thân mình giúp các em chọn những mục tiêu của cuộc đời phù hợp với năng
lực, sở thích của mình. Các em biết được cái gì thúc đẩy mình, khiến mình say mê. Điều này
chính là nguồn ni dưỡng động lực bền vững cho các hoạt động của cá c em.
- Những câu hỏi giúp tự nhận thức bản thân
Đầu tiên, để hiểu đúng về mình, chúng ta cần trung thực với bản thân và thực sự can
đảm đối diện với sự thực ấy. Trung thực với bản thấn là điều không dễ. Nhiều học sinh cũng
như người lớn không sẵn sàng đối diện với sự thật về chính bản thân mình. Ví dụ, nhiều học
sinh có thể tự nhìn nhận bản thân mình là người vui vẻ như là cớ ngụy biện cho việc học tập
kém ở trường.
Khi cá nhân học sinh biết mình là ai, như thế nào, chúng sẽ có thể mong muốn thay đổi
và tiến bộ. Tự nhận thức bản thân cần đến sự trung thực với bản thân mình và can đảm để thực
sự “chạm” đến những suy nghĩ, cảm xúc sâu thẳm nhất về bản thân mình và đối mặt với bản
thân.
Trong q trình khám phá bản thân, khơng nên nghĩ về mình cao hơn khả năng của
mình. Nói cách khác, khơng có thái độ tự cao. Cá nhân cần có cái nhìn tỉnh táo về điểm mạnh,
cũng như khơng q bi quan về điểm yếu và tự tin. Hơn nữa, không nên ngụy biện hoặc lý giải
cho các điểm yếu. Chỉ cần có cái nhìn thực tế, khách quan về điểm mạnh và điểm yếu của
mình, mỗi học sinh sẽ nhận ra được các giá trị của mình cũng như tơn trọng bản thân mình.
Để hiểu về mình, học sinh cần trả lời các câu hỏi như:

12



Về xã hội:
+ Mình muối chơi với kiểu người như thế nào (thơng minh, vui vẻ, trầm tính, hài hước,
lạc quan, khách quan, hiền lành, dễ tính, ngăn nắp v.v...) ?
+ Những người bạn xung quanh mình có những tính cách đó khơng ?
+ Vì sao mình lại thích các đặc điểm đó ở mọi người ?
+ Mình tìm chơi với những người giống mình hay khác mình ? Vì sao ?
+ Mình có bao nhiêu bạn thân ? Mối quan hệ với các bạn thấn này như thế nào (nói
chuyện, chia sẻ với nhau, cùng nhau làm cái gì đó, cùng chơi điện tử với nhau, cùng sở thích
v.v) ?
+ Bạn bè nghĩ về mình là người như thế nào ?
Về cảm xúc
+ Kể ra 3 tình huống hoặc những lần mà mình cảm thấy hạnh phúc nhất ? Điều gì lúc đó
khiến mình hạnh phúc ?
+ Điều gì trong cuộc sống hiện tại khiến mình sợ nhất ? Vì sao sợ ?
+ Khi nào mình cảm thấy tức giận nhất hoặc khó chịu nhất ? Yếu tố nào khiến mình lại
cảm thấy tức giận như vậy ?
+ Quan nhiệm của mình về tình yêu và hạnh phúc ?
+ Mình có thể kiểm sốt được cảm xúc của mình khơng ? Có thì lúc nào và như thế nào ?
khơng thì trong trường hợp như thế nào ?
+ Các cảm xúc nào mình muốn trải nghiệm hầu hết thời gian ?
Về cá nhân
+ Phẩm chất nào của bản thân mà mình tự hào nhất ?
+ Năng lực, kỹ năng nào của bản thân mà mình tự hào nhất ?
+ Từ lúc bé đến giờ, liệt kê 10 sự kiện có ý nghĩa đặc biệt với bản thân ? Vì sao nó đặc
biệt ?
+ 5 điểm mạnh của mình ? 5 điểm yếu của mình ?
+ Những điều mình mong muốn nhất ? Vì sao mình lại mong muốn điều đó nhất ?
+ Nhớ lại những lúc mình cảm thấy mất tự tin, chán bản thân mình, rồi sau đó lại cảm
thấy tự tin trở lại ? Điều gì giúp mình thay đổi cảm xúc về bản thân mình ?
Về định hướng nghề nghiệp

13


+ Mục tiêu nghề nghiệp của mình là gì ?
+ Quan niệm của mình về thành cơng trong cuộc sống là gì ?
+ Tiền bạc có ý nghĩa như thế nào đối với tơi ?
+ Hoạt động nào mình thích chơi nhất lúc nhỏ (lắp khối, vẽ, xếp hình, chơi tương tác,
đuổi bắt v.v.) ?
+ Mình thích loại cơng việc nào (thương mại, nghiên cứu, dịch vụ, nghệ thuật v.v.) ?
- Một số điều cần lưu ý
Học sinh tiếp xúc với thầy cô, bạn bè hằng ngày nên tấm gương của thầy cô, bạn bè đối
với cá nhân từng học sinh là vơ cùng quan trọng việc hình thành ở các em năng lực tự nhận
biết chính mình.
Trước hết, để mỗi học sinh tự hiểu tốt bản thân mình, thầy cơ cần có những cách ứng xử
hợp lý trong cuộc sống hàng ngày, khuyến khích các em trong từng hồn cảnh có những suy
lắng về cảm xúc, về trải nghiệm của bản thân.
Một số gợi ý cho thầy cô về cách thức nuôi dưỡng sự tự nhận thức:
Cởi mở chia sẻ với các em những suy nghĩ, trải nghiệm của mình trong những tình
huống các em có thể hiểu được hoặc phù hợp với lứa tuổi của cúng. Trong các tình huống của
cuộc sống, các em học được rất nhiều và trực tiếp từ cách ứng xử, hành vi của cha mẹ, thầy cô
hay bạn bè.
Chấp nhận trải nghiệm của cá nhân như nó vốn có, khơng phê phán, điều chỉnh. Điều
này là quan trọng vì thầy cơ hay có xu hownsg điều chỉnh, “dạy” các em như “ không nên
buồn vì đã cãi nhau với bạn” v.v. Việc người lớn chấp nhận hay dương tính (vui, phấn khích)
sẽ giúp các em chấp nhận những cảm xúc đó, khơng cố gắng che dấu hoặc đè nén chúng. Điều
này rất cần thiết để có được sự tự nhận thức bản thân một cách đầy đủ. Những người lớn cần
tách biệt rõ giữa một bên là những cảm xúc bên trong của các em và cảm xúc thì khơng có
đúng sai, và một bên là hành vi của học sinh và hành vi có thể đúng hoặc sai.
Khen ngợi, khuyến khích các em khi cúng hồn thành một việc gì đó.
-Khuyến khích và tạo điều kiện cho các em tham dự vào các hoạt động khiến các em

thấy tự tin và muốn bộc lộ năng lực, phẩm chất của bản thân. Chẳng hạn,

14


nếu học sinh A đá bóng tốt, hãy tạo điều kiện và khuyến khích em đá bóng vì ở đó, các phẩm
chát của em được thể hiện và điều này giúp các em tự tin hơn vào bản thân mình.
Thầy cô cũng nên rèn luyện kỹ năng tự nhận thức bản thân của mình, để kỹ năng trở
thành một thói quen, hoạt động thường nhật mỗi ngày. Sự tự nhận thức được phát triển thông
qua thực hành tập trung chú ý vào các chi tiết của cảm xúc, nhân cách và hành vi.
Các cách thức để nâng cao khả năng tự nhận thức:
+ Dành 1 hoặc 2 phút mỗi ngày để suy nghĩ về các trải nghiệm của mình, đánh giá phổ
rộng các trải nghiệm của mình bao gồm cảm giác cơ thể, cảm xúc, suy nghĩ, mong muốn;
+ Bất cứ khi nào cảm thấy buồn hoặc rối bời, đối diện với tình huống căng thẳng, hãy
đánh giá nhanh phổ trải nghiệm của mình như ở trên đã đề cập bằng cách ghi lại những hành vi
và cảm xúc của mình;
+ Tự đánh giá bản thân một cách trung thực về những điều thầm kín trong nội tâm,
những điều mình cố gắng lờ đi, đè nén, chối bỏ, không thừa nhận hoặc gạt sang một bên.
Chúng ta nên nhớ rằng chúng ta càng không chấp nhận các cảm xúc, trải nghiệm của mình, các
cảm xúc đó càng lưu tồn. Cách nhanh nhất để giúp chúng ta giải quyết, vượt qua được những
trải nghiệm đau buồn, khó khăn và cởi mở, bộc lộ, phơi bày chúng; Tích hợp việc luyện tập kỹ
năng này hàng ngày trong hoạt động nào đó mà bạn có thể tập trung tâm trí theo cách tích cực
và bình yên nhất. Thiền, yoga, thư giãn là những phương pháp truyền thống nhất theo cách
này; nhưng bạn cũng có thể luyện tập lắng nghe tiếng nói của cơ thể mình trong khi nấu ăn, đi
dạo, chơi hoặc nghe nhạc.
+ Tận tâm, chú ý và tập trung vào công việc.
- Các hoạt động giúp học sinh hình thành kỹ năng tự nhận thức
Hoạt động 1 cá nhân: Tìm điểm mạnh và yếu của bản thân
+ Những môn học nào em học khá nhất, môn nào cần cố gắng nhiều hơn ?
+ Trong thời gian qua,thành công lớn nhất của em là gì ?

+ Chỉ ra những thất bại của em trong năm vừa qua.

15


+ Chỉ ra 3 điểm mạnh và 3 điểm yếu của bản thân và đưa ra kết luận về bản thân mình.
Hoạt động 2 nhóm: Chia sẻ về tự nhận thức bản thân
Thời gian: 20 phút
Mục tiêu: giúp các em hiểu rõ về mình hơn, khám phá và nhận biết các đặc điểm, phẩm
chất của mình.
Dụng cụ: Tờ rơi in sẵn các mệnh đề.
Tiến hành: Người quản trò giới thiệu các ngun tắc của hoạt động nhóm: tơn trọng, bảo
mật, không phê phán, lần lượt chia sẻ cảm xúc và suy nghĩ. Điều này giúp các em cảm thấy an
toàn và thoải mái tham dự vào hoạt động. Chia lớp học thành các nhóm gồm 3 người. Mỗi em
tự suy nghĩ và điền vào tờ rơi trong 10 phút, sau đó chia sẻ với những bạn trong nhóm của
mình.
Tờ rơi in sẵn mệnh đề:
- Sở thích của bản thân là gì ? (chẳng hạn đọc sách, đá bóng, xem TV, hát, nhảy v.v...).
- Cuốn truyện/ sách, chương trình TV, phim mà mình u thích nhất ?
- Điểm mạnh và năng khiếu của mình là gì ?
- Điều gì ở bản thân mình thấy cần phải thay đổi/ cải thiện ?
- Mình là người ... ?
- Ai là bạn thân nhất của mình ? Người đó như thế nào ? Có đặc điểm gì nổi bật ?
- Mình muốn làm nghề gì trong tương lai ?
Hoạt động 3 nhóm: Chia sẻ các giá trị của bản thân và nhóm
Thời gian: 30 phút
Mục tiêu: giúp các ẹm hiểu rõ về các giá trị của mình và người khác.
Dụng cụ: Giấy A0, bút dạ mầu
Tiến hành: Chia các em thành các nhóm nhỏ (khơng q 8 người một nhóm). u cầu
mỗi nhóm liệt kê các giá trị mà các em hướng đến theo thứ tự quan trọng trong 20 phút. Sau

đó, đại diện của nhóm chia sẻ với tất cả. Thảo luận với cả lớp về những giá trị mà tất cả các
nhóm đều có ? So sánh sự khác biệt giữa các nhóm
Hoạt động 4 nhóm: Khám phá và chia sẻ các giá trị

16


Thời gian: 30 phút
Mục tiêu: Nhận biết các giá trị đang được xã hội công nhận và đề cao.
Chuẩn bị: Yêu cầu từ buổi trước mỗi em mang đến lớp một hoặc 2 mẫu quảng cáo dành
cho lứa tuổi mình. Quảng cáo có thể trên báo hoặc trên tivi.
Tiến hành: Chia lớp thành các nhóm nhỏ (khơng q 8 người một nhóm) và thảo luận
các vấn đề sau:
• Mẫu quảng cáo hướng đến. khuyến khích giá trị nào ?
• Em có cùng chia sẻ giá trị đó khơng ?
• Mẫu quảng cáo đó có đi ngược lại với giá trị nào của em khơng ?
• Mẫu quảng cáo đó có ảnh hưởng đến hình ảnh/suy nghĩ của em về chính bản thân mình
khơng ?
Hoạt động 5: Người khác nghĩ gì về mình
Thời gian: 15 phút
Chuẩn bị: khăn bịt mắt.
Mục tiêu: Khám phá những suy nghĩ, nhận định của người khác về bản thân mình.
Tiến hành: Cả nhóm đứng quanh thành vịng trịn. Chọn một người làm tình nguyện. Bịt
mắt người tình nguyện. Bật một bản nhạc và cho người tình nguyện viên đi xung quanh vịng
nhóm. Khi nhạc dừng, tình nguyện viên bị bịt mắt sẽ đứng trước một thành viên nào đó của
nhóm. Những người khác trong vịng bắt đàu nói đến những phẩm chất, đặc điểm của người
này sao cho tình nguyện viên có thể nhận ra nhanh nhất người mình đang đứng trước.
2.2 Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết
hoặc sử dụng ngơn ngữ cơ thể phù hợp với hồn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tơn

trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về
suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần
thiết.
Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách
giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại
gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này giúp chúng ta

17


có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các
thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây
dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống.
Kĩ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.
Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng khác như bày tỏ sự cảm thơng,
thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn, kiếm soát cảm xúc. Người
có kĩ năng giao tiếp tốt biết dung hịa đối với mong đợi của những người khác, có cách ứng xử
khi làm việc cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến
những điều người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một
cách chính đáng.
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kĩ năng giao tiếp. Người có kĩ năng
lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến
hoặc phần trình bày của người khác (bằng các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết
cho ý kiến phản hồi mà không vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lí trong q trình giao
tiếp.
Người có kĩ năng lắng nghe tích cực thường được nhìn nhận là biết tôn trọng và quan
tâm đến ý kiến của người khác, nhờ đó làm cho việc giao tiếp, thương lượng và hợp tác của họ
hiệu quả hơn. Lắng nghe tích cực cũng góp phần giải quyết mâu thuẫn một cách hài hịa và xây
dựng.
Kĩ năng lắng nghe tích cực có quan hệ mật thiết với các kĩ năng giao tiếp, thương

lượng, hợp tác, kiềm chế cảm xúc và giải quyết mâu thuẫn.
2.3 Kĩ năng đồng cảm Đồng cảm là khả năng hiểu mọi người, thế giới từ quan điểm
của người khác và luôn hành động, ứng xử với người khác dựa vào nỗ lực hiểu biết đó.
Đồng cảm với một người là hiểu người đo đang cảm thấy như thế nào, hoặc nói cách
khác, suy nghĩ và nhận biết xem mình có thể cảm thấy như thế nào nếu mình ở trong vị trí, tình
huống của họ. Đồng cảm cá nhân ln ý thức được rằng những gì người khác suy nghĩ có thể
tương tự nhưng cũng óc thể rất khác với điều

18


chúng ta suy nghĩ, và họ đều có những cảm xúc và hình ảnh tâm trí gắn liền với những suy
nghĩ đó. Kĩ năng thể hiện sự cảm thơng được dựa trên kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác
định giá trị, đồng thời là yếu tố cần thiết trong kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, giải quyết
mâu thuẫn, thương lượng, kiên định và kiềm chế cảm xúc.
Thể hiện sự cảm thơng là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong hồn cảnh của
người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là những người rất khác mình,
qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình cảm của người khác và cảm thơng với hồn
cảnh hoặc nhu cầu của họ
- Tầm quan trọng của kỹ năng đồng cảm đối với học sinh
Đồng cảm bao gồm tình cảm và tư duy. Đồng cảm có nghĩa là cảm được cảm xúc của
người khác (đau khổ, buồn, ân hận, tức giận, vui vẻ v.v..). Đồng cảm cũng có nghĩa là hiểu biết
logic về suy nghĩ, cảm xúc của người khác. Không giống như tư chất phụ thuộc nhiều vào di
truyền, đồng cảm là một kỹ năng phải học mới có được. Những học sinh có khả năng đồng
cảm có xu hướng học tốt hơn ở trường, có nhiều bạn hơn, và phát triển hơn về sự nghiệp khi
trưởng thành. Các em học sinh có kỹ năng đồng cảm ln được các bạn bè coi là thủ lĩnh.
Kĩ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử
với người khác; cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đa văn hóa,
đa sắc tộc. Kĩ năng thể hiện sự cảm thơng cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi
thân thiện, gần gũi với những người cần sự giúp đỡ. Thiếu sự đồng cảm được giả thiết là

nguyên nhân phát triển các hành vi chống đối xã hội và bắt nạt bạn bè ở học sinh. Không có
khả năng nhận ra và quan tâm đến sự đau đớn, khổ cực của nạn nhân khiến kẻ bắt nạt khơng
cảm thấy có lỗi và sửa chữa hành vi của mình. Giúp các em hình thành và phát triển kỹ năng
thấu hiểu, chúng ta đã nuôi dưỡng phần người ở các em.
- Những điều cần lưu ý
Trong hình thành khả năng đồng cảm, cách mà người lớn thể hiện sự đồng cảm của mình
là điều quan trọng nhất hơn bất cứ lời nói nào của chúng ta. Chẳng hạn, khi học sinh kể chuyện
về hiện tượng chế diễu một bạn ở lớp béo, chúng ta

19


nghĩ rằng chúng ta mắng các em và nói các em khơng được nói thế sẽ là cách làm đúng. Trên
thực tế, cách làm này không thể hiện sự đồng cảm của mình đối với các em (vì các em đang
vui vẻ “một cách không hữu ý” về sự trêu đùa này) và cũng không dạy được các em biết đồng
cảm với người khác. Thay vào đó, chúng ta có thể nhẹ nhàng giải thích với các em là việc trêu
bạn như thế sẽ khiến bạn cảm thấy buồn, xấu hổ. Chúng ta cũng hỏi các em xem có bao giờ
các em cảm thấy buồn vì những lời trêu chọc của người khác không.
Để nuôi dưỡng kỹ năng này ở học sinh, thầy cô nên biết:
- Lắng nghe học sinh: Chỉ khi thực sự lắng nghe học sinh nói chuyện, thầy cô mới nắm
bắt được suy nghĩ, cảm xúc của học sinh, từ đó hiểu được những cảm xúc suy nghĩ đó. Thầy cơ
thể hiện cho các em biết mình đang lắng nghe bằng cách nhắc lại một số ý chính, hoặc cảm xúc
của học sinh khi phù hợp. Lắng nghe học sinh có ý nghĩa quan trọng vì một mặt giúp chúng ta
thực sự thấu hiểu các em, mặt khác, chúng ta cũng đang là hình mẫu để các em học tập cho các
tình huống khác (chẳng hạn lắng nghe bạn nói để hiểu bạn). Đơi khi, chúng ta chỉ cần lắng
nghe mà không cần phải đưa ra bất cứ một câu hỏi, bình luận, giải pháp nào.
- Là hình mẫu cho học sinh: Khi chúng ta đối xử với học sinh theo cách thấu hiểu, chúng
ta không ngừng ni dưỡng tình cảm với học sinh mà cịn đang là hình mẫu về sự nhân từ, thấu
hiểu cho các em bắt chước. Thể hiện sự đồng cảm của mình trong những tình huống học sinh
mắc lỗi như chưa chuẩn bị bài, vơ hình làm hỏng thiết bị v.v.... sẽ đặc biệt có giá trị và ấn

tượng đối với các em. Đồng cảm khơng có nghĩa là đồng ý với mọi điều học sinh làm mà là cố
gắng tôn trọng quan điểm, cảm xúc của các em, chấp nhận và hiểu được vì sao các em lại có
những biểu hiện, hành động như vậy. Thông thường, chúng ta sẽ đồng cảm khi học sinh thực
hiện tốt, có cảm xúc dương tính. Chúng ta khó đồng cảm hơn khi các em khơng làm tốt cơng
việc, khó chịu, tức giận hoặc có các cảm xúc âm tính khác. Chẳng hạn, nếu một học sinh bị
bạn bè trêu chọc và cậu đánh lại bạn mình, thầy cơ sẽ rất dễ chỉ nhìn vào việc em đó đánh bạn
và có thái độ phê bình em đó. Cần hiểu và cảm nhận cả cảm xúc tức giận mà các em trải
nghiệm lúc đó. Chính những tình

20


huống như thế này là cơ hội tốt nhất để thầy cô làm mẫu cho học sinh về sự đồng cảm.
Ngồi ra, thầy cơ cũng có thể chỉ cho học sinh những ví dụ về sự đồng cảm ở trên báo
chí, trong khu phố, trong cuộc sống.
- Khơng chỉ trích, phê phán người khác.
- Tạo bầu khơng khí cởi mở trong lớp học để học sinh cảm thấy dễ dàng chia sẻ trải
nghiệm, cả dương tính và âm tính. Khi học sinh nói với mình, hãy đồng cảm với các em bằng
cách hiểu những cảm xúc của các em, thể hiện rằng chúng ta hiểu các em và bộc lộ cử chỉ phi
ngơn ngữ (như gật đầu, nheo mắt v.v...).
Ngồi ra, các gợi ý ở phần kỹ năng tự nhận thức và tự trọng để thầy cô tự luyện tập cho
bản thân cũng có thể áp dụng trong phần này.

Một số chiến lược để dạy kỹ năng đồng cảm
- Dạy và khuyến khích học sinh diễn tả cảm xúc của mình: các em cần được biết cách
gọi tên các cảm xúc của mình để hiểu được cảm xúc của người khác, chẳng hạn như “tức
giận”, “chán”, “buồn”, “cáu” v.v... Khi học sinh có cảm xúc mạnh, chúng ta có thể thể hiện sự
đồng cảm của ta với học sinh bằng cách giúp các em gọi tên cảm xúc hiện tại của mình.
- “Đổi vai”: Khi có cãi nhau, bất đồng giữa học sinh với nhau, hỏi các em xem theo các
em, mình sẽ cảm thấy thế nào khi ở vị trí của họ.

- Dạy học sinh biết quan tâm: với các tình huống thực trong cuộc sống, ln nhớ để dạy
học sinh biết cách “cho” chứ không chỉ nhận, và các em cũng trải nghiệm niềm vui khi mình
đem lại cho người khác cái gì. Ban đầu, chúng ta cần hướng dẫn và khởi xướng cho học sinh,
chẳng hạn “Ở nhà, bà đang ốm, học sinh có nghĩ mình nên nấu gì cho bà khơng?” “Bạn ở lớp
bị mệt, em có thể làm gì?”.
- Lưu ý đến cách hành vi thiếu tế nhị: khi học sinh hành xử chưa tốt với người khác,
thầy cơ có thể nhân cơ hội đó để giúp các em tế nhị, tinh ý hơn về cảm xúc của người khác.
Chỉ đơn giản trao đổi với các em xem ảnh hưởng hành vi của các em, chẳng hạn như “em nghĩ
xem nếu bạn đánh em như vậy thì em sẽ cảm thấy như thế nào ?, em cảm thấy thế nào về việc
em đánh bán ?”. Trao đổi với học sinh

21



×