Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tl vbttcs vai trò của đảng cộng sản việt nam quy trình ban hành luật giáo dục 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.73 KB, 13 trang )

TÍT
“Vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam quy trình ban hành Luật
giáo dục 2019”.
Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 được Quốc hội khóa XIV thơng qua
ngày 14/6. Với mục tiêu nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
và pháp luật của Nhà nước về đổi mới GD-ĐT; góp phần xây dựng nền
giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân; giáo dục con người yêu gia đình, yêu Tổ
quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Đồng thời, tạo hành
lang pháp lý cho việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục mở,
thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương
thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều
kiện nâng cao chất lượng. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020.
Ngồi quy định chung về chính sách giáo dục và hệ thống giáo dục quốc
dân, Luật Giáo dục 2019 cịn có nhiều nội dung đáng mới chú ý.
Có thể thấy, để quy trình ban hành Luật giáo dục sửa đổi 2019 đã
tốn khơng ít giấy mực của báo chí và sự đồn kết, đóng góp ý kiến của các
tập thể, cá nhân và đặc biệt là sự góp ý đúng đắn và hoàn thiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đây là lý do sinh viên lựa chọn viết tin sâu với tít: “Vai trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam quy trình ban hành Luật giáo dục 2019”.

1


NỘI DUNG

1. Hệ thống chính trị với quy trình chính sách ở Việt Nam
Do đặc thù của hệ thống chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam vừa là
thành viên, vừa là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống nên mọi chính sách của
Nhà nước đều là sự cụ thể hóa, thể chế hóa các đường lối, chủ trương,


chiến lược của Đảng. Chính vì vậy, Đảng cũng chính là một chủ thể quan
trọng trong hoạch định chính sách cơng.
Các đề xuất chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ quan nhà nước
được giao nhiệm vụ quản lý. Điều này có nghĩa là thiếu cơ chế để các chủ
thể khác tham gia vào quy trình chính sách, đồng thời khiến cho quy trình
chính sách trở nên xơ cứng, thiếu tính linh hoạt. Việc dự thảo chính sách
thường do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan đặc biệt của chính phủ,
UBND tỉnh thực hiện. Chính vì vậy, trong thực tế cũng khó phát huy được
vai trị đại diện lợi ích của nhân dân khi mà cơ quan đại biểu của nhân dân
cũng chỉ cho ý kiến ở những giai đoạn cuối cùng, khi về cơ bản chính sách
đã được xây dựng.
Các chính sách thường được đưa ra dựa trên sự suy xét, phân tích tình
hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của cơ quan nhà

2


nước. Do đó gần như chúng ta thiếu hẳn một cơ sở khoa học cho việc lựa
chọn chính sách.
Về mặt quy trình, việc hoạch định chính sách chủ yếu được tiến hành
theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của chính phủ. Thêm vào đó,
quy trình chính sách cịn bị khép kín. Điều này có nghĩa là quy trình chính
sách ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự minh bạch để các chủ thể ngoài
Đảng và Nhà nước tham gia tích cực và chủ động vào quy trình chính;
đồng thời cũng chưa huy động được một cách rộng rãi các nguồn lực xã hội
để nâng cao chất lượng quy trình này. Nói cách khác, chúng ta thiếu hẳn
một cơ chế để quy định sự tham gia của các chủ thể khác trong đời sống
chính trị vào quy trình chính sách.
Dù là cả hệ thống chính trị đều tham gia vào quy trình chính sách
nhưng lại chưa phân cơng rõ trách nhiệm của từng cơ quan, từng thể chế.

Bên cạnh đó, việc xây dựng chính sách q phân tán về nguồn lực và chồng
chéo về chủ thể nên khó phân định một cách rạch rịi trách nhiệm của các
bên có liên quan, đặc biệt là thiếu chế tài xử lý khi chính sách thất bại dẫn
đến hiệu quả của các chính sách về cơ bản cịn thấp.
Tất cả những điều này dẫn đến nhận định khái quát hơn về chính sách
cơng ở Việt Nam hiện nay là cịn nặng về tính kinh nghiệm mà thiếu cơ sở
khoa học. Do đó các chính sách thường khơng được phân tích một cash đầy
đủ các yếu tố; không làm rõ các đối tượng liên quan đến chính sách để
chuẩn bị tốt các phương án và nguồn lực dự phòng; chưa chú trọng đúng
mức đến việc phân phối lại, và cuối cùng là tính khả thi của các phương án
chính sách khơng cao, làm giảm hiệu quả của các chính sách.
2. Vai trị của Đảng khi tham gia quy trình chính sách
Trong cơng tác hoạch định và ban hành chính sách
Hoạch định chính sách là khâu đầu tiên trong tồn bộ chu trình chính
sách. Hoạch định chính sách cơng được hiểu là tồn bộ quá trình nghiên
cứu, xây dựng, ban hành đầy đủ một chính sách cơng.

3


Về xác định vấn đề chính sách: Vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện ở
nội dung này chính là định hướng xã hội, cân nhắc sự lựa chọn, đề xuất các
vấn đề chính sách để giải quyết trong số hàng loạt các vấn đề chính sách xã
hội đang phát sinh, đặt ra. Điều này thể hiện rõ ở chỗ, chỉ có các vấn đề
chính sách, bức thiết của xã hội phù hợp với cương lĩnh, quan điểm và
đường lối của Đảng đang thực hiện thì mới được xem xét, đưa vào nghị
trình, xây dựng chính sách cơng. Vai trị của Đảng biểu hiện ở chỗ cân
nhắc, tính tốn, đối chiếu vấn đề chính sách trong thực tiễn với hệ thống
văn kiện mang tính chỉ đạo. Nếu phù hợp, thống nhất với định hướng chính
trị của Đảng thì các vấn đề xã hội được cân nhắc sẽ trở thành vấn đề của

chính sách cơng.
Về thiết lập nghị trình chính sách: Danh mục các vấn đề chính sách đệ
trình lên cơ quan quyền lực tối cao phải phù hợp với định hướng chính trị
phản ánh thơng qua văn kiện, quyết sách chính trị của Đảng. Q trình bàn
thảo, cân nhắc được thực hiện sôi nổi song quyết định đến đâu sẽ là vấn đề
chính sách và vấn đề chính sách nào cần được cân nhắc đưa vào danh sách
nghị trình trình cơ quan thẩm quyền xem xét, thông qua, quyết định ban
hành chính sách tùy thuộc bối cảnh chính trị, đặc biệt là phù hợp với
phương diện định hướng, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta.
Khâu hoạch định và ban hành chính sách: Sự lãnh đạo của Đảng trong
khâu hoạch định chính sách thể hiện rõ nét thơng qua sự lãnh đạo của Đảng
với Đảng Đoàn Quốc hội. Sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính
trị với Quốc hội trong tổ chức hoạt động, đặc biệt là việc hoạch định và ban
hành chính sách cơng thể hiện ở tầm quan điểm, chủ trương, chính sách lớn
thơng qua cương lĩnh, nghị quyết và chiến lược. Bộ Chính trị chỉ nêu
phương hướng, quan điểm, chủ trương, nguyên tắc, giải pháp lớn để định
hướng xây dựng và ban hành hệ thống, hoặc từng chính sách một để Quốc
hội, Đảng Đồn Quốc hội thảo luận, quyết định theo đa số những đạo luật,
kế hoạch kinh tế - xã hội hằng năm, chính sách công nhằm giải quyết các
vấn đề bức thiết từ thực tiễn cuộc sống đặc ra. Với những vấn đề chính
4


sách lớn, có tính chun ngành, trước khi được đa số đại biểu Quốc hội
thơng qua, thơng qua Đảng Đồn Quốc hội, Bộ Chính trị nêu phương
hướng để đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu ở các Đoàn Đại biểu
Quốc hội bàn bạc, quyết định.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cơng tác thực thi chính sách
Để thể hiện vai trị lãnh đạo của mình đối với khâu này của q trình
thực thi chính sách cơng, Đảng sử dụng hàng loạt các phương thức lãnh

đạo phù hợp, khác nhau, như: Thể chế hóa các quan điểm, định hướng lớn
của Đảng về mơ hình, cách thức tổ chức, vận hành, quản lý bộ máy Nhà
nước, nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước, xây dựng cơ chế phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực thi chức trách, nhiệm
vụ; kết hợp hài hòa giữa phương thức tuyên truyền, vận động với động
viên, huy động toàn hệ thống chính trị, xã hội tham gia q trình thực thi
chính sách; kiểm tra, giám sát q trình phân cơng, phối hợp và đơn đốc tổ
chức thực thi chính sách.
Vai trị lãnh đạo của Đảng trong cơng tác đánh giá hiệu quả chính
sách
Đảng thực hiện phương thức lãnh đạo cơng tác đánh giá chính sách
cơng thơng qua định hướng, chỉ đạo chiến lược ở các điểm trọng yếu, như:
Việc lựa chọn các phương pháp đánh giá chính sách cơng; việc xác định
(hệ) mục tiêu và nội dung được xem xét để đánh giá chính sách cơng, việc
xác định chủ thể tham gia đánh giá chính sách; việc xác định sử dụng kết
quả đánh giá chính sách và việc khởi tạo q trình chính sách mới…
3. Vai trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quy trình ban hành
Luật giáo dục 2019
Vai trị hoạch định chính sách
Thực hiện Nghị quyết số 34/2017/QH14 ngày 08 tháng 6 năm 2017
của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và điều
chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017, Chính phủ đã chỉ
đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên
5


quan xây dựng Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
dục.
- Về mục tiêu xây dựng Dự án Luật
a) Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về đổi

mới giáo dục và đào tạo; tạo ra sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản
pháp luật khác trong toàn hệ thống để tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Góp phần
xây dựng nền giáo dục Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; giáo dục con người yêu gia
đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả;
b) Tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam là
nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ
cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo
đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ
hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
- Về quan điểm chỉ đạo xây dựng Dự án Luật
a) Thể chế hóa các quan điểm và định hướng của Đảng về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, đã được nêu trong các Nghị quyết: Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị
quyết số 29-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, Nghị quyết số
88/2014/QH13;
b) Cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 với những
nội dung liên quan đến phát triển giáo dục và đào tạo; bảo đảm tính thống
nhất và đồng bộ của Luật Giáo dục với các văn bản pháp luật khác có liên
quan để quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo;

6


c) Đảm bảo tính tồn diện (rà sốt tất cả các điều của Luật), có trọng

tâm, trọng điểm, tập trung vào những điều có nội dung khơng cịn phù hợp,
đang tạo những điểm nghẽn; đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện
thực tiễn, thiết thực thông qua việc lựa chọn sửa đổi, bổ sung những nội
dung để giải quyết vấn đề “nút thắt” trong thực hiện đổi mới giáo dục, đào
tạo và huy động được các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển
giáo dục;
d) Khắc phục được một số khó khăn, vướng mắc, bất cập trong q
trình thực thi Luật; đảm bảo tính kế thừa và phát triển các quy định của
pháp luật hiện hành về lĩnh vực giáo dục và đào tạo; đảm bảo Luật Giáo
dục vừa là Luật khung, làm nền tảng cho các Luật chuyên ngành như giáo
dục đại học, giáo dục nghề nghiệp... vừa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các
cấp học khác như giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng Luật Giáo dục.
Vai trị thảo luận, đóng góp ý kiến và thơng qua chính sách
- Về thảo luận chính sách
Tại chương trình kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV, sáng ngày
21/5/2019, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Giáo dục (sửa
đổi). Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tịng Thị Phóng điều hành phiên
họp.
Dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đã chỉnh lý có bố cục gồm 10
Chương, 119 Điều quy định về về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường,
cơ sở giáo dục khác; nhà giáo, người học; trách nhiệm của Nhà nước, cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục.
Qua thảo luận, các đại biểu đều cơ bản đồng tình cáo với nhiều nội
dung trong Báo cáo bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật
Giáo dục (sửa đổi) và thống nhất cho rằng, dự thảo luật đã được tiếp thu,
chỉnh sửa khá toàn diện, khắc phục được nhiều bất cập, hạn chế mà các đại
biểu Quốc hội, cử tri, nhân dân đã góp ý và đóng góp thêm nhiều nội dung
để hoàn thiện dự thảo luật.
7



Các đại biểu Quốc hội cho rằng, dự thảo Luật đã có những chỉnh sửa
về nội dung và bố cục hợp lý hơn; các nội dung trong báo cáo giải trình,
tiếp thu, chỉnh lý đã được giải trình một cách rõ ràng, có căn cứ và thuyết
phục.
Với nội dung về triết lý giáo dục, một số ý kiến đại biểu bày tỏ đồng
tình với quan điểm, triết lý giáo dục có vai trị đặc biệt quan trọng trong
việc xác định mục tiêu và định hướng phát triển giáo dục của mỗi quốc gia.
Trên thực tế, nền giáo dục Việt Nam đã và đang vận động dưới sự dẫn dắt
của một triết lý giáo dục được xây dựng, hình thành và phát triển qua các
thời kỳ cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; thể hiện rõ
trong các quan điểm, định hướng của Đảng và được thể chế hóa thành các
quy định về mục tiêu, tính chất, nguyên lý phát triển giáo dục, thể hiện nhất
quán tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện đại.
Bên cạnh đó, qua tham khảo Luật Giáo dục một số nước trên thế giới
cho thấy, hầu hết không quy định riêng về triết lý giáo dục mà chỉ thông
qua những quy định về mục đích, sứ mệnh, mục tiêu và nguyên lý giáo dục.
Vì vậy, các đại biểu đề nghị giữ như dự thảo Luật, theo đó triết lý giáo dục
Việt Nam được thể hiện qua các quy định về mục tiêu, tính chất, nguyên lý,
quan điểm phát triển giáo dục (các điều 2,3,4); đồng thời tinh thần triết lý
giáo dục cũng xuyên suốt trong các quy định của Luật này…
Phát biểu kết thúc nội dung phiên họp, Phó Chủ tịch Thường trực
Quốc hội Tịng Thị Phóng cho biết, đa sớ ý kiến thảo luận đồng tình cao
với các nội dung trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật
Giáo dục (sửa đổi) và dự thảo Luật đã được chỉnh lý. Phó Chủ tịch Quốc
hội Tịng Thị Phóng cảm ơn các ý kiến góp ý tâm huyết, xác đáng của các
đại biểu Quốc hội phát biểu tại phiên họp; “Quốc hội sẽ cùng với Chính
phủ tiếp thu tất cả các góp ý, rà sốt tất cả các nội dung của dự thảo Luật
thêm một lần nữa và sẽ có báo cáo giải trình rõ tất các những vẫn đề các đại

biểu còn băn khoăn tại phiên họp hôm nay trước khi quyết nghị thông qua
tại kỳ họp này” - Phó Chủ tịch Quốc hội Tịng Thị Phóng nói.
8


- Về quyết định thơng qua chính sách
Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV, sáng ngày
14/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tịng Thị
Phóng, Quốc hội tiến hành biểu quyết thơng qua dự thảo Luật Giáo dục
(sửa đổi).
Trước đó, các đại biểu Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình trình bày
Báo cáo Báo cáo Giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật Giáo dục (sửa
đổi).
Kết quả biểu quyết cho thấy: có 414/453 đại biểu tham gia biểu quyết
tán thành, chiếm 85,54% tổng số đại biểu Quốc hội. Phó Chủ tịch Thường
trực Quốc hội Tịng Thị Phóng nêu rõ, với đa số đại biểu Quốc hội tán
thành, Quốc hội chính thức thơng qua Luật Giáo dục (sửa đổi). Gồm 9
Chương, 115 Điều, Luật Giáo dục (sửa đổi) quy định về hệ thống giáo dục
quốc dân; cơ sở giáo dục, nhà giáo, người học; quản lý nhà nước về giáo
dục; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt
động giáo dục.
Về mục tiêu giáo dục, Luật khẳng định: mục tiêu giáo dục nhằm phát
triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức cơng dân; có
lịng u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, các quy định về cơ sở giáo dục; giáo dục nghề nghiệp;

giáo dục đại học; hướng nghiệp và phân luồng trong giáo dục; liên thông
giáo dục… cũng được quy định rất đầy đủ, cụ thể tại Luật Giáo dục (sửa
đổi).
Luật Giáo dục (sửa đổi) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020.
Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
9


Luật Giáo dục số 44/2009/QH12 sẽ hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có
hiệu lực thi hành.
Vai trị tổ chức thực hiện chính sách
Thực hiện Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội năm
2018 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017,
Chính phủ đã giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan xây dựng Dự án Luật. Việc xây dựng Dự án Luật đã đảm
bảo tuân theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015, cụ thể như sau:
1. Ban hành Kế hoạch soạn thảo Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục. Thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục gồm đại diện lãnh
đạo các bộ, ngành như: Văn phịng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính,
Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
một số sở giáo dục và đào tạo, cơ sở giáo dục đại học và các chuyên gia,
nhà khoa học.
2. Tổng kết thi hành Luật Giáo dục năm 2005 và Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2009.
3. Tổ chức nghiên cứu, rà soát tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam
hiện hành có liên quan đến giáo dục; tổ chức nghiên cứu khoa học thông
qua đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ; khảo sát, lấy ý kiến
trực tiếp tại một số địa phương; tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài

liên quan đến nội dung cần sửa đổi, bổ sung của Luật.
4. Nghiên cứu đánh giá tác động của Dự án Luật.
5. Xây dựng Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
dục.
6. Tổ chức các cuộc họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập Dự án Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; tổ chức các cuộc tọa đàm, hội
thảo khoa học để lấy ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương, chuyên
gia về Dự án Luật.
10


7. Gửi Dự án Luật đến Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; Tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản của các các bộ, ngành, sở giáo dục
và đào tạo; Phịng Thương mại và cơng nghiệp Việt Nam; đăng tải Dự thảo
Luật và Tờ trình lên Cổng thơng tin điện tử của Chính phủ và của Bộ Giáo
dục và Đào tạo để lấy ý kiến rộng rãi các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo
quy định.
8. Đồng thời, với việc đăng tải Dự thảo Luật lên Cổng thơng tin điện
tử của Chính phủ và của Bộ để lấy ý kiến rộng rãi của xã hội, Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã tổ chức 05 Hội thảo (Thái Nguyên, Hà Nội, Đà Nẵng, Thành
phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ) để lấy ý kiến trực tiếp các sở giáo dục và đào
tạo; phòng giáo dục và đào tạo; cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông,
thường xuyên; nhà giáo.
9. Trên cơ sở ý kiến góp ý của các bộ, ngành; tổng hợp ý kiến trên
Cổng thông tin điện tử Chính phủ và của Bộ; ý kiến góp ý tại các cuộc hội
thảo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiếp thu, chỉnh sửa Dự thảo Luật và gửi
Bộ Tư pháp để thẩm định Dự án Luật. Trên cơ sở ý kiến thẩm định của Bộ
Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan
tổ chức nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh sửa Dự án Luật.
10. Ngày 02 tháng 02 năm 2018, Chính phủ đã thảo luận và nhất trí

thơng qua Dự án Luật để trình Quốc hội (Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 08
tháng 02 năm 2018 của Chính phủ về phiên họp thường kỳ tháng 01 năm
2018). Trên cơ sở ý kiến góp ý của các thành viên Chính phủ, kết luận của
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hồn thiện Dự án Luật,
báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép trình Quốc hội về Dự án Luật.
11. Ngày 28 tháng 02 năm 2018, Chính phủ có Tờ trình số 45/TTr-CP
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục.
12. Ngày 12 tháng 3 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp
để cho ý kiến về Dự án Luật. Trên cơ sở góp ý của Ủy ban Thường vụ

11


Quốc hội, Chính phủ đã tiếp tục hồn thiện Dự án Luật, trình Quốc hội xem
xét cho ý kiến.
Cụ thể: Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên
và Nhi đồng Phan Thanh Bình cho biết, tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa
XIV, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận, đóng góp ý kiến lần thứ hai về dự
án Luật Giáo dục (sửa đổi). Sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(UBTVQH) đã chỉ đạo cơ quan thẩm tra chủ trì, phối hợp với cơ quan soạn
thảo và các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu ý
kiến của các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật. Tại
các phiên họp lần thứ 31 và 32, UBTVQH đã cho ý kiến Báo cáo tổng hợp
kết quả lấy ý kiến Nhân dân về dự án Luật của Chính phủ; xem xét, thảo
luận về dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu và dự thảo Luật đã được chỉnh
lý. Tổ chức lấy ý kiến đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách; gửi, tiếp
thu ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban
của Quốc hội về dự án Luật.
Nước ta đang tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bước đầu đã

gặt hái được những thành công nhất định. Trong giai đoạn tới, đứng trước
tình hình thế giới với nhiều biến động, Đảng và Nhà nước cần có sự chuẩn
bị tốt nhất để đưa đất nước vượt qua những thử thách, tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chú trọng đến công tác giáo dục cũng là một hoạt động
cần thiết để chuẩn bị về nhân lực, yếu tố quyết định đến sự phát triển của
đất nước trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặc dù Nhà nước
có những chính sách tích cực đầu tư cho giáo dục, thể hiện ngay trong
những quy định của Hiến pháp, đạo luật cơ bản của nhà nước, nhưng thực
tế việc thực hiện những chính sách đó cịn nhiều bất cập, hạn chế. Đo đó
cần có cả sự quan tâm hơn nữa trong công tác thực hiện những chủ trương
của nhà nước để những chính sách giáo dục thực sự đi vào thực tế, đến với
đời sống người dân.
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã nẩy sinh nhiều vấn đề mới.
Những vấn đề đó khơng thể điều chỉnh bằng phong tục, tập quán và hệ
12


thống văn bản cũ, mà cần phải được điều chỉnh bằng hệ thống các văn bản
qui phạm pháp luật mới, phù hợp hơn như Luật giáo dục 2019. Đồng thời
với việc chấp hành nghiêm chỉnh các qui định của Luật giáo dục và hệ
thống văn bản pháp qui của Ngành, người cán bộ quản lý giáo dục, giáo
viên, nhân viên cịn có quyền và nghĩa vụ cơng dân trong thực hiện và góp
ý về các nội dung chính sách giúp hoàn thiện hơn nữa bộ luật được đưa ra.

13



×