Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Nguyễn Đình Chiểu Trong Thể Loại Truyện Nôm.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.09 KB, 85 trang )

đại học quốc gia Hà Nội
Tr- ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn

TH HUYN

NGUYN èNH CHIU
TRONG THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

Hà Nội – 2014

1


đại học quốc gia Hà Nội
Tr- ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn

TH HUYN

NGUYN èNH CHIU
TRONG THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01 21

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS TRẦN HẢI YẾN

Hà Nội – 2014


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Mọi ý tƣởng hay câu chữ của ngƣời khác nếu đƣợc sử dụng lại đều có chú thích cụ
thể, rõ ràng.
Nếu có bất cứ vấn đề gì liên quan đến bản quyền xảy ra, tơi sẽ chịu trách
nhiệm hồn tồn trƣớc pháp luật.
Đỗ Thị Huyền

3


LỜI CẢM ƠN
Xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Trần Hải Yến – ngƣời đã hết long
chỉ bảo, hƣớng dẫn em hoàn thành luận văn này.
Cảm ơn gia đình và những ngƣời bạn đã ở bên tơi những năm tháng nhọc
nhằn nhƣng dấu yêu này.
Đỗ Thị Huyền

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 7
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................ 7
2. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ của Nguyễn Đin
̀ h Chiể u ........................... 8
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 13

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................ 13
6. Đóng góp của luâ ̣n văn ................................................................................ 14
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 14
NỘI DUNG............................................................................................................. 15
Chƣơng 1. KHUNG CẢNH VĂN HÓA, VĂN CHƢƠNG VÙNG ĐẤT MỚI
PHƢƠNG NAM THẾ KỶ XIX............................................................................ 15
1.1. Vùng đất mới - khảo sát từ văn hóa cộng đồng cƣ dân........................ 15
1.1.1.

Cộng đồng dân cư ở Nam Kỳ ............................................................. 15

1.1.2.

Đời sống của người dân Nam Kỳ ....................................................... 17

1.2. Những nội dung và hình thức chính của văn chƣơng của Nguyễn Đình
Chiểu.................................................................................................................... 25
1.2.1.

Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu .............................................................. 25

1.2.2.

Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu .................................... 26

Tiểu kết: ............................................................................................................... 29
Chƣơng 2. NHỮNG CÂU CHUYỆN BẰNG THƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH
CHIỂU .................................................................................................................... 30
2.1. Những câu chuyện của Nguyễn Đình Chiểu .......................................... 32

2.1.1.

Câu chuyện tình yêu ........................................................................... 35

2.1.2.

Chủ đề đạo nghĩa ................................................................................ 40

5


2.2. Các hình thức kể chuyện của Nguyễn Đình Chiểu ............................... 47
2.2.1.

Phương thức kiến tạo cốt truyện ....................................................... 47

2.2.2.

Xây dựng nhân vật .............................................................................. 50

2.2.3.

Cách dẫn dắt chuyện .......................................................................... 53

2.2.4.

Thế giới biểu tượng ............................................................................ 56

Tiểu kết: ............................................................................................................... 58
Chƣơng 3. CHUYỆN KỂ CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỀU TRONG GIAI

ĐOẠN HẬU KỲ TRUYỆN THƠ NƠM.............................................................. 59
3.1. Các hình thức kể chuyện ở vùng đấ t mới ................................................. 59
3.1.1. Kể chuyện bằng văn vần........................................................................ 59
3.1.2. Kể chuyện bằng văn xuôi ...................................................................... 60
3.1.3. Kể chuyện bằng nghệ thuật trình diễn ................................................. 61
3.2. Những con đƣờng lƣu truyền truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu ....... 62
3.2.1. Các hình thức định bản hay cơng chúng đọc truyện thơ Nguyễn Đình
Chiểu................................................................................................................. 62
3.2.2. Các phiên bản nghệ thuật trình diễn hay cơng chúng nghe nhìn
“chuyện kể” của Nguyễn Đình Chiểu ............................................................ 69
Tiểu kết: ............................................................................................................... 77
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 81

6


MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài

Truyện thơ Nôm là một trong những hình thức kể chuyện độc đáo của văn
học Việt Nam thời trung đại. Mở đầu với tác giả Nguyễn Hữu Hào (?-1713), thể
loại này đƣợc coi là kết thúc với Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888). Với ba truyện
Nơm Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca hay
còn đƣợc gọi là Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Nguyễn Đình Chiểu đƣơ ̣c coi là ngƣ ời
viết truyện Nôm quan trọng cuối cùng trƣớc khi lịch sử chuyển sang thời cận hiện
đại và văn tự dân tộc đƣợc thay thế bằng chữ quốc ngữ Latin hóa. Nói cách khác,

Nguyễn Đình Chiểu đã đem l ại những giá trị riêng cho thể loại này. Và bên c ạnh
việc kế thừa các yếu tố ổn định của thể loại, Nguyễn Đình Chiểu cịn mang đến cho
nó nhƣ̃ng nét mới.
Trƣớc Nguyễn Đình Chiể u , truyê ̣n Nôm đã là mô ̣t hình thƣ́c đinh
̣ hình cả về
nô ̣i dung và hình thƣ́c ở Đàng ngoài , với thành tƣ̣u đỉnh cao là Truyê ̣n Kiề u . Đế n
Nguyễn Đình Chiể u lố i kể chuyê ̣n bằ ng thơ chuyể n vào mô ̣t điạ bàn mới , mở rô ̣ng
sƣ̣ lƣu truyề n thể loa ̣i cả trong không gian và thời gian . Mă ̣t khác , việc một tác giả
có hoàn cảnh đặc biệt: bị mù cả hai mắt mà có tới ba truyện thơ dài khiến độc giả
có thể nghĩ đến một hứng thú với hình thức này. Vậy sự lựa chọn, đeo đẳng đó có
quan hệ gì với hồn cảnh xã hội khi đó, với khơng gian văn hóa mà nó đƣợc sinh
ra? Thơng qua ba tác phẩm truyện thơ Nơm của ơng, chúng tơi muốn đi tìm cách
trả lời cho câu hỏi trên.
Trong ba truyện thơ Nôm do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác, cho đến nay hầu
hết độc giả cũng nhƣ giới nghiên cứu thƣờng quan tâm chủ yếu đến Lục Vân Tiên
còn Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca mới chỉ đƣợc giới
thiệu về văn bản của tác phẩm cũng nhƣ hoàn cảnh ra đời chứ chƣa đi sâu vào tác
phẩm, trong khi thƣ̣c tế vấ n đề đƣơ ̣c tác giả quan tâm ở ba câu chuyê ̣n là khơng
hồn tồn nhƣ nhất . Vì vậy, với đề tài Nguyễn Đình Chiểu trong thể loại truyện

7


Nôm này, chúng tôi sẽ khảo sát cả “thế giới” truy ện Nơm của Nguyễn Đình Chiểu,
để tìm hiểu ơng muố n đem la ̣i nhƣ̃ng khả năng gì cho hiǹ h thƣ́c thể loa ̣i này.
2.

Lịch sử nghiên cứu truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu

Kỷ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng trong

bài Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, đã viết: “Trên
trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải
chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng” [60, tr.9]. Nguyễn
Đình Chiểu là tác giả lớn của nền văn học Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói
riêng. Trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ, Nguyễn Đình Chiểu viết Lục
Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, hai tác phẩm này đã đƣợc đông đảo quần chúng
đón nhận, đặc biệt là Lục Vân Tiên. Sau khi Pháp xâm lƣợc Nam Kỳ, Nguyễn Đình
Chiểu đƣợc biết đến là một tác giả đứng đầu trong văn học yêu nƣớc với thể loại
văn tế. Cho đến nay, có thể coi cuốn Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm
(2003) do Nguyễn Ngọc Thiện biên soạn là một cơng trình tổng hợp khá đầy đủ
những bài viết, những bài phê bình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu. Đặc biệt,
trong phần thứ II, tác giả đã tập hợp tƣơng đối đầy đủ những bài viết của các nhà
nghiên cứu, phê bình về các truyện thơ: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và
Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca. Phầ n viế t của chúng tôi sẽ dƣ̣a c hủ yếu trên cơng
trình mang tính tƣ liệu này.
- Về tác phẩm Lục Vân Tiên
Về nguồn gốc của tác phẩn Lục Vân Tiên, có hai luồng ý kiến trái chiều. Một
số nhà nghiên cứu cho rằng, Lục Vân Tiên đƣợc Nguyễn Đình Chiểu sáng tác dựa
vào một cốt truyện có sẵn, và một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng tác phẩm là
do chính Nguyễn Đình Chiểu sáng tác. Ba nhà nghiên cứu tiêu biểu cho hai luồng
ý kiến đó là: Nhà nghiên cứu Dƣơng Quảng Hàm trong bài viết “Lục Vân
Tiên”của Nguyễn Đình Chiểu (1941) cho rằng: “Nhân đọc một cuốn tiểu thuyết
nhan là “Tây minh” (trước đèn đọc truyện Tây minh L.V.T.c.1) thấy vai chính
trong truyện là Lục Vân Tiên gặp cảnh ngộ thảm thương tựa thân thế mình, bèn
theo đấy mà thảo ra bản truyện Nôm” [50, tr.359]. Tuy đƣa ra nhận định đó, nhƣng

8


trong bài viết, Dƣơng Quảng Hàm chƣa đƣa ra đƣợc cuốn tiểu thuyết có tên Tây

minh của Trung Quốc. 22 năm sau, Trần Nghĩa viết bài Thử bàn về nguồn gốc
truyện “Lục Vân Tiên” (1963) đã đƣa ra những lập luận khoa học để giải thích
ngun nhân và trình bày nguồn gốc của chữ “Tây minh” mà Nguyễn Đình Chiểu
đã sử dụng. Tác giả viết: “Tây minh trước hết không phải là một “cuốn truyện”
hay một cuốn “tiểu thuyết”. Tây minh rõ ràng là một cuốn sách thuộc phạm trù
đạo đức, triết học” [50, tr.363]. Năm 1978, Nguyễn Thạch Giang viết Nguyễn Đình
Chiểu – Thân thế và sự nghiệp đã chỉ ra Tây minh là một thiên trong cuốn Tính lý
tiết yếu của Trƣơng Tái. Trong Tây minh, Trƣờng Tái bàn về đạo lý, đặc biệt nhắc
đến “đồng bào”. Trƣơng Tái quan niệm rằng, đồng bào là những ngƣời sinh ra
trong cùng một bọc nên phải yêu thƣơng nhau, con ngƣời phải hiếu thảo với cha
mẹ, thuận hòa với anh em, bà con làng xóm. Với việc chỉ ra nguồn gốc và nội dung
của Tây minh, Nguyễn Thạch Giang viết: “Tư tưởng về “đồng bào” đó của Trương
Tái rất phù hợp với tư tưởng nhân nghĩa truyền thống của dân gắn với đức tính
truyền thống của Gia Định mà Nguyễn Đình Chiểu hấp thu được. Cho nên khi
sáng tác Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã thấm thía về tình nghĩa đối với dân,
đối với đồng bào. Do đó mà tác giả Lục Vân Tiên khi mở đầu tập thơ của mình đã
lấy Tây minh làm chuẩn mực triết lý – đạo đức” [50, tr.51]. Tác giả cịn khẳng
định: “Ngồi Lục Vân Tiên ra, triết lý Tây minh còn ảnh hưởng đến Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca và toàn bộ thơ, văn tế của ông” [50,
tr.51].
Theo chúng tôi, những tƣ liê ̣u và lâ ̣p luâ ̣n của Trầ n Nghiã và Nguyễn Tha ̣ch
Giang là những căn cứ đủ thuyết phục để khẳ ng đinh
̣ Lục Vân Tiên là tác phẩm do
Nguyễn Đình Chiểu sáng tác.
Bàn về nơ ̣i dung, tƣ tƣởng của tác phẩ m, các nhà nghiên cứu tập trung vào tác
phẩm Lục Vân Tiên ở góc độ xây dựng hệ thống nhân vật chính diện và phản diện
để giải thích vì sao tác phẩm lại đƣợc mến mộ, đặc biệt là nhân dân Nam Kỳ. Phạm
Văn Đồng với bài viết Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ dân tộc
(1963) đã nhận định về tác phẩm Lục Vân Tiên nhƣ sau: “Đây là một bản trường
ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người
9



trung nghĩa” [60, tr.26]. Cũng trong năm đó Hồi Thanh viết Nguyễn Đình Chiểu,
một nhà thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt
Nam, tác giả cũng khẳng định: “Nhưng trong Lục Vân Tiên, khơng phải chỉ có
tiếng chửi, Lục Vân Tiên cịn là lời ca, ca ngợi những con người hay thương người,
biết quên mình vì nghĩa” [60, tr.24]. Trần Văn Giàu trong Vì sao tơi thích đọc
Nguyễn Đình Chiểu (1963) viết: “Xét kỹ Lục Vân Tiên, chủ yếu không phải là
chuyện trung hiếu tiết hạnh, mà chủ yếu là chuyện nhân nghĩa, còn trung hiếu tiết
hạnh ở đây lại phụ thuộc vào nhân nghĩa…” [60, tr.55]. Nguyễn Thạch Giang
trong bài Nguyễn Đình Chiểu, thân thế và sự nghiệp (1998) đƣa ra nhận xét về tác
phẩm Lục Vân Tiên dƣới góc nhìn của tƣ tƣởng nhân nghĩa: “Những con người tốt
trong Lục Vân Tiên kế tục những truyền thống cao quý của dân tộc về nhân nghĩa,
đó là những con người trong sạch, bình thường, làm việc nghĩa như một nhu cầu
mà khơng hề nghĩ đến nợi danh, ân huệ” [50, tr.40].
Nhìn nhận Lục Vân Tiên dƣới góc nhìn văn hóa, văn học, các nhà nghiên cứu
cho rằng, truyện Lục Vân Tiên chịu ảnh hƣởng rất nhiều tƣ̀ văn hóa , văn học dân
gian. Nguyễn Quang Vinh trong Truyện thơ “Lục Vân Tiên” với văn hóa dân gian
(1972), đã kh ẳng định: “Lục Vân Tiên để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa nghệ
thuật dân gian như kể vè, hị hát, diễn tích, trong tư duy hình tượng, trong tâm lý,
trong khẩu ngữ và trong cả hành vi đạo đức của nhân dân nữa” [50, tr.369]. Ca
Văn Thỉnh khi viết Truyền thống quật cường của Nam Bộ và Việt Nam với tinh
thần đấu tranh của Nguyễn Đình Chiểu (1972) nhấn mạnh: “Thơ Lục Vân Tiên
mang tính chất dân gian rõ rệt” [50, tr.159]. Cùng năm 1972, Cao Huy Đỉnh với
Đồ Chiểu với sự chuyển mình của văn hóa dân tộc viết: “Lục Vân Tiên kết tinh
Đạo Người vốn là của nhân dân, nên ngày càng bén rễ trong nhân dân và biến hóa
ra nhiều hình thức sinh hoạt dân gian phong phú” [50, tr.190]. Đặng Văn Lung
với Nguyễn Đình Chiểu và văn học dân gian (1982), đã khai thác chất dân gian
trong cốt truyện của ba tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và
Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Tác giả cho rằng: “Cốt truyện và nhân vật của Nguyễn

Đình Chiểu cịn ở dạng mơ hình (Mơ típ văn học dân gian) hơn là những kết cấu
văn học, hình tượng văn học hồn chỉnh” [50, tr.445]. Lâm Vinh trong Truyện
10


“Lục Vân Tiên” và vấn đề mối quan hệ giữa đạo đức và thẩm mỹ (1982), bàn về
Lục Vân Tiên với quan hệ văn hóa dân gian: “Đây là một câu chuyện kể mang đậm
màu sắc dân gian đã được đồng bào miền Nam tiếp nhận hết sức nồng nhiệt và
ngay từ đầu đã được lưu truyền nhanh chóng, rộng khắp” [50, tr.382]. Ngơ Huy
Khánh với Nguyễn Đình Chiểu, nhà văn hóa lớn (1998) đã viết: “Trong một thời
gian khá dài từ đầu thế kỷ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã trở thành một
nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình nói thơ, hị vè,…” [50, tr.319].
Nghiên cứu về ngôn ngữ, sự phổ biến của truyện Lục Vân Tiên, các tác giả
Trần Văn Giàu, Nguyễn Lộc có chung ý kiến với Hồi Thanh trong bài Nguyễn
Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân
tộc Việt Nam (1963): “Lục Vân Tiên là một loại truyện kể. Về lời thì cịn có chỗ
vụng về, về tình tiết có chỗ khơng chặt, về nhân vật có khi chưa thật sự có một đời
sống riêng. Mặc dầu vậy, nhân vật ấy đã trở nên rất sống trong lòng quần chúng”
[50, tr.86].
- Về Dương Từ - Hà Mậu
Không đƣợc phổ biến rộng rãi nhƣ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu đƣợc
biết đến nhờ vào các cơng trình giới thiệu tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.
Trong cuốn Nguyễn Đình Chiểu tồn tập, tập 1 và Nguyễn Đình Chiểu về tác gia
và tác phẩm, cũng nhƣ một số cơng trình nghiên cứu khác của các tác giả nhƣ
Nguyễn Lộc, Trần Đình Hƣợu,… tác phẩm đƣợc giới thiệu hoàn cảnh sáng tác, nội
dung chính và văn bản tác phẩm. Nguyễn Văn Hồn, trong bài Từ “Lục Vân Tiên”
đến “Dương Từ - Hà Mậu” (1972), chú ý đến sƣ̣ phát tri ển tƣ tƣởng của Nguyễn
Đình Chiểu từ khi viết Lục Vân Tiên đến Dương Từ - Hà Mậu: “Được sáng tác
tiếp sau Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu cùng với Lục Vân Tiên là những tiếng
nói kêu gọi bảo vệ đạo lý Khổng – Mạnh, thực chất là bảo vệ đạo đức, bảo vệ

chính nghĩa…” [50, tr.424].
- Về Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca
Năm 1963, Bùi Thanh Ba trong Qua “Ngư Tiều vấn đáp”, tìm hiểu thế giới
quan Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu nội dung tác phẩm và tập trung lý giải quan
11


niệm thế giới quan của Nguyễn Đình Chiểu. Tác giả cho rằng: “Viết Ngư Tiều vấn
đáp, Nguyễn Đình Chiểu đã để lộ một thế giới quan tiến bộ mà chúng ta khơng thể
tìm thấy ở các nhà thơ khác cùng thời với ông. Theo quan niệm của ông, trong vũ
trụ có hai luồng hơi vận chuyển: hơi chính và hơi tà” [50, tr.416]. Với mố i quan
tâm riêng về y ho ̣c , Lê Trần Đức khi biên soạn cuốn Nguyễn Đình Chiểu với Ngư
Tiều vấn đáp y thuật đƣợc nhà xuất bản Y học ấn hành năm 1983 đã đặc biệt chú
trọng đến nội dung y thuật của tác phẩm. Cũng nhƣ Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều
vấn đáp nho y diễn ca cũng chỉ đƣợc giới thiệu trong một số cuốn tuyển tập những
sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
Có thể thấy , những bài viết, cơng trình nghiên cứu về truyện thơ Nguyễn
Đình Chiểu thƣờng chỉ tập trung vào Lục Vân Tiên mà ít quan tâm t ới hai truyê ̣n
thơ còn la ̣i.
 Nghiên cứu chung về truyện thơ Nguyễn Đình Chiểu
Nghiên cứu về ngơn ngữ của truyện thơ Nơm Nguyễn Đình Chiểu phải kể đến
các cơng trình của các tác giả nhƣ: Đào Thản – Nguyễn Thế Lịch trong Chữ “dân”
và chữ “nước” trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (1982) tập trung vào thống kê,
phân tính tầ n su ất cũng nhƣ cách sử dụng chữ “dân” và chữ “Nƣớc”. Tác giả nhận
định: “Cái đẹp của ngơn từ trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu …, mộc mạc và bình
dị, chân thực và hồn nhiên lạ thường. Đặc điểm này quán xuyến toàn bộ văn thơ
Nguyễn Đình Chiểu từ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn
đáp đến những bài văn thơ yêu nước” [50, tr.545]. Hoàng Tuệ, Phạm Văn Hảo, Lê
Văn Tƣờng trong Tiếng địa phương miền Nam trong tác phẩm của Nguyễn Đình
Chiểu (1984), Nguyễn Phong Nam trong Hình tượng thời gian trong các truyện

thơ Nơm của Nguyễn Đình Chiểu (1992), đã nhận định: “Điều đáng chú ý đầu tiên
khi xét hình tượng thời gian trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu là chỗ rất ít khi ta
thấy nhà văn để cho nhân vật có điều kiện cảm nhận về thời gian” [50, tr.448];
“Nhìn chung, thời gian trong truyện Nơm của Nguyễn Đình Chiểu là thời gian có
tính chất phiếm định” [50, tr.453]. Năm 1998, Trần Đình Hƣợu đã có bài viết Bàn
về Nguyễn Đình Chiểu – người nghệ sĩ từ và trong truyện Nôm. Trong bài viết này,
tác giả cho rằng Nguyễn Đình Chiểu hứng thú với thể loại truyện Nơm vì đó là
12


hình thức rất gần gũi, quen thuộc để gửi gắm tâm sự, ƣớc mơ, cách nhìn, quan
niệm về cuộc đời. Và nó thuận tiện cho nhu cầu nghe kể, diễn xƣớng để có thể
truyền bá rộng rãi trong nhân dân. Nhận định này tuy chỉ mới mang tính định đề
nhƣng lại có giá trị gợi dẫn quan trọng cho chúng tơi đi sâu tìm hiểu.
3.

Mục đích nghiên cứu

Tiến hành tìm hiểu đề tài Nguyễn Đình Chiểu trong thể loại truyện Nơm,
chúng tơi sẽ làm rõ hơn đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu trong thể loại truyện
Nơm đồng thời tìm hiểu nét riêng c ủa truyện thơ ở vùng đất mới, trong giai đoạn
sau chót của hình thức văn học trung đại, qua ba tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu dƣới góc nhìn
thể loại.
Phạm vi tƣ liệu: Đề tài tập trung tìm hiểu thể loại truyện Nơm với ba truyện
thơ Nguyễn Đình Chiều. Đó là: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư Tiều

vấn đáp nho y diễn ca.
Phạm vi vấn đề: Luận văn khơng triển khai tìm hiểu từng tác phẩm cụ thể mà
tập trung vào nội dung, nghệ thuật và ý hƣớng của tác giả trong ba truyện Nôm
nhƣ một thể thức tiếp cận và phản ánh hiện thực. Bên canh đó, luận văn cũng chú ý
đến sự phổ biến đặc biệt của tác phẩm Lục Vân Tiên. Thông qua nghiên cứu tiếp
nhận, chúng tôi muốn làm rõ hơn ý nghĩa của hình thức văn chƣơng này.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Luâ ̣n văn sẽ sƣ̉ du ̣ng cách tiế p câ ̣n văn ho ̣c sƣ̉ , kế t hơ ̣p nghiên cứu loại hình
học thể loại để giải quyết những mục tiêu nghiên cƣ́u đă ̣t ra.
Các phƣơng pháp tiếp cận nói trên sẽ đƣợc thể hiện bằng các thao tác cụ thể ,
nhƣ: thố ng kê , phân tić h , so sánh để các vấ n đề đƣơ ̣c sáng tỏ và có sƣ́c thuyế t
phục.

13


6.

Đóng góp của luâ ̣n văn

Trên cơ sở khả o sát truy ện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu và Ngư
Tiều vấn đáp nho y diễn ca về nô ̣i dung và phƣơng thức chuyể n tải, luâ ̣n văn sẽ chỉ
ra rằ ng Nguyễn Đin
̀ h Chiể u viế t truyê ̣n thơ với nhƣ̃ng nô ̣i dung không giố ng ma ̣ch
đi trƣớc đó của thể loa ̣i (ông quan tâm đế n luân thƣờng, đến đạo làm ngƣời, đến sự
va cha ̣m của hê ̣ tƣ tƣởng Nho giáo với thƣ̣c tiễn xã hô ̣i , thƣ̣c tiễn lich
̣ sƣ̉ lúc đó ).

Đồng thời, luâ ̣n văn cũng tìm cách lý giải : 1) Vì sao có sự chọn lựa đ ó ở Nguyễn
Đin
̀ h Chiể u, bằ ng tiể u sƣ̉ tác giả , bằ ng thƣ̣c tế xã hô ̣i văn hóa văn chƣơng vùng đấ t
Nam Kỳ xung quanh thời điể m ông sáng tác truyê ̣n thơ ; 2) Cách viết truyện thơ
nhƣ vâ ̣y có ý nghiã gì trong lich
̣ sƣ̉ phát triể n của thể loa ̣i.
7.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung gồm
3 chƣơng:
Chương 1. Khung cảnh văn hóa, văn chương vùng đất mới phương Nam thế
kỷ XIX
Chương 2. Những câu chuyện bằng thơ của Nguyễn Đình Chiểu
Chương 3. Chuyện kể của Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn hậu kỳ truyện
thơ Nôm

14


NỘI DUNG

Chƣơng 1
KHUNG CẢNH VĂN HÓA, VĂN CHƢƠNG VÙNG ĐẤT MỚI
PHƢƠNG NAM THẾ KỶ XIX

1.1.

Vùng đất mới - khảo sát từ văn hóa cộng đồng cƣ dân


1.1.1. Cộng đồng dân cư ở Nam Kỳ
Nam Kỳ đƣợc hình thành và phát triển trong thời kỳ diễn ra cuộc phân tranh
giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh nắm giữ quyền hành,
chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã mở rộng địa bàn vào Nam Kỳ để củng cố về tiềm
lực kinh tế và quân sự. Theo sử sách ghi lại, chúa Nguyễn chính thức xác lập về
mặt nhà nƣớc chủ quyền vào năm 1698. Trong Gia Định thành thơng chí, Trịnh
Hồi Đức viết: “Mậu Dần Hiển Tơng Hiếu minh hồng đế thứ 8 (1698) (Lê Huy
Tơng Chính Hịa năm thứ 19, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 37) mùa xuân, sai
Thống suất chưởng cơ là Lễ Thanh hầu họ Nguyễn kinh lược nước Cao Miên, lấy
đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt sứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng
dinh Trấn Biên” [6, tr.77]. Lúc này, dân lƣu tán từ Bố Chánh, Quảng Bình trở vào
đƣợc chiêu mộ đến sinh sống khai hoang. Lịch sử còn cho thấy, Gia Định xƣa có
ngƣời Cao Miên sống chung lẫn với lƣu dân của nƣớc ta. Chƣa hết, năm 1679,
Dƣơng Ngạn Địch và Trần Thắng Tài là hai tƣớng của Trung Hoa sống thời nhà
Minh không chịu làm tôi tớ nhà Thanh nên đã đƣa hơn 3000 quân lính và ngƣời
nhà đến Đà Nẵng xin hàng phục. Chúa Nguyễn cho nhóm di thần nhà Minh vào
Mỹ Tho và Đồng Nai khai hoang sinh sống. Năm 1680, Mạc Cửu, cũng giống nhƣ
Trần Thắng Tài và Dƣơng Ngạn Địch, không chịu theo nhà Thanh đã chiêu mộ dân
15


và sinh sống ở vùng Hà Tiên của nƣớc ta. Việc ngƣời Trung Hoa sinh sống ở đây
đã thúc đẩy bn bán và Nam Kỳ dần hình thành xã hội thƣơng nghiệp.
Ngoài ra, với tài nguyên thiên nhiên phong phú, địa bàn thuận lợi cho việc
giao lƣu buôn bán với các nƣớc lân cận nên Nam Kỳ còn tiếp nhận một số cƣ dân ở
các nƣớc quanh khu vực đến bn bán và định cƣ. Thêm vào đó, việc chúa Nguyễn
liên tục mở mang bờ cõi, đi xâm chiếm hoặc chiêu mộ dân ở các nƣớc khác đến
khai hoang cũng làm cho cộng đồng dân cƣ ở Nam Kỳ phong phú hơn. Bởi vậy,
cộng đồng dân cƣ ở Nam Kỳ rất đa dạng, có ngƣời Việt ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có

ngƣời Cao Miên, có ngƣời Trung Hoa, ngƣời Xiêm, ngƣời Khmer…, họ cùng nhau
sinh sống và phát triển ở những vùng khác nhau. Với nguồn gốc dân cƣ đa dạng
nhƣ vậy nên văn hóa Nam Kỳ rất phong phú bởi với mỗi dân tộc đến sinh sống họ
đều mang trong mình những phong tục, tập qn, tín ngƣỡng riêng.
Đi theo chiều thời gian hình thành Nam Kỳ, chúng ta sẽ thấy đƣợc thành phần
dân cƣ của vùng đất mới này. Trong Tuyển Tập Nguyễn Văn Xuân phần Khi những
lưu dân trở lại, tác giả có viết: “Có lẽ tơi chẳng cịn điều gì để nói trước khi đưa
bạn đọc theo đoàn dân miền Trung, đa số ban đầu là lưu dân, tội đồ, dân Minh
hương, dân nghèo đi tiên phong khai khẩn đất hoang rồi sau đó người Huế (làm
chức việc, làm quan) và nông dân Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định xách gươm
giáo, mang cuốc, mang cày, dẫn dắt trâu bị theo đường bộ, hay tính chuyện bn
bán theo đường ghe, lần lượt rời bỏ quê hương để trở thành dân chính thức của
miền Nam” [65, tr.579 - 560]. Nguyễn Văn Xuân còn khẳng định: “Đây, hầu hết là
dân nghèo tù tội, hành khất, hạng lưu dân thoát vùng đất cũ với hy vọng của kẻ
đánh bạc chẵn lẻ” [65, tr.544]. Trƣớc khi chúa Nguyễn chính thức đặt chính quyền
ở vùng đất Nam Kỳ và chiêu mộ dân thì ở đó đã có những ngƣời dân đói khổ từ
Trung Kỳ vào khai hoang sinh sống, họ sống rải rác, lẻ tẻ khơng có tổ chức. Bởi
trong cuốn Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam có viết: “Rõ ràng là trước khi
chúa Nguyễn và các vua triều Nguyễn thiết lập những đơn vi hành chánh và cai trị,
khẳng định vai trò nhà nước chủ quyền trên mảnh đất phía Nam thì từ rất sớm,cư
dân Việt, vốn là những nông dân xiêu tán, thợ thủ công cùng khổ, những binh lính
16


lao dịch lưu đày… dưới sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ của phong kiến, của
chiến tranh địch họa, thiên tai đã buộc phải rời bỏ xóm làng vào Nam khẩn hoang
lập nghiệp” [25, tr.6]. Nhƣ vậy, thành phần dân cƣ ở Nam Kỳ hầu hết là tầng lớp
dƣới của xã hội.
1.1.2. Đời sống của người dân Nam Kỳ
Tính cách

Những biên khảo, nghiên cứu của Trịnh Hồi Đức, Nguyễn Văn Xuân, Sơn
Nam… cho chúng ta thấy, ngƣời Nam Kỳ rất thật thà, ngay thẳng và hiếu học. Họ
ƣa chuộng những ngƣời có khí tiết, trọng nghĩa, khinh tài. Có lẽ, do xuất thân là
tầng lớp dân nghèo là chủ yếu, vì vậy, họ sống khơng toan tính, không vụ lợi.
Không am hiểu sách vở nên họ dễ cảm phục hành động hơn là lời nói, sống vì tình
vì nghĩa đối với nhau chứ khơng vì danh phận, địa vị. Nhu cầu kết bạn khi đến một
nơi mới là một điều hiển nhiên, cộng thêm với nguồn thiên nhiên trù phú1, họ
không quá bận tâm đến chuyện kiếm sống, do đó họ có cơ hội giao lƣu, kết bạn để
khám phá phong tục tập quán của các dân tộc khác đồng thời giới thiệu phong tục
tập quán của dân tộc mình. Bên cạnh đó, đa phần họ là những ngƣời có trình độ
học vấn thấp trong xã hội, vì vậy việc hiếu học, coi trọng những ngƣời thơng hiểu
sách vở là việc dễ hiểu. Trong Gia Định thành thơng chí, Trịnh Hồi Đức viết:
“Gia Định ở về phương Nam vị trí Dương Minh, người đủ tính trung dũng khí tiết,
trọng nghĩa khinh tài, dẫu phụ nữ cũng thế” [6, tr.180]. Trong cuốn Đại Nam nhất
thống chí khi Trịnh Hoài Đức viết về tỉnh Gia Định đã khẳng định ngƣời dân ở đó
rất “chuộng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài. Học trò đọc sách, phần nhiều chú trọng
1

“So với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất rộng ngƣời thƣa.

Ngƣời dân thảnh thơi “vừa làm vừa chơi” cũng đủ ăn” [26, tr.79]. “Vùng Gia Định
nƣớc Việt ta đất rộng, thực vật phong phú, không lo đói rét, nên dân ít dự trữ, quen
thói xa hoa, phong cách kẻ sĩ thì hiên ngang, do ngƣời từ bốn phƣơng tụ lại nên mỗi
nhà đều có phong tục riêng” [6, tr.179]. “Ngƣời miền Nam làm việc trong những điều
kiện thuận lợi mà số thu hoạch có thể gấp mấy lần. Hơn thế nữa, chim trời, cá nƣớc
vốn không thiếu nên đời sống dễ dàng” [65, tr.579].
17


sáng tỏ nghĩa lí mà vụng về văn chương. Nhân dân đủ người bốn phương, mỗi nhà

mỗi tục. Dân nông thơn thì chất phác, dân thành thị thì hay chơi bời” [37, tr.200];
khi viết về tỉnh Vĩnh Long, Sơn Nam cũng nhấn mạnh: “Kẻ sĩ chăm học, dân thích
bn bán, làm ruộng, đánh cá, đều nhằm mối lợi tự nhiên mà làm ăn, dùng sức ít
mà được lợi nhiều. Đất đai rộng, thức ăn nhiều không biết chứa cất. Quân tử thì
trọng trung nghĩa danh tiết, tiểu nhân thì chơi bời xa hoa, không biết kiêng sợ”
[37, tr.124]; về tỉnh Hà Tiên: “Tính người nhẹ nhõm, ham thích phong lưu. Không
ai gian tham, không ai trộm cướp, phần nhiều hào phóng và ưa chuộng xa hoa”
[37, tr.10]; về tỉnh Biên Hòa: “Kẻ sĩ chăm học, dân siêng canh cửi, thợ ở phố mà
làm việc; buôn bán tùy đất mà sinh nhai. Tính thích múa hát, tục chuộng thờ phật”
[37, tr.41].
Việc hình thành phát triển thƣơng nghiệp với xã hội thị dân cũng là một
nguyên nhân đáng kể trong việc định hình tính cách của con ngƣời Nam Kỳ. “Tinh
thần tơn trọng đạo nghĩa, coi nhẹ lợi ích riêng tư và lối sống phóng khống tự do
nhiều khi lấn át ý thức thượng tôn pháp luật như một hệ thống chuẩn mực phi
chính thống phổ biến trong con người Nam Kỳ trước Cách mạng Tháng Tám chính
là một trong những hệ quả nổi bật của kiểu thức cấu trúc làng xã lỏng lẻo kết hợp
với môi trường sinh hoạt thị dân này, và đáng nói là hệ quả ấy lại ít nhiều được
những người đại diện của bộ phận Nho giáo nhân dân hóa tán thành và quy chuẩn
hóa” [43, tr.413].
Có thể nói, đó là những tính cách điển hình của ngƣời Nam Kỳ. Từ những
tính cách điển hình này, họ hình thành quan niệm và thói quen về cuộc sống rất
riêng, khác hẳn với ngƣời Trung và ngƣời Bắc.
Thói quen
Về hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ ở Nam Kỳ có nhiều đặc điểm khác
so với Trung Kỳ và đặc biệt là Bắc Kỳ. Lƣu dân đến Nam Kỳ chọn hình thức ca
hát, kể chuyện, diễn xƣớng làm món ăn tinh thần. Khi nhận định về đối tƣợng và
hình thức tiếp nhận văn nghệ, văn chƣơng của ngƣời dân Nam Kỳ, Nguyễn Văn
18



Xuân viết: “Mà đối tượng này không cần đọc, ngẫm nghĩ bằng xem, nghe xúc
động, cười cợt, hoa chân múa tay trước những bộ mơn trình diễn, những bài thơ,
vè, kể chuyện ca hát, ca kịch…, rất dễ hiểu, rất cụ thể vui ra vui, buồn ra buồn rõ
ràng. Để họ khỏe khoắn tinh thần, tìm thấy giấc ngủ ngon hịng ni sức lực dành
cho những tranh đấu, những biến cố trong vùng đất mới, khác hẳn cái vùng đã ổn
định từ nghìn năm họ vừa mới rời bỏ” [65, tr.549]. Hình thức ca hát, kể chuyện
truyền miệng, trình diễn cho ngƣời khác xem đã hình thành từ đó, và đƣợc ngƣời
Nam Kỳ rất ƣa chuộng. Nguyễn Văn Xuân viết: “Những buổi trình diễn khẩu chiến
dưới ánh trăng đã lơi kéo hàng trăm khán giả đêm này qua đêm khác, đã tạo cho
văn nghệ nơng thơn có sinh khí lạ lùng và đã nâng cao nền văn nghệ đó lên tột
đỉnh với những diễn viên rất linh hoạt, thông minh mà tình tứ” [65, tr.555]. Với
điều kiện thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên, cuộc sống của những ngƣời dân nơi
đây an nhàn và dƣ giả, vì vậy, họ có thời gian, tiền bạc để đi xem hát, nghe hát,
ngồi nghe kể chuyện hoặc thuê gánh hát về biểu diễn. Do đó, hình thức diễn xƣớng
ở Nam Kỳ càng phát triển và mạnh mẽ hơn hẳn Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Khi tiếp nhận một tác phẩm văn chƣơng, ngƣời Bắc Kỳ thƣờng nghiền ngẫm
cái hay cái đẹp ở cách dùng câu chữ. Tác phẩm phải đƣợc suy ngẫm kỹ càng mới
thấy hết cái hay, và ngƣời tiếp nhận thƣờng một mình tâm đắc với cái hay cái đẹp
đó. Nhƣ Nguyễn Văn Xuân đã khẳng định, văn chƣơng Bắc kỳ “bao giờ cũng lấy
đối tượng tri thức làm căn bản” và “phương pháp của văn chương miền Bắc nặng
về xem, tức là độc giả có thể cầm tác phẩm tự mình đọc để suy tư và cái hay chính
nằm trong lối xem và suy tư đó” [65, tr.551]. Ngƣợc lại, “văn chương miền Nam
nặng về nói và trình diễn, tức độc giả thường chỉ thấy hay trong lối đọc to để tự
mình nghe và để kẻ khác cùng nghe với mình và cái hay cũng nằm trong lối nghe
để dung cảm” [65, tr.551]. Có thể thấy ngƣời dân Nam Kỳ thiên về kiểu thƣởng
thức văn nghệ có diễn xƣớng, gắn với trình diễn.
Tƣ tƣởng – tín ngƣỡng
Cƣ dân Việt cộng cƣ cùng nhiều nhóm dân cƣ với nguồn gốc, văn hóa, lịch
sử, phong tục và tín ngƣỡng khác nhau nên rất khó tổ chức xã hội theo nguyên lý
19



và trật tự tơn giáo. Vì vậy, Nho giáo với thiết chế xã hội vô thần đã tổ chức xã hội
để nhất hòa nhiều tộc ngƣời ở địa phƣơng vào một cộng đồng Việt Nam thống
nhất. “...việc xây dựng một cộng đồng xã hội thống nhất trên cơ sở nhiều nhóm cư
dân và trong bối cảnh đa dân tộc như vậy rất khó có thể thực hiện với các mơ hình
và phương thức tổ chức xã hội theo nguyên lý và trật tự tơn giáo. Chính ở đây, Nho
giáo với nhận thức luận – vũ trụ quan kiểu “vô thần” của nó đã nổi lên như thuyết
– phương án tối ưu trong việc liên kết, tổ chức và từng bước hợp nhất các nhóm cư
dân nơng nghiệp...” [43, tr.408]; “Nho giáo nhờ vậy cũng có điều kiện để phát triển
đồng thời thực hiện thơng suốt chức năng của nó, mà ở đây có thể kể tới việc góp
phần nhất hịa các nhóm dân tộc khác trong đó đặc biệt là người Hoa vào với cộng
đồng Việt Nam như một ví dụ điển hình”; “Tình hình nói trên đặt ra trước cả
Chính quyền Đàng Trong lẫn nhân dân địa phương một vấn đề phải giải quyết, đó
là việc hợp nhất tiến trình văn hóa với tiến trình xã hội, hay nói rõ hơn là xóa bỏ
những khoảng cách giữa các nhóm dân tộc, quy tụ tất cả vào một cộng đồng Việt
Nam thống nhất chung. Và ở đây, Nho giáo đã phát huy vai trò là một hệ thống
chuẩn mực xã hội của nó, mà kết quả đáng chú ý nhất là góp phần hồn tất q
trình Việt hóa trước hết về mặt chính trị của những người Hoa mang quốc tịch Việt
Nam” [43, tr.47]. Với những điểm mạnh trên, Nho giáo đƣợc nhà Nguyễn sử dụng
nhƣ một phƣơng án tối ƣu để thống nhất cộng đồng ở Nam Kỳ.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, nhƣng về khía cạnh tơn giáo,
Nho giáo chủ trƣơng thờ Trời Đất, sông núi, thờ cha mẹ, tổ tiên. Tuy nhiên, với
Nho giáo, con ngƣời khơng tìm đƣợc câu trả lời cho câu hỏi loài ngƣời ở đâu trƣớc
khi sinh ra và về đâu sau khi chết đi. Do đó, mặc dù Nho giáo giữ vị trí đầu trong
việc điều chỉnh hành vi, đạo đức và định hƣớng chuẩn mực xã hội ở Việt Nam
cũng nhƣ Nam Kỳ nhƣng tại đây vẫn tồn tại các tơn giáo khác, điển hình và đạt
đƣợc dấu ấn mạnh trong xã hội là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Theo Cao Tự
Thanh: “Bên cạnh đề cao các chuẩn mực cương thường, lực lượng nòng cốt của
chính quyền Đàng Trong trong đó có các chúa Nguyễn đều là người sùng thượng

đạo Phật” [64, tr.318]; “Tín ngưỡng ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII, dễ nhận
20


thấy rằng mặc dù có hiện tượng suy thối về mặt giáo lý, Phật giáo (chủ yếu là
Phật giáo đại thừa) vẫn chiếm một địa vị quan trọng đồng thời đóng vai trị đáng
kể trong sinh hoạt tinh thần của nhiều tầng lớp nhân dân” [43, tr.18]; “Nho giáo
khơng có một hệ thống thần linh nên họ phải thần thành hóa vương quyền bằng
Phật giáo, từ đó làm nảy sinh cơ cấu chính trị - tơn giáo cũng như một thiết chế
văn hóa – tư tưởng kiểu “Nho Thích song hành” [43, tr.28]. Thiên chúa giáo là một
tôn giáo nhƣng khi vào Nam Kỳ, nó mang ý nghĩa chính trị, bị giới cầm quyền
thực dân lợi dụng với mục đích thơn tính các nƣớc thuộc địa. Vì vậy, Thiên chúa
giáo đã phải trải qua những xung đột cả với thế quyền và thân quyền.
Trở lại với Nho giáo. Nhƣ nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, khi đƣợc sử
dụng ở Nam Kỳ, nơi đa phần là binh lính cùng những nơng dân ít học thì những
yếu tố chính thống của Nho giáo đã phải thay đổi. Cao Tự Thanh nhận định: “Q
trình dân tộc hóa đã khiến từ chiến tranh Lê Mạc trở đi Nho giáo ở Việt Nam dần
dần mang một nội dung khác hẳn lý thuyết Nho giáo chính thống, và riêng ở Đàng
Trong thì q trình nhân dân hóa cịn khiến nó trở thành một loại Nho giáo trong
đó các yếu tố nhân dân hóa dường như lấn át yếu tố quan phương” [43, tr.300]. Ở
Nam Kỳ, nho sĩ có đời sống gần gũi với tầng lớp bình dân: “Cần nói thêm rằng
trong lực lượng hạt nhân của tập đồn phong kiến Đàng Trong thì số xuất thân từ
gia đình võ tướng nhiều hơn số xuất thân từ gia đình nho sĩ, vùng đất chỉ mới thực
sự có được một Tây Kinh từ chiến tranh Lê Mạc và chắc chắc là chưa “thấm
nhuần” Nho giáo bằng khu vực Thăng Long – Đông Đô. Việc tiếp nhận phổ biến,
nhận thức và thực hiện các nguyên tắc Nho giáo – trong ý nghĩa là một hệ thống
“chuẩn mực xã hội” nơi những người này do đó cũng bị “sai lệch” nhiều so với
quy tắc chính thống truyền thống, thậm chí ngay cả từ những ứng xử thường nhật”
[43, tr.18]; “Có thể nói chính lực lượng nơng dân – tầng lớp bị trị người Việt đã
đem Nho giáo vào Nam bộ, và tại đây nó đã phát triển như một yếu tố nội tại, một

bộ phận cấu thành trong thiết chế văn hóa – tổ chức xã hội chính thức của cộng
đồng Việt Nam ở địa phương” [43, tr.410]. Theo học thuyết Nho giáo, quyền hành
luôn tập trung vào vua, sau đó là quan lại, và những nho sĩ thì đƣợc tuyển chọn kỹ
21


càng. Nhƣng ở Gia Định, tầng lớp tƣớng lĩnh cũng đƣợc trọng dụng và có thể đảm
nhiệm những chức vụ quan trọng từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Nhà Nguyễn ở
Đàng Trong phủ định tín nhiệm về thiên chức và vai trị của tầng lớp nhà nho.
Trƣớc khi chính quyền nhà Nguyễn chính thức xác lập chủ quyền ở Nam Kỳ thì
một bộ phân lƣu dân ở đây đã sử dụng Nho giáo để tự quản với nhiều yếu tố lệch
chuẩn so với chính thống.
Việc phát triển xã hội thị dân tại Nam Kỳ cũng là một yếu tố quan trọng trong
quá trình đẩy Nho giáo đi theo chiều hƣớng lệch chuẩn. “Xu thế sản xuất vật chất
còn tạo ra các động thái mới trong sinh hoạt xã hội mà đặc biệt là ở các khu vực
thương cảng hay đô thị và trước Hịa ước 1862 thì sự phát triển của xã hội thị dân
ở Nam Kỳ tự thân nó đã hàm chứa một nguy cơ tiềm ẩn đối với các quy phạm đạo
đức Nho giáo cũng như những nguyên lý trị đạo Nho gia” [43, tr.413].
Theo Cao Tự Thanh, sự phát triển của Nho giáo ở Nam Kỳ đƣợc chia ra làm
nhiều thời kỳ tƣơng ứng với từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội của Nam
Kỳ.
“Trước năm 1775, Nho giáo làm nhiệm vụ đồng nhất sự phát triển của nhiều
nhóm cư dân và tầng lớp xã hội khác nhau vào một định hướng văn hóa – xã hội
cộng đồng thống nhất” [43, tr.419]. Thời kỳ này về mặt lịch sử xã hội khơng có
nhiều biến động lớn, vì vậy, Nho giáo thực hiện rất tốt vai trò cố kết các cộng đồng
dân tộc ở Nam Kỳ và từ đó bám rễ chắc trong xã hội đầy biến động ở giai đoạn sau
này.
“Thời nội chiến Tây Sơn – Nguyễn rồi Tây Sơn – Nguyễn Ánh từ 1775 rồi từ
1778 đến 1802, đó là yêu cầu quy tụ lực lượng và thống nhất ý chí – nâng cao chất
lượng phát triển của xã hội nhằm kết thúc chiến tranh đồng thời xác định nội dung

phát triển của cộng đồng Việt Nam ở Nam Bộ trong cuộc đấu tranh thống nhất
quốc gia” [43, tr.419]. Đây là thời kỳ các lớp nhà nho sống gần gũi với nhân dân.
Họ là những trí thức của đời thƣờng, “một loại trí thức mà học vấn và tài năng
thường xuyên được kiểm nghiệm qua thực tiễn hoạt động và nhiều khi vì miếng
22


cơm manh áo trong đời sống thường nhật” [43, tr.72]. Trong giai đoạn này, dù
Phật giáo và Thiên chúa giáo đồng thời tồn tại, nhƣng Nho giáo vẫn không bị mất
đi vị trí của mình.
“Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, đó là yêu cầu tập hợp và tổ chức các lực
lượng, thực hiện và điều chỉnh các phương án phát triển kinh tế - xã hội toàn diện
hơn đồng thời tiếp tục góp phần thống nhất đất nước về mặt văn hóa và bảo vệ độc
lập quốc gia trước hết trong phạm vi địa phương” [43, tr.419]. Lúc này, đất nƣớc
ổn định sau chiến thắng của tập đoàn Nguyễn Ánh với Tây Sơn, đồng thời đƣợc
trao đổi, tiếp thu kinh nghiệm và kiến thức từ nho sĩ và Nho học của các miền
trong cả nƣớc và Trung Quốc đã thúc đẩy Nho giáo ở Gia Định phát triển theo định
hƣớng học thuật – lý luận hoàn chỉnh hơn trƣớc, cũng trên cơ sở đó mở rộng và
điều chỉnh hệ thống chuẩn mực xã hội để phù hợp với nội dung phát triển và xu thế
lịch sử của đời sống Nam Kỳ. “Sau hàng trăm năm phát triển theo tiến trình lịch
sử ở địa phương, đến giữa thế kỷ XIX Nho giáo đã bám rễ sâu hơn vào đời sống
văn hóa – xã hội và trở nên quen thuộc với sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân
Gia Định. Nhiều chuẩn mực xã hội Nho giáo về đạo đức, nghi lễ, ứng xử, lối
sống… đã hội nhập vào đời sống tinh thần của quần chúng, góp phần đáng kể vào
việc củng cố tổ chức xã hội và xác lập diện mạo văn hóa cộng đồng Việt Nam tại
địa phương” [43, tr.183]. Điều đáng chú ý ở thế kỷ XIX là ở Nam Kỳ nho sĩ con
nhà thƣờng dân phổ biến hơn nho sĩ dòng dõi quan lại. “Đội ngũ nho sĩ bình dân ở
địa phương như vậy đã hiện diện như một nhóm xã hội ổn định và có số lượng
đông đảo, với sinh hoạt vật chất và tinh thần rất gần gũi với nhân dân” [43,
tr.185]. Điều này cho thấy, nhà nho ở Gia Định có đời sống rất gắn bó với nhân

dân lao động. Ngay từ đầu, Nho giáo đã phát triển không theo chuẩn lý thuyết, bên
cạnh đó, việc các nhà nho sống gần dân đã đƣa Nho giáo tại Nam Kỳ tiến tới một
hệ thống chuẩn mực xã hội Nho giáo khác, ở đó các nguyên tắc chế định đƣợc xây
dựng với nhiều yếu tố thu đƣợc từ tinh thần thực tiễn của nhân dân. “…Các nhà
nho Gia Định mà chủ yếu là bộ phận nho sĩ bình dân đã loại bỏ khá nhiều những
xác tín của mình, khiến cho lý thuyết chính trị Nho gia ở đây dần dần chỉ còn là lý
23


tưởng xã hội Nho giáo. Cái phong cách “Nho mà không Nho, không Nho mà Nho”
trong giới nho sĩ địa phương đã hình thành như thế đó” [43, tr.195].
Năm 1858 là một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội cũng
nhƣ Nho giáo ở Gia Định. Trong công cuộc chống trả thực dân xâm lƣợc, các nhà
nho yêu nƣớc đã đứng về phía nhân dân, ở vị trí lãnh đạo về tƣ tƣởng cho nhân dân
lao động khởi nghĩa. Sự căm ghét xâm lƣợc phƣơng Tây làm cho nhân dân càng
căm ghét đạo Thiên chúa. Chính vì vậy, Thiên chúa giáo bị nhân dân Nam Kỳ tẩy
chay mạnh mẽ vào nửa cuối thế kỷ XIX. Trên cả nƣớc, Nho giáo chính thống lạc
hậu cộng với sự bất lực của triều Nguyễn đã dẫn tới chỗ không đáp ứng đƣợc yêu
cầu thực tiễn. Trong khi đó, Nho giáo phi chính thống đã đứng về phía nhân dân,
phản ánh, cổ vũ, khích lệ tinh thần của nhân dân trong cuộc đấu tranh đó.
Mở đầu cho xu hƣớng chống đối quyết liệt đó là các nhà nho Nam Kỳ, “… đã
bước vào cuộc chiến đấu chống quân xâm lược nửa sau thế kỷ XX chỉ với một
truyền thống chính trị duy nhất tơn phù triều đình Nguyễn và các chúa Nguyễn
Đàng Trong. Sự từ bỏ truyền thống này ở họ vì vậy cũng có ý nghĩa như một hành
động chống lại mình…” [43, tr.250]. Hịa theo phong trào đấu tranh vũ trang
“chống Pháp chẳng nghe Thiên tử chiếu” Nho giáo ở Nam Kỳ kết dính tinh thần
cũng nhƣ truyền thống yêu nƣớc, và nhờ vậy mà đã đƣợc đông đảo nhân dân địa
phƣơng tiếp nhận trong ý nghĩa là một truyền thống để chống lại ách thống trị và
bóc lột của thực dân. Tuy nhiên cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc thất bại đã đẩy
Nho giáo ra khỏi địa vị thống trị, nhƣờng chỗ cho những thiết chế mới.

“Từ năm 1888 đến 1945, đó là yêu cầu bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc,
đồng thời xây dựng một nền học thuật mới ở Việt Nam trong những điều kiện ngặt
nghèo của chế độ thuộc địa” [43, tr.419]. Trong khoảng thời gian này chữ quốc
ngữ phát triển, dẫn đến nhiều thay đổi cơ bản trong các hoạt động khoa học, giáo
dục và thông tin. Cho đến đầu thế kỷ XIX Nho giáo vẫn xuất hiện thƣờng xuyên
trong sáng tạo và thẩm định, tổng kết và bảo lƣu các giá trị tinh thần của xã hội,
đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Nho giáo ở Nam Kỳ giai đoạn này vẫn đƣợc vận
dụng nhƣ một phƣơng tiện nhận thức quan trọng bên cạnh ý nghĩa là một hệ thống
24


kinh nghiệm truyền thống, và vẫn đƣợc nhiều tầng lớp xã hội vận dụng nhƣ một hệ
thống chuẩn mực hành động cũng nhƣ ứng xử dù đã bị loại bỏ ở phƣơng diện thiết
chế xã hội.
1.2.

Những nợi dung và hình thức chính của văn chƣơng của Nguyễn

Đình Chiểu
1.2.1. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) tục gọi Đồ Chiểu, sau khi bị mù ông lấy
hiệu là Hối Trai. Nguyễn Đình Chiểu sinh ra tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị
Thƣợng, huyện Bình Dƣơng, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định và mất tại làng An Đức,
tổng Bảo An, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Quê của ông vốn ở xã Bồ Điền, huyện
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Cha của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy, ngƣời xã Bồ Điền, huyện
Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cụ Nguyễn Đình Huy giữ chức thơ lại tại Văn
hàn ty Tả quân Lê Văn Duyệt. Năm 1802, cụ theo Tả quân Lê Văn Duyệt vào Gia
Định, và lấy vợ (Trƣơng Thị Thiệt) rồi sinh con đầu lịng là Nguyễn Đình Chiểu.
Từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu sống nề nếp bên cạnh mẹ. Ơng thƣờng nghe mẹ

kể những câu truyện cổ dân gian và đƣợc đi xem hát, qua đó, ơng đƣợc mẹ giáo
dục về những điều thiện ác, trung nịnh, chính tà, nhân nghĩa… Năm lên sáu, bảy
tuổi, Nguyễn Đình Chiểu đƣợc theo học một ông đồ trong làng. Việc nuôi dạy của
mẹ cùng sự giáo dục của ngƣời thầy đầu tiên này đã tác động rất lớn đến tƣ tƣởng
sau này của ông.
Năm 1832, Lê Văn Duyệt chết, cụ Nguyễn Đình Huy bị cách chức. Lúc này
Nguyễn Đình Chiểu khoảng mƣời một, mƣời hai tuổi, đƣợc cha đƣa ra Huế gửi vào
gia đình một quan Thái phó, hàng ngày Nguyễn Đình Chiểu vừa giúp việc vừa học
tập. Sau một thời gian học tập ở Huế, Nguyễn Đình Chiểu về Sài Gịn tham dự
khoa thi Quỹ mão (1843) và đỗ tú tài, lúc này ông 21 tuổi.
Năm 1847, ông lại trở ra Huế để chuẩn bị dự kì thi năm Kỷ dậu (1849),
trong khi miệt mài ôn tập chờ khoa thi, và ngày thi vừa đến thì Nguyễn Đình Chiều
25


×