Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Pháp Luật Về Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Từ Thực Tiễn Tỉnh Thanh Hóa.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.03 KB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG MẠNH CHUNG

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ
THỰC TIỄN TỈNH THANH HĨA

Chun ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN QUÂN

HÀ NỘI, năm 2021

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN), là một trong những cơ quan trong
hệ thống cơ quan nhà nước, trách nhiệm của ngành kiểm sát, người cán bộ
kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải thấy hết trách
nhiệm cao cả và nặng nề của mình, ln ln tơn trọng sự thật, phân rõ đúng
sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, cơng minh, chính trực" (Lê
Duẩn).
Ngay từ khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hồ đã coi
trọng đến cơng tác cán bộ và những vấn đề pháp lý về công tác cán bộ. Trong


đó có lực lượng cán bộ tư pháp các cấp. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Đây là cơ
sở pháp lý đầu tiên xác lập sự ra đời của VKSND và cũng đánh dấu sự hình
thành chức danh Kiểm sát viên VKSND, là chức danh pháp lý quan trọng
trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố.
Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là lực lượng quan trọng, được bổ
nhiệm để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của ngành; trong bộ máy nhà nước,
Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, một bộ phận của lực lượng cán bộ,
công chức, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, góp phần bảo
vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật
nghiêm minh, cơng bằng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
Với những đặc thù về địa lý, lịch sử, kinh tế, xã hội, tình hình tội phạm
và vi phạm pháp luật, VKSND tỉnh Thanh Hóa nói riêng và Kiểm sát viên hai
cấp VKSND tỉnh Thanh Hóa đang có những thuận lợi và cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn trong q trình thực hiện nhiệm vụ. Thanh Hóa nằm khu vực
2


Bắc Trung Bộ, là một trong những tỉnh lớn, diện tích đứng thứ 5 của cả nước,
với 11.129,48 km2, dân số đứng thứ 3 cả nước với 3,65 triệu dân, chỉ sau
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Thanh Hóa hiện là tỉnh có nhiều đơn vị
hành chính cấp huyện nhất Việt Nam, với tổng số thành phố, thị xã, huyện là
27 đơn vị hành chính. Là tỉnh có vị trí địa lý chiến lược quan trọng, phía Bắc
giáp Sơn La, Hịa Bình và Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km; phía
Nam và Tây Nam nằm liền kề Nghệ An với đường ranh giới hơn 160 km; phía
Tây nối liền sơng núi với tỉnh Hủa Phăn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào với đường biên giới dài 192 km; phía Đơng mở ra phần giữa của Vịnh Bắc
Bộ thuộc biển Đông với đường bờ biển dài trên 102 km. Địa hình Thanh Hố
khá phức tạp, chia cắt nhiều và thấp dần theo hướng Tây - Đơng. Từ phía Tây

sang phía Đơng có các dải địa hình núi, trung du, đồng bằng và ven biển.Thanh
Hóa nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam nước ta, với
nhiều tuyến đường giao thơng đi qua, đã tạo cho Thanh Hóa cơ hội giao lưu
kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở
rộng hợp tác quốc tế.
Trong những năm qua, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các loại
tranh chấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có nhiều diễn biến phức tạp, gia tăng
về số lượng và phức tạp về tính chất, tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Với chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND tỉnh
Thanh Hóa đã góp phần vào cơng cuộc xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa
trở thành một cực tăng trưởng ở khu vực phía Bắc. Góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh, phát hiện và xử lý nghiêm minh tội phạm
và vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Để ngành Kiểm
sát nhân dân thực hiện được nhiệm vụ và sứ mệnh chính trị to lớn mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó, con người ln là yếu tố quan trọng, quyết
định. VKSND tỉnh Thanh Hóa khơng thể hồn thành xuất sắc nhiệm vụ chính
trị, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
3


hai cấp. Vì vậy, xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ phẩm chất và
năng lực, kỹ năng nghề và thái độ tận tâm với công việc là nhiệm vụ có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng. Để xây dựng được đội ngũ Kiểm sát viên đáp ứng u cầu
thì phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, hiệu quả...
Tuy nhiên, pháp luật về Kiểm sát viên hiện nay đã bộc lộ những yếu
kém, bất cập như: thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất giữa các văn bản pháp
luật về Kiểm sát viên; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên
còn gị bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ cụ thể của từng đơn vị; tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên còn nhiều mâu
thuẫn, chưa phù hợp với đòi hỏi thực tiễn; công tác đào tạo, bồi dưỡng Kiểm

sát viên chậm được đổi mới, nặng về lý thuyết, chưa đa dạng hình thức đào tạo
gắn với nhiệm vụ công tác thực tế. Đặc biệt chưa quan tâm đào tạo kỹ năng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa; tiền lương, phụ cấp và các đãi ngộ
khác đối với Kiểm sát viên chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều điểm
chưa hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm sát viên
chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng dụng tài
năng chưa được quan tâm; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây
dựng đội ngũ Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời,
các quy định về Kiểm sát viên còn rời rạc trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau nên thiếu tính thống nhất, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền năng
pháp lý của Kiểm sát viên, đặc biệt là thực hiện chức năng thực hành quyền
cơng tố... Những thiếu sót, bất cập nêu trên là một trong những nguyên nhân
không nhỏ dẫn đến chất lượng, kỹ năng và tính tận tâm, nhiệt huyết của đội
ngũ Kiểm sát viên nói chung và Kiểm sát viên hai cấp tỉnh Thanh Hóa chưa
cao. Đặc biệt là hạn chế về kỹ năng nghề như kỹ năng hỏi cung, lấy lời khai,
kỹ năng tranh tụng, đối đáp, tác phong khi tranh tụng tại phiên tòa. Một bộ
phận khơng nhỏ Kiểm sát viên chưa tồn tâm, tồn ý với nghề, có biểu hiện
tham nhũng, tiêu cực, phiền hà, sách nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ; quyền năng
4


pháp lý của Kiểm sát viên và VKSND chưa được thực hiện hiệu quả trên thực
tiễn.
Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, cần xây dựng hệ thống pháp luật về
Kiểm sát viên đồng bộ, có hệ thống, đảm bảo chất lượng, có mục đích pháp lý,
nguyên tắc và định hướng rõ ràng. Trước yêu cầu trên, đã đặt ra nhiều vấn đề
lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp triệt để, có căn cứ khoa học và phù hợp
với thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là yêu cầu khách

quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy
nhiên, vấn đề pháp luật về Kiểm sát viên thuộc chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính là vấn đề cịn khá mới, chưa có cơng trình nghiên cứu chuyên
sâu. Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, cho thấy, nội dung này
các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, có thể
kể đến một số cơng trình nghiên cứu như:
- Tơ Tử Hạ (2016), Cơng chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2018), Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội;
- TS. Nguyễn Minh Tuấn (2017), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật;
- Lê Hữu Thể (chủ biên) (2018), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Lê Tài Triển (1971), Nhiệm vụ của Cơng tố viên, Nxb Sài Gịn;
5


- Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và
pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả Lê Tuấn Phong
(2017), “Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp”;
- Luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình
sự - Đại học Luật Hà Nội, tác giả Đàm Quang Ngọc (2020), “Chức năng cơng
tố trong tố tụng Hình sự Việt Nam và Đức”;
- Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về cơng tố”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật;

- Đỗ Văn Đương (2019), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số
vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ;
- Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS
nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2019;
- Phạm Hồng Hải (2019), "Đổi mới mơ hình tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Tuy vậy, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn
diện, chun biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh
Hóa. Luận văn là cơng trình khoa học nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý
luận và thực tiễn về: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ
thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Với kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu, góp phần khắc phục tình trạng
nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở các quy định của pháp luật về Kiểm
6


sát viên VKSND, từ thực tiễn VKSND tỉnh Thanh Hóa, tơi đặt ra cho mình
mục đích nhận thức tồn diện về cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa và làm rõ những kết quả đã đạt
được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc làm cơ sở
cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, trong luận văn
tơi tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây:

- Luận văn phân tích cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
như xây dựng khái niệm, nêu lên đặc điểm, nội dung, vai trò và các yếu tố bảo
đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa (giai đoạn từ 2015 đến nay), để có những đánh giá khách quan
về những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của những hạn
chế, vướng mắc.
- Từ những phân tích hình thành cơ sở lý luận và nghiên cứu thực trạng,
luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất các giải pháp, kiến nghị cơ bản, có
tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện trên địa
bàn VKSND tỉnh Thanh Hóa, thời gian từ năm 2015 đến nay, dưới góc độ tiếp
cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên học thuyết Mác 7


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Luật Hiến pháp - Luật Hành chính, quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam, về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp
cận đa ngành và liên ngành luật học, sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng phương
pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận văn chú trọng các phương pháp như:
phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh pháp luật. Đồng thời còn sử dụng
các phương pháp khác như: phương pháp nghiên cứu văn bản, các cơng trình

nghiên cứu có liên quan, phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,... để chọn
lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm ở trong và ngoài nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu có hệ thống chuyên sâu và đầy
đủ trên một địa bàn cụ thể về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh
Thanh Hóa trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Ở một mức độ
nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
đối với các các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như
những ai quan tâm nhận thức đầy đủ về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Các
kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống
lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những
quan điểm của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về cán bộ, công chức; về đổi mới công tác cán bộ và cải
cách tư pháp. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này cịn góp phần nâng cao
nhận thức về vai trị, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập
tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng
cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
8


của luận văn gồm 03 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân


9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm sát viên VKSND trước hết là cán bộ, cơng chức nhà nước. Vì
vậy, để xây dựng khái niệm về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải làm
rõ khái niệm cán bộ, công chức nhà nước. Theo các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành thì ở nước ta sử dụng đồng thời ba thuật ngữ cán bộ, công chức
và viên chức.
Cán bộ, được hiểu theo nghĩa thông thường nhất là những người được
nhà nước tuyển dụng để làm việc trong bộ máy chính quyền các cấp, lực
lượng vũ trang (mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan, qn nhân chun
nghiệp, cơng nhân quốc phịng), các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh
tế…
Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008, sửa đổi bổ sung
năm 2019 quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37]
Theo đó, cán bộ là những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ theo
quy định của pháp luật, công chức theo quy định của pháp luật và được
tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội thơng qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức

danh theo nhiệm kỳ.
10


Theo quy định của Hiến pháp thì những người làm việc trong các cơ
quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ, công chức và viên chức. Điều 8,
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…"
[12].
Công chức, là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi hơn cán bộ, là thuật
ngữ mang tính lịch sử và được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Nhưng mỗi quốc gia khái niệm công chức lại mang một màu sắc riêng,
phản ánh đặc sắc riêng của tổ chức bộ máy nhà nước và nền công vụ ở mỗi
quốc gia. Mỗi một giai đoạn lịch sử, mỗi nền công vụ và chế độ chính sách
ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ mà khái niệm công chức được hiểu theo nghĩa
khác nhau.
Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung
năm 2019 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng,
bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong
cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân
quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải
là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công
an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37].
Là một bộ phận hợp thành của cán bộ, công chức, Kiểm sát viên
VKSND là khái niệm được quy định trong Pháp lệnh Kiểm sát viên năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến
nay là Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tại Điều 74 Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định

của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các
11


hoạt động tư pháp [38].
Đồng thời, căn cứ Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy
định những người là công chức thì xác định “Cơng chức là cơng dân Việt
Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên
chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong
các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4].
Theo đó, cơng chức trong hệ thống VKSND là người làm việc trong
hệ thống VKSND các cấp, nằm trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
Đối với VKSND tối cao, gồm: Các Phó Viện trưởng VKSND tối cao;
kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban
và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao.
Đối với VKSND cấp cao, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm
sát viên, kiểm tra viên, người làm việc trong văn phòng, Viện nghiệp vụ
thuộc VKSND cấp cao.
Đối với VKSND cấp tỉnh, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng; kiểm
sát viên, kiểm tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc
VKSND cấp tỉnh.
Đối với VKSND cấp huyện, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng;
kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong VKSND cấp huyện.
Qua phân tích các quy định trên đây, có thể khái qt: Kiểm sát viên
VKSND là công dân Việt Nam, được tuyển dụng vào ngạch công chức của
VKSND, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ
nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.


12


1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận trong bộ máy cơ quan nhà
nước. Kiểm sát viên VKSND là những người được bổ nhiệm thực hiện
nhiệm vụ của VKSND theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và Viện trưởng VKSND. Kiểm
sát viên là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước. Do đó,
hoạt động của Kiểm sát viên trước hết nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của
cán bộ, cơng chức nhà nước.
Về vị trí: VKSND là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, Kiểm sát
viên VKSND là một bộ phận của cán bộ, công chức nhà nước. Vấn đề này
được quy định bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp.
Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp.
Về tổ chức, quyền hạn: VKSND là một hệ thống cơ quan trong bộ
máy nhà nước, gồm có bốn cấp: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và Viện kiểm sát quân sự được phân cấp đảm
nhiệm chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức VKSND. Ở
mỗi cấp, VKSND được phân bổ số lượng Kiểm sát viên theo ngạch. Có
Kiểm sát viên được bổ nhiệm chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; một số Kiểm sát viên vừa được bổ nhiệm để
thực hiện chức năng trên của Kiểm sát viên, vừa giữ chức danh quản lý theo
nhiệm kỳ.
Về hoạt động: VKSND thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực hành quyền công tố là hoạt động của
VKSND để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội,

được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
13


khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự; kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia các quan hệ pháp luật
trong hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên VKSND có các đặc điểm cụ thể sau:
Kiểm sát viên là công chức ngành kiểm sát, là một chức danh pháp lý
được bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ của VKSND là thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Với đặc thù là người thực thi pháp luật và
thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt
động tư pháp, hoạt động của Kiểm sát viên nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo
đảm pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh và
thống nhất, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo tiêu chuẩn: Là cơng dân Việt
Nam; về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phải tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; có tinh thần đấu tranh không khoan
nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm mục tiêu bảo vệ Hiến
pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; Kiểm sát viên VKSND phải
không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cán bộ ngành Kiêm sát “Cơng minh, chính trực, khách quan,
thận trọng, khiêm tốn”; có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nguyên tắc tổ
chức của VKSND. Với chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp và pháp luật
quy định, Kiểm sát viên là những người trực tiếp thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKSND nên có điều kiện gần dân, thơng qua thực hiện nhiệm
vụ dễ làm dân tin, dân mến. Từ đó tuyên truyền, phổ biến và vận động nhân
dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Cùng với
sự phát triển của đất nước, Kiểm sát viên VKSND là lực lượng quan trọng,

tiên phong góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, trên
14


thực tế cơ chế để đảm bảo thực thi quyền của VKSND nói chung và Kiểm
sát viên VKSND cịn chưa đảm bảo, chế độ chính sách đối với Kiểm sát
viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Nên, còn khơng ít Kiểm sát
viên chưa tồn tâm, tồn ý với cơng việc, chưa tâm huyết với nhiệm vụ được
giao.
Ngồi phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, Kiểm sát viên VKSND
phải bảo đảm tiêu chuẩn về trình độ chun mơn, nghiệp vụ. Theo quy định
tại Điều 75 Luật Tổ chức VKSND: Kiểm sát viên phải có trình độ cử nhân
Luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệm vụ kiểm sát. Xuất phát từ yêu cầu
hiện nay, đòi hỏi mỗi Kiểm sát viên phải “Tinh thông về pháp luật”, nắm
vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, các Điều ước
quốc tế, các quy chế nghiệp vụ của ngành. Nhất là các quy định pháp luật
trong lĩnh vực công tác được giao để thực hiện chức năng hiệu quả. Đồng
thời góp phần nâng cao tính đúng đắn của việc áp dụng pháp luật của các cơ
quan tư pháp.
Ngồi ra, Kiểm sát viên cịn có các kỹ năng đặc thù như: kỹ năng hỏi;
kỹ năng xử lý tình huống; kỹ năng phân loại và giải quyết vấn đề một cách
quyết đốn; kỹ năng thu thập, phân tích thông tin và tổng hợp báo cáo; kỹ
năng tranh tụng tại phiên tịa, thuyết phục, hùng biện trước đám đơng. Các
kỹ năng đó được hình thành và hồn thiện từ thực tiễn cơng tác. Với tính
chất và u cầu cơng việc được giao, Kiểm sát viên phải tham gia quan hệ
pháp luật với nhiều chủ thể khác nhau: Bị can, bị cáo, các đương sự, Điều
tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên… nên tính chủ động, phối hợp với các
ban ngành, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là một trong những địi
hỏi để Kiểm sát viên hồn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời hình thành nhiều
kỹ năng nghề nghiệp đặc thù.

Xuất pháp từ nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành
15


Kiểm sát nhân dân, khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên tuân theo pháp
luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp mình. Đồng thời chịu sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện
trưởng VKSND tối cao về hành vi, quyết định của mình trong việc thực
hành quyền cơng tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối
tượng công chức nhà nước khác.
Kiểm sát viên là công chức nhà nước, làm việc trong bộ máy nhà
nước theo định biên, các chế độ làm việc, tuổi nghỉ hưu giống công chức
nhà nước khác nhưng chức danh Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý,
được thi tuyển và bổ nhiệm theo nhiệm kỳ (trước đây mỗi nhiệm kỳ Kiểm
sát viên là 05 năm, hiện nay tăng lên 10 năm trong trường hợp bổ nhiệm
lại), nếu hết nhiệm kỳ khơng được bổ nhiệm lại thì khơng cịn giữ chức danh
Kiểm sát viên nữa. Về quyền lợi, vì là một chức danh pháp lý nên Kiểm sát
viên được hưởng phụ cấp. Đồng thời, nghĩa vụ, trách nhiệm cao, phải chịu
trách nhiệm pháp lý nặng nề nếu để xảy ra oan sai, thậm chí phải bồi thường
hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên phải làm việc với áp
lực công việc lớn nhưng chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, dẫn đến một bộ
phận không nhỏ Kiểm sát viên không tâm huyết với nghề, không giành thời
gian nâng cao năng lực chuyên môn, do đó chưa nắm vững các quy định
pháp luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được u cầu đấu
tranh phịng, chống tội phạm.
1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, là một thiết chế Hiến
định được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, có chức năng
thực hành quyền cơng tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ

Hiến pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hệ
16


thống cơ quan VKSND gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và các Viện kiểm sát quân sự. VKSND tối cao
là cơ quan cao nhất của VKSND, có nhiệm vụ của VKSND là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngồi ra cịn có chức
năng quản lý chung đối với VKSND các cấp; VKSND cấp cao thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao. VKSND cấp tỉnh
và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong phạm vi địa phương mình. Đối với các trường hợp theo quy định
thì VKSND cấp trên thực hành quyền cơng tố đối với những vụ án thuộc
thẩm quyền của VKSND cấp dưới. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quân đội.
1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm sát viên là một bộ phận của cán bộ, cơng chức nhà nước. Vì
vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND vừa được quy định trong các văn
bản pháp lý riêng đối với cán bộ, công chức của VKSND, vừa được quy
định trong các văn bản về cán bộ, cơng chức nhà nước nói chung. Do đó,
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các nghị
định… Là lĩnh vực khoa học pháp lý rộng, mang tính liên ngành. Trong đó,
Luật cán bộ, cơng chức và Luật tổ chức VKSND là hai văn bản chủ yếu, với
ý nghĩa là những văn bản quy định chung.
Hiến pháp là đạo luật khung, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để
làm hình thành Luật tổ chức VKSND và pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND. Hiến pháp điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất
17


trong một quốc gia, đặc biệt là các mối quan hệ liên quan tới cách thức tổ
chức quyền lực nhà nước, cách thức vận hành của các cơ quan nhà nước,
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của công chức trong bộ máy nhà nước.
Các quy định nói chung và quy định về cán bộ, cơng chức nói riêng trong
Hiến pháp là cơ sở định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật
về cán bộ, cơng chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng.
Luật cán bộ, công chức là văn bản pháp luật quy định một cách tổng
hợp mọi mặt liên quan đến cán bộ, công chức dưới góc độ đời sống cơng vụ,
gồm: phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ; các quy tắc chung về tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật... của cán
bộ, cơng chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND là một trong số đó.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức
VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn
bản trực tiếp, cơ bản và quan trọng nhất quy định về cơ cấu tổ chức của
VKSND và Kiểm sát viên VKSND. Đối với những quy định về Kiểm sát
viên VKSND, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định các nội dung cụ thể
của Kiểm sát viên như: tuyển dụng, bổ niệm, các ngạch Kiểm sát viên, chế
độ sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường, bồi
hoàn, trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND…
Tóm lại, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một nhóm những văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh liên quan tới mọi mặt đời sống công vụ,
chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND từ tiêu chuẩn bổ nhiệm,
trách nhiệm, quản lý… và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản này do
cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
tuyển dụng, sử dụng, thực hiện nhiệm vụ và chế độ chính sách của đội ngũ

Kiểm sát viên.
18


Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra khái niệm: Pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chứa đựng các quy định liên quan
đến Kiểm sát viên như: các nguyên tắc của chế độ công vụ, điều chỉnh các
quan hệ về công vụ trong thiết lập các chức danh công chức của VKSND;
các quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên VKSND trong q trình thực thi
nhiệm vụ, cơng vụ; việc bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen
thưởng, kỷ luật và các vấn đề khác trong chính sách Kiểm sát viên VKSND.
1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Như đã nêu ở trên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định
ở nhiều văn bản khác nhau, là một vấn đề nghiên cứu rộng lớn. Nghiên cứu
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là nghiên cứu một cách tổng thể tất cả
các quy định về Kiểm sát viên VKSND. Dưới góc độ Luật Hiến pháp - Luật
Hành chính, dựa vào các quan hệ được điều chỉnh bởi pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND, trên cơ sở thực tiễn pháp luật, có thể xác định được nội dung
của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND gồm những vấn đề cơ bản sau:
- Địa vị pháp lý của chức danh Kiểm sát viên, Kiểm sát viên có phải
là cán bộ, cơng chức và có được điều chỉnh bởi Luật cán bộ, công chức
không và nằm ở đâu trong nền công vụ nước ta.
- Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Kiểm sát viên.
- Nhiệm kỳ Kiểm sát viên, các ngạch Kiểm sát viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.
- Chế độ chính sách đối với Kiểm sát viên.
Dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành, có thể thấy, hiện
nay có hai nhóm nội dung cơ bản của pháp luật về Kiểm sát viên là: Thứ

nhất, nhóm các quy định về chế độ hoạt động của Kiểm sát viên, là những
19


quy định chung nhất về Kiểm sát viên trong bộ máy Nhà nước, bao gồm các
quy định về địa vị pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của
Kiểm sát viên khi thực thi công vụ; thứ hai, nhóm các quy định về quản lý
(hành chính), chế độ độ đãi ngộ, sử dụng đối với Kiểm sát viên như: tuyển
chọn, bổ nhiệm, sử dụng, quản lý, đào tạo, chế độ đãi ngộ, luân chuyển, điều
động, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cách chức, trách nhiệm khi thực thi
công vụ. Luận văn chủ yếu tập trung vào một số nội dung về: nhiệm vụ,
quyền hạn, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhhiệm, cách
chức Kiểm sát viên; mối quan hệ công vụ với các cơ quan, các thủ thể tham
gia tố tụng có liên quan như: Điều tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên và
mối quan hệ công vụ của Kiểm sát viên với Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND trong q trình thực thi cơng vụ.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận của pháp luật nói
chung. Vai trị của pháp luật trong quản lý xã hội và vận hành bộ máy nhà
nước là vấn đề được tất cả các quốc gia ghi nhận. Ở nước ta, vai trò của
pháp luật được thể hiện rõ ràng nhất ở mục tiêu của Đảng là xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật, nhà nước của dân,
do dân, vì dân; quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Muốn xây
dựng nhà nước pháp quyền, đòi hỏi pháp luật phải là công cụ hữu hiệu của
nhà nước, để pháp luật phát huy được vai trò của mình, trước hết phải xây
dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hồn thiện, trong đó có pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND. Do đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
là một trong những phương tiện có vai trò quan trọng để xây dựng NNPQ

XHCN. Đồng thời là bức tranh phản ánh tính đúng đắn của đường lối, chính
20


sách của Đảng, cụ thể như sau:
Một là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thể hiện quan điểm của
Đảng ta về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
Đồng thời, là phương tiện, cơng cụ để thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm,
chính sách của Đảng ta vào thực tiễn. Quan điểm, chính sách của Đảng
mang tính định hướng, chỉ đạo, pháp luật phải quy định chi tiết cụ thể từ
quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, cơ chế thực thi và chế độ chính sách có liên
quan để các đường lối, chính sách của Đảng được đưa vào thực tiễn. Ngược
lại, thực tiễn chính là nơi kiểm nghiệm hiệu quả nhất tính đúng đắn, phù hợp
của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND là phương tiện để Đảng kiểm nghiệm chủ trương, đường lối, định
hướng về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên. Từ đó, sẽ tổng kết thực tiễn để
điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp.
Hai là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện quan trọng
trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Nhà nước muốn quản lý xã
hội phải thơng qua bộ máy hành chính - nhân sự. Vì vậy, xây dựng những
quy phạm pháp luật để quản lý nền hành chính - nhân sự là mối quan tâm
hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào. Một bộ máy hành chính - nhân sự hoạt
động hiệu quả sẽ tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước, thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển; một hệ thống pháp luật đồng bộ, có chất lượng sẽ giúp
cho việc quản lý, vận hành bộ máy nhà nước đạt hiệu quả cao. Do đó, hoạt
động cơng vụ của Kiểm sát viên VKSND có hiệu quả hay khơng phụ thuộc
rất lớn vào chất lượng hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
Các văn bản pháp luật đó quy định theo các nhóm: Quy định về phạm
vi, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trên cơ sở các chức
vụ hành chính được nhà nước trao cho, nhằm tạo cơ sở pháp lý để Kiểm sát

viên thực thi công vụ, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Việc
21


quy định nhiệm vụ, quyền hạn, những việc Kiểm sát viên VKSND được làm
và không được làm trong các văn bản quy phạm pháp luật vừa khẳng định
địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong bộ máy Nhà nước, giúp cho Kiểm sát
viên VKSND hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp
luật. Đồng thời, tránh việc lạm quyền trong thực thi công vụ, là biện pháp
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, đảm
bảo các mệnh lệnh, quyết định của VKSND đều đúng quy định của pháp
luật; quy định về chế độ chính sách gồm các quy định về tuyển dụng, bổ
nhiệm, khen thưởng, kỷ luật… đảm bảo các chế độ, chính sách đối với Kiểm
sát viên được thực hiện đầy đủ, công bằng trên thực tiễn.
Ba là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện pháp lý cho
đội ngũ Kiểm sát viên thực thi đúng chức trách của mình, là cơ sở pháp lý
để góp phần thực hiện nhiệm vụ của VKSND là bảo vệ lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. VKSND
là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nước ta. Các hoạt động của Kiểm
sát viên VKSND là hoạt động cơng vụ mang tính quyền lực nhà nước, nhằm
thực thi quyền hành pháp. Kiểm sát viên VKSND là những người được nhà
nước lựa chọn thay mặt nhà nước để thi hành cơng vụ. Do đó, hoạt động của
Kiểm sát viên là hoạt động thay mặt nhà nước, chịu sự điều chỉnh bởi các
văn bản pháp luật quản lý hành chính nhân sự.
Do đó, trong mối quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND với nhà nước:
Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm, những việc Kiểm sát viên không được làm, cơ chế miễn nhiệm,
bổ nhiệm, kỷ luật… nhằm tạo hành lang pháp lý cho Kiểm sát viên VKSND
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ do nhà nước giao phó. Ngược lại, những

quy định đó cũng là sự ràng buộc để Kiểm sát viên VKSND thực hiện đúng
22


nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình để bảo vệ danh dự, uy tín và lợi
ích của nhà nước, của quốc gia. Về nghĩa vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên
với nhà nước, pháp luật có vai trị là cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm của
Kiểm sát viên VKSND đối với nhà nước. Các văn bản pháp luật quy định
Kiểm sát viên VKSND có nghĩa vụ trung thành với tổ quốc, có trách nhiệm
phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, Kiểm sát viên là công chức nhà nước
nên trước hết phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phải bảo đảm các
mệnh lệnh, quyết định của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh, góp phần
bảo vệ lợi ích của nhà nước.
Quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân: Trong mối quan hệ này,
pháp luật xác định Kiểm sát viên có nghĩa vụ tận tụy phục vụ nhân dân;
nhân dân là đối tượng bị tác động bởi những hành vi, quyết định của Kiểm
sát viên VKSND trong q trình thực thi cơng vụ. Do đó, những quy định về
địa vị pháp lý, những việc không được làm, khen thưởng và kỷ luật, trách
nhiệm bồi thường, miễn nhiệm… là ràng buộc pháp lý quan trọng để Kiểm
sát viên thực thi đúng bổn phận, trách nhiệm của mình, với mục đích là phục
vụ nhân dân. Các quy định của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nhằm
đảm bảo các quyết định, mệnh lệnh của VKSND (cơ quan đại diện cho nhà
nước) được thi hành nghiêm chỉnh, hạn chế tình trạng thiếu trách nhiệm, thờ
ơ, vơ cảm, tham nhũng, nhận hối lộ làm không đúng chức trách, nhiệm vụ.
Từ đó, làm giảm lịng tin của nhân dân đối với nhà nước. Mặc dù Kiểm sát
viên có những quyền, bảo đảm pháp lý nhất định trong khi thi hành nhiệm
vụ, công vụ nhưng về bản chất, việc nhà nước quy định cho Kiểm sát viên
VKSND có những quyền năng pháp lý đó là để nhằm mục đích bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, cán bộ, cơng chức là cơng bộc của nhân dân, có nghĩa vụ phục

vụ nhân dân. Do đó, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân là mối
23


quan hệ giữa một bên là người phục vụ và một bên là người được phục vụ.
Nhằm mục đích bảo vệ quyền con người, quyền công dân trên cơ sở thượng
tơn pháp luật.
Tóm lại, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, thì yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật là yêu cầu tất yếu. Trong đó, pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, VKSND là cơ quan thực thi
pháp luật, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, Kiểm sát viên VKSND là lực
lượng chủ yếu, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của VKSND. Do đó, pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND hoàn thiện, hiệu quả sẽ nâng cao vai trị của pháp
luật, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND. Từ đó, góp phần
xây dựng một xã hội thượng tơn pháp luật. Ngồi ra, pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND là phương tiện để Đảng ta thực hiện quan điểm về xây dựng
đội ngũ Kiểm sát viên VKSND trong tình hình mới, là phương tiện quan
trọng để nhà nước thực hiện hoạt động quản lý đối với cơ quan nhà nước là
VKSND. Một hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND hoàn thiện sẽ
giúp phát huy tốt chức năng của VKSND nói riêng và hiệu quả quản lý nhà
nước nói chung nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân
1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý
Xây dựng NNPQ là yêu cầu tất yếu khách quan, là kim chỉ nam trong
xây dựng nhà nước Việt Nam hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Điều đó đã được xác định rõ ràng trong các văn
kiện quan trọng nhất của Đảng qua các thời kỳ và ghi nhận trang trọng trong

Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
24


Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức" [12].
Xây dựng NNPQ là nhiệm vụ quan trọng, điều này đã được kiểm
nghiệm và khẳng định từ thực tế lịch sử. Pháp luật đóng vai trị khơng thể
thiếu trong đời sống xã hội, nó tác động tồn diện đến tất cả các mặt đời
sống xã hội, một hệ thống pháp luật đồng bộ, hiệu quả sẽ thúc đẩy quá trình
hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
mở rộng dân chủ; tăng cường hợp tác quốc tế là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện
bộ máy nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có chất lượng, góp
phần thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong khi đó, hệ thống
pháp luật của chúng ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, nhiều quy định
vòn chồng chéo, chưa bắt kịp sự phát triển của xã hội, thiếu các quy phạm
pháp luật điều chỉnh về quan hệ thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế,
về hành chính, cơng vụ, về cơ chế giám sát, vận hành hoạt động thực thi
công vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và của cán bộ, công chức…
Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn
diện trong điều kiện xây dựng NNPQ, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội ở nước ta và phục vụ hiệu quả cho việc mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế. Vì vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây
dựng NNPQ cần phải đáp ứng được những yêu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND đạt chất lượng. Trong điều kiện xây dựng NNPQ,
điều cốt yếu là đề cao vai trò và giá trị xã hội của Hiến pháp và pháp luật,
đảm bảo Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối cao trong đời sống xã hội.

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được xây dựng và hoàn thiện trên
25


×