Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Phát triển quan hệ hợp tác giữa việt nam và hoa kỳ trong lĩnh vực ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 117 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM
VÀ HOA KỲ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG


Họ và tên sinh viên : Phạm Thị Quỳnh Chi
Lớp : Anh 15
Khoá : 42D – KT&KDQT
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Bùi Ngọc Sơn










Hà Nội - Tháng 11/2007
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

1
LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay, việc nghiên cứu đề tài về sự phát triển quan hệ hợp tác kinh
tế thƣơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ có lẽ không còn là một điều gì đó mới mẻ
nhƣ trƣớc thời kỳ bình thƣờng hoá quan hệ giữa hai nƣớc. Đã có rất nhiều các
nhà nghiên cứu, nhà kinh tế học, các học giả và cả các sinh viên kinh tế với
những bài nghiên cứu rất sâu sắc về nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ
kinh tế thƣơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ, đƣa ra một bức tranh đầy đủ về
quan hệ song phƣơng ngày càng tăng này.
Nhận thức đƣợc điều đó cùng với mối quan tâm của cá nhân về lĩnh vực
tài chính ngân hàng, tôi cũng muốn trình bày một khía cạnh khác của mối
quan hệ này với đề tài “Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong
lĩnh vực ngân hàng”. Đây là một đề tài chƣa có nhiều nghiên cứu vì một số lí
do khách quan nhƣ trong những năm trƣớc đây tình hình hợp tác giữa hai
nƣớc trong lĩnh vực này còn chƣa nổi bật cũng nhƣ hạn chế về số liệu phân
tích thực tế. Tuy nhiên, trong năm 2007 những sự kiện nổi bật trong ngành
ngân hàng Việt Nam cùng với sự hợp tác ngày càng tăng của Mỹ trong kinh tế
thƣơng mại đã thu hút sự quan tâm của tôi và đƣa tôi đến quyết định nghiên
cứu đề tài không mấy dễ này. Đề tài này đòi hỏi thời gian nghiên cứu cũng
nhƣ thu thập các tài liệu không chỉ về mối quan hệ hợp tác của Việt Nam và
Hoa Kỳ nói chung trong lĩnh vực ngân hàng mà còn cả những nguồn số liệu
thông tin thực trạng từ các hoạt động của ngân hàng Mỹ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, cùng với nỗ lực và mối quan tâm sâu sắc đến lĩnh vực này,
em cũng xin đƣợc trình bày trong khoá luận của mình hai vấn đề chính là:
thực trạng của quan hệ hợp tác này và từ đó đƣa ra giải pháp nhằm phát triển
quan hệ hợp tác Việt - Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng, giúp cho ngƣời nghiên

cứu và ngƣời quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng cũng nhƣ mối quan hệ thƣơng
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

2
mại Việt Mỹ hiểu rõ thêm về việc đầu tƣ của hai bên trong ngành ngân hàng
và cung cấp những tài liệu với những số liệu thống kê có ích.
Khoá luận đƣợc trình bày qua ba chƣơng chính:
Chƣơng 1: Vai trò và các điều kiện phát triển quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
Chƣơng 2: Thực trạng hợp tác phát triển giữa Việt Nam và Mỹ trong
lĩnh vực ngân hàng
Chƣơng 3: Những định hƣớng và giải pháp thúc đẩy sự hợp tác phát
triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo TS. Bùi
Ngọc Sơn, Giáo viên hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khoá
luận này.

Tác giả
Phạm Thị Quỳnh Chi
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

3
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ VÀ CÁC ĐIỀU
KIỆN PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT MỸ TRONG
LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
I. VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM VÀ
HOA KỲ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1. Vị trí của Mỹ trong quan hệ hợp tác ngân hàng với Việt Nam
1.1. Vị trí của Mỹ trong quan hệ thương mại đầu tư nói chung với Việt
Nam

Hơn một thập kỷ, kể từ khi Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại
giao, là khoảng thời gian không dài nhƣng lại là một chặng đƣờng đầy ý nghĩa
trong mối bang giao giữa hai quốc gia vốn ở hai bên chiến tuyến. Sau thời
điểm thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12 tháng 7 năm 1995, cả Việt Nam và
Mỹ đều rất nỗ lực phát triển và mở rộng hợp tác trong nhiều lĩnh vực.
Từ sự hợp tác ban đầu còn nhỏ lẻ, bó hẹp trong vấn đề nhân đạo, mối
quan hệ đã mở rộng sang các lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế, khoa
học công nghệ và cả những lĩnh vực chƣa từng có trong lịch sử quan hệ hai
nƣớc nhƣ tiếp xúc quốc phòng, hợp tác chống khủng bố, ma tuý, tội phạm
xuyên quốc gia trong những năm gần đây.
Trong quan hệ hai nƣớc, hợp tác kinh tế, thƣơng mại luôn là lĩnh vực
trọng tâm và cũng là lĩnh vực đạt nhiều kết quả tích cực nhất. Hiệp định
thƣơng mại Việt Mỹ đƣợc kí kết vào tháng 7 năm 2000 và có hiệu lực vào
tháng 12/2001 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy quan hệ
hợp tác kinh tế-thƣơng mại đầu tƣ. Cụ thể nhƣ kim ngạch xuất nhập khẩu
buôn bán hai chiều
1
năm 2005 đạt 8,7 tỷ USD, tăng gấp 5 lần năm 2001
(91,5 tỷ USD) và chỉ một năm sau đó đã đạt 9,7 tỷ USD. Hiện nay Hoa Kỳ
đang là thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Đầu tƣ của Hoa Kỳ vào


1
Nguồn: Báo cáo tình hình thƣơng mại năm 2005, 2006, 2007 của trang web Bộ Công thƣơng
(www.mot.gov.vn)
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

4
Việt Nam
2


đến tháng 4 năm 2007 đã đạt hơn 2,3 tỷ USD, xếp thứ 8 trong các
quốc gia và vùng lãnh thổ nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam (nếu tính cả đầu
tƣ qua nƣớc thứ 3 là 4,3 tỷ USD). Theo số liệu của Phòng Công nghiệp Hoa
Kỳ, hiện nay ở Hà Nội có hơn 1.000 doanh nghiệp Hoa Kỳ đang hoạt động
tại Việt Nam. Bên cạnh đó, hai quốc gia này cũng đang từng bƣớc thúc đẩy
hợp tác về các vấn đề nhân đạo sau chiến tranh. Việt Nam đã và đang hợp tác
chặt chẽ với Hoa Kỳ trong việc giải quyết vấn đề tìm kiếm ngƣời Mỹ mất
tích trong chiến tranh. Đến nay, hai nƣớc đã tiến hành 89 đợt tìm kiếm hỗn
hợp và phía Việt Nam đã trao cho Mỹ hơn 850 bộ hài cốt. Phía Hoa Kỳ cũng
đang từng bƣớc hợp tác với Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề hậu
quả chiến tranh ở Việt Nam nhƣ cung cấp các thông tin liên quan tới việc tìm
kiếm ngƣời Việt Nam bị mất tích trong chiến tranh, tổ chức hội nghị về
nghiên cứu hậu quả chất độc da cam, thực hiện các chƣơng trình rà phá bom
mìn, trồng cây xanh, trợ giúp nạn nhân.
Việc giải quyết hậu quả chất độc da cam cũng đã có những tiến triển
bƣớc đầu. Ngày 25/5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua khoản chi 3 triệu
USD hỗ trợ bảo vệ môi trƣờng và chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam.
Ngoài ra, hai bên cũng đang thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực giáo
dục - đào tạo, y tế và lao động.
Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ George Bush vào
tháng 11/2006, hai bên đã ra tuyên bố chung trong đó khẳng định quyết tâm
bảo đảm cho quan hệ song phƣơng ổn định, xây dựng, có nền tảng rộng lớn
và đƣợc tiến hành trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền và cùng có lợi.
Hoạt động thƣơng mại hai chiều cũng nhƣ đầu tƣ của Mỹ vào Việt
Nam đƣợc cho là sẽ còn tăng mạnh vì Tổng thống Mỹ George Bush đã ký ban
hành đạo luật thiết lập Quy chế Quan hệ thƣơng mại bình thƣờng vĩnh viễn


2

Nguồn: Số liệu đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam trong trang web của Bộ kế hoạch và đầu tƣ
(www mpi.gov.vn)
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

5
(PNTR) với Việt Nam hồi tháng 12 năm ngoái và sau đó Việt Nam đã chính
thức trở thành thành viên Tổ chức Thƣơng mại Thế giới.
*Một số mốc quan trọng trong quan hệ Việt Mỹ
- Tháng 8/1995: Việt Nam và Mỹ khai trƣơng đại sứ quán Washington
DC tại Hà Nội.
- Ngày 14/7/2000: Tại Washington, đại diện hai nƣớc ký Hiệp định
Thƣơng mại song phƣơng sau nhiều năm đàm phán.
- Từ ngày16 đến ngày 19/11/2000: Tổng thống Bill Clinton thăm chính
thức Việt Nam.
- Từ ngày19 đến 22/6/2005, Thủ tƣớng Phan Văn Khải thăm Mỹ. Hai
bên đã ra Tuyên bố chung khẳng định mong muốn xây dựng quan hệ
hợp tác hữu nghị hợp tác nhiều mặt, ổn đinh lâu dài.
- Từ ngày 17 đến ngày 20/11/2006: Tổng thống George W.Bush thăm
chính thức Việt Nam nhân dịp tham dự Hội nghị APEC.
- Từ ngày 18 đến ngày 23/6 /2007: Chủ tịch nƣớc Nguyễn Minh Triết
sang thăm Mỹ và ký kết Hiệp đinh khung về thƣơng mại và đầu tƣ
TIFA.
1.2. Vị trí của Mỹ trong quan hệ hợp tác ngân hàng với Việt Nam
Trên đây là bức tranh toàn cảnh về hợp tác quan hệ hợp tác Việt Mỹ
trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong tƣơng lai, theo các Hiệp định song
phƣơng và đa phƣơng mà Việt Nam đã cam kết, cùng với việc Việt Nam là
thành viên của Tổ chức Thƣơng mại Quốc tế WTO thì Việt Nam phải cam
kết và dần dần dỡ bỏ các rào cản đối với việc gia nhập và hoạt động của các
nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại thị trƣờng trong nƣớc về Thƣơng mại dịch vụ - một
mảng lớn mà ở Việt Nam hiện còn chƣa phát triển. Theo Hiệp định thƣơng

mại song phƣơng Việt - Mỹ (BTA, Thƣơng mại dịch vụ đƣợc chia thành các
lĩnh vực dịch vụ cụ thể sau:
1. Dịch vụ kinh doanh
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

6
2. Dịch vụ thông tin liên lạc
3. Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan
4. Dịch vụ phân phối
5. Dịch vụ giáo dục
6. Dịch vụ tài chính
7. Dịch vụ y tế, lữ hành.
Trong đó, các dịch vụ tài chính bao gồm dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ
ngân hàng và tài chính khác. Hoà cùng xu hƣớng hội nhập hiện nay, ngành tài
chính sẽ phải đƣợc tự do hoá để hội nhập vào thị trƣờng tài chính quốc tế, mỗi
quốc gia phải tự chọn cho mình một lộ trình tự do hoá tài chính riêng, tuỳ
thuộc vào đặc điểm kinh tế và chính trị của mình.
Dịch vụ ngân hàng đƣợc hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền
tệ, thanh toán,… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu
kinh doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản,… và ngân hàng thu
chênh lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Trong xu hƣớng
phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng đƣợc
coi nhƣ một “siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính” với hàng trăm, thậm
chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ
phát triển của ngân hàng.
Trên thực tế, lĩnh vực tài chính ngân hàng giữa hai nƣớc trƣớc năm
2006 vẫn chƣa có nét gì nổi bật. Tại nƣớc Mỹ có 7.540 ngân hàng vào cuối
năm 2005 và 75.000 chi nhánh trên toàn thế giới
3
. Trong tổng số các ngân

hàng đó, các ngân hàng của Mỹ nhƣ Citibank, Bank of America, JP Morgan
Chase Bank luôn luôn đứng đầu trong bảng xếp hạng top mƣời Ngân hàng
lớn nhất thế giới. Nhƣng kể từ khi hai nƣớc thiết lập quan hệ hợp tác với nhau
đến nay chỉ có 3 chi nhánh và bốn văn phòng đại diện của ngân hàng lớn của
Mỹ đặt tại Việt Nam. Việc ngân hàng Mỹ đầu tƣ khiêm tốn nhƣ vậy cũng


3
Nguồn: Thống kê của Bộ tài chính Mỹ tại website: www.treas.gov
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

7
không phải là điều đáng ngạc nhiên khi thị trƣờng Việt Nam sự tham gia hoạt
động và kinh doanh của các ngân hàng nƣớc ngoài còn chƣa nổi bật và mới
chỉ ở dạng tiềm năng.
2. Lợi ích của việc phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
trong lĩnh vực ngân hàng
Lợi ích luôn là mục đích cuối cùng của bất kỳ một hoạt động nào,
chẳng hạn nhƣ đối với các nhà kinh doanh đầu tƣ vào bất kỳ ngành hay lĩnh
vực nào thì lợi ích đƣợc hiểu chung đó là lợi nhuận của họ đạt đƣợc trên mỗi
đơn vị doanh thu đƣợc thu về, lợi ích của các tổ chức phi chính phủ muốn đạt
đƣợc đó là thành công của mục tiêu, tuyên ngôn hoạt động riêng của mình.
Trong hợp tác phát triển giữa hai quốc gia trong một lĩnh vực thì lợi ích thể
hiện qua những gì mà mỗi quốc gia thu đƣợc mà không làm phƣơng hại đến
lợi ích khác của nhau, dựa trên nguyên tắc bình đẳng.
2.1. Đối với Việt Nam:
Hợp tác trên lĩnh vực ngân hàng giúp Việt Nam:
- Thu hút nhiều nhà đầu tƣ của Mỹ vào Việt Nam để hoạt động và
kinh doanh.
Ngân hàng Mỹ sẽ làm cầu nối cho các nhà đầu tƣ Mỹ vào thị trƣờng và

các doanh nghiệp Việt Nam. Đây rõ ràng sẽ là lợi ích nổi bật của cả hai phía.
Hiện nay, có ba chi nhánh ngân hàng và bốn văn phòng đại diện của Mỹ tại
Việt Nam. Các chi nhánh và văn phòng đại diện này đều đóng vai trò cầu nối
tích cực cho các nhà đầu tƣ kinh doanh của Mỹ. Nó đã góp phần hỗ trợ khách
hàng của ngân hàng mẹ trong việc nghiên cứu thị trƣờng nhằm cải thiện đầu
tƣ và thiết lập các mối quan hệ với các chủ thể của nền kinh tế Việt Nam.
Những thông tin hữu ích trao đổi giữa các bên cũng làm cho các ngân hàng
mẹ (ngân hàng Mỹ) hiểu rõ hơn tình hình kinh tế của Việt Nam, trở thành cơ
sở đánh giá tích cực và chính xác hơn. Chính điều này có thể giúp cho các
nhà đầu tƣ Hoa Kỳ tìm đến Việt Nam nhiều hơn khi đã có một hệ thống ngân
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

8
hàng Mỹ đáng tin cậy và phát triển tại thị trƣờng Việt Nam. Nhƣ vậy, lợi ích
đối với Việt Nam là sẽ gia tăng sự đầu tƣ của các doanh nghiệp cũng nhƣ các
ngân hàng thƣơng mại Mỹ nói riêng vào Việt Nam.
- Đầu tƣ của Mỹ vào lĩnh vực ngân hàng sẽ là kênh dẫn truyền vào
Việt Nam những công nghệ hiện đại, những thông lệ tốt nhất, và là nguồn tài
chính bổ sung cho thị trƣờng tiềm năng Việt Nam.
Với lợi thế về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của mình, các
ngân hàng Mỹ sẽ là ngƣời tiên phong trong việc áp dụng và phát triển những
công nghệ hiện đại, các dịch vụ ngân hàng mới tại thị trƣờng Việt Nam. Điển
hình là chi nhánh ngân hàng Mỹ Citibank trở thành ngân hàng đầu tiên áp
dụng dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking) tại Việt Nam. Đây là dịch vụ
ngân hàng thực hiện hoàn toàn thông qua mạng Internet, nó giúp cho khách
hàng tiết kiệm đƣợc thời gian, không cần phải đến ngân hàng mà vẫn giám sát
đƣợc các giao dịch phát sinh trên tài khoản, thực hiện giao dịch, cập nhật
thông tin tài chính ngân hàng thông qua mạng internet, điện thoại cố định hay
di động. Những dịch vụ này đòi hỏi sự phát triển cao của công nghệ thông tin,
đầu tƣ lớn. Chính vì thế, các ngân hàng Việt Nam thƣờng khó đi tiên phong

trong những lĩnh vực dịch vụ này mà phải cần đến sự hỗ trợ của các ngân
hàng nƣớc ngoài. Trong đó, ngân hàng Mỹ lại nổi tiếng trên toàn thế giới về
lĩnh vực phát minh và ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực.
- Sự tham gia hợp tác của các ngân hàng Mỹ vào thị trƣờng Việt
Nam còn là động lực thúc đẩy các ngân hàng Việt Nam đổi mới hoạt động tốt
hơn và nâng cao sức cạnh tranh của mình
Hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của một vấn đề, nó tồn tại song song
với nhau nhƣ một tất yếu. Tuy nhiên cạnh tranh không phải luôn là tiêu cực
bởi vì cạnh tranh sẽ khiến cho các ngân hàng Việt Nam phải hoạt động tốt
hơn. Nhƣ vậy, khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung cũng sẽ đƣợc
hƣởng lợi. Sự tham gia của ngân hàng Mỹ sẽ tăng lên cùng với tự do hoá dịch
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

9
vụ ngân hàng ở Việt Nam thông qua việc nắm giữ cổ phần của ngân hàng nội
địa hoặc tăng vốn của chi nhánh Mỹ, mà thực chất sẽ bơm thêm vốn vào nền
kinh tế và gây áp lực cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam. Ký kết Hiệp
định Thƣơng mại Việt Mỹ và tham gia vào Tổ chức Thƣơng mại Thế giới,
Việt Nam đã tạo nên những tín hiệu rất tích cực đối với các ngân hàng trong
nƣớc. Từ năm 2003 đến nay, các ngân hàng trong nƣớc, đặc biệt là các ngân
hàng thƣơng mại cổ phần mạnh đã tỏ ra khá quyết liệt trong việc phát triển
mạng lƣới tiếp thị và giới thiệu các dịch vụ ngân hàng của mình. Nhờ đó
khách hàng trong nƣớc có cơ hội đƣợc chọn lựa nhiều sản phẩm và dịch vụ
cao hơn. Đây là kết quả đổi mới đáng khích lệ và sẽ còn tiếp tục trong tƣơng
lai khi sự hợp tác ngày càng cao.
Ngoài ra hợp tác với các ngân hàng Mỹ còn giúp cho các ngân hàng
thƣơng mại Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của mình trong quá trình hội
nhập bằng cách nâng cao năng lực tài chính của mình. Hiện nay ngành ngân
hàng Việt Nam đang nổi lên ba xu hƣớng hợp tác chính với các ngân hàng
nƣớc ngoài, đó là: cho các ngân hàng nƣớc ngoài mua cổ phần của mình để

cùng quản lý kinh doanh, tăng cƣờng hợp tác dịch vụ ngân hàng với ngân
hàng nƣớc ngoài và thứ ba là thành lập các liên doanh ngân hàng tài chính.
Chính vì vậy, tiến tới trong tƣơng lai, khi các ngân hàng Mỹ vào Việt Nam,
ngoài hình thức đóng góp cổ phần trong các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam,
thành lập chi nhánh hay công ty 100% vốn nƣớc ngoài thì có thể còn có diễn
ra sự mua lại và sát nhập tạo ra quy mô ngân hàng trong nƣớc lớn hơn và
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng cũng tăng lên. Khi các hạn chế về sở
hữu của nƣớc ngoài trong các ngân hàng đƣợc xóa bỏ nhƣ trong cam kết Hiệp
định Thƣơng mại Việt Mỹ, các ngân hàng Mỹ nổi tiếng (thực tế các ngân
hàng nổi tiếng của Mỹ trên toàn thế giới nhƣ Citibank, JP Morgan Chase
Bank, Wachovia, Bank of America,… thƣờng hƣớng đầu tƣ ra nƣớc ngoài ở
những thị trƣờng mới nổi) có thể mua cổ phần của các ngân hàng Việt Nam
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

10
lớn hơn và trở thành cổ đông chiến lƣợc. Điều này giúp cho các ngân hàng
Việt Nam nâng cao tiềm lực tài chính vốn xuất phát điểm thấp và cạnh tranh
hơn. Việc mua cổ phần hoá cũng là cách nhanh nhất, hiệu quả nhất để học hỏi
và bổ sung lẫn nhau.
2.2. Đối với Mỹ
Hoa Kỳ là nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển nhất trên thế giới
trong khi Việt Nam chỉ đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trƣờng. Điều đó khiến chúng ta dễ hiểu về sự khác biệt và bất đồng trong hệ
thống chính sách thƣơng mại, đầu tƣ, hợp tác của hai bên. Tuy nhiên cả Hoa
Kỳ và Việt Nam có chung mục tiêu với nền tảng cơ bản là thúc đẩy kinh tế
thƣơng mại làm chính, tạo mọi cơ hội tham gia vào thị trƣờng của nhau trên
cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Đều cùng là những nền kinh tế thị trƣờng nhƣng
ở trình độ phát triển khác nhau nên Việt Nam và Hoa Kỳ có thể bổ sung cho
nhau mà không làm phƣơng hại đến lợi ích của nhau. Do vậy việc hợp tác
trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng cũng đã đem lại cho Mỹ những lợi ích cơ

bản sau:
- Đem lại cho các nhà đầu tƣ (bao gồm cả các ngân hàng) của Mỹ
cơ hội kinh doanh và mở rộng thị trƣờng của mình.
Hiện nay ở Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đang nổi lên
xu hƣớng hợp tác đó là các ngân hàng ngoại mua lại cổ phần của các ngân
hàng Việt Nam. Việc ngân hàng Mỹ mua cổ phần sẽ giúp cho Mỹ không tốn
kém chi phí mở chi nhánh mới, có sẵn mạng lƣới, cơ sở vật chất kỹ thuật,
nguồn nhân lực và số lƣợng khách hàng đông đảo tại các ngân hàng thƣơng
mại Việt Nam. Trên thực tế hiện nay, chi nhánh ngân hàng của Mỹ tại Việt
Nam là Citibank Mỹ đang đeo đuổi tìm kiếm cơ hội mua cổ phần để trở thành
cổ đông chiến lƣợc trong một số ngân hàng thƣơng mại của Việt Nam. Ngoài
ra các ngân hàng của Mỹ còn có lợi khi tăng cƣờng hợp tác dịch vụ ngân hàng
với các ngân hàng trong nƣớc. Citibank đã ký hợp đồng hợp tác với Ngân hàng
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

11
Thƣơng mại cổ phần Đông Á - EAB về phát triển dịch vụ ngân hàng, theo đó
Citibank hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của EAB về dịch vụ ngân
hàng bán lẻ, dịch vụ phục vụ kinh doanh doanh nghiệp và kết nối hệ thống
thanh toán thẻ của EAB với hệ thống thẻ của Citibank. Với sự hợp tác này,
Citibank có điều kiện mở rộng dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích tại Việt
Nam.
- Giúp Mỹ củng cố vị trí vai trò và ảnh hƣởng tài chính của mình
tại Châu Á
Châu Á đang nổi lên là khu vực kinh tế phát triển cao và năng động
nhất thế giới và Mỹ và EU cũng đang có chính sách bành trƣớng và cạnh
tranh nhau mạnh mẽ tại thị trƣờng Châu Á. Đặc biêt, các nƣớc Đông Nam Á
(ASEAN), bằng thực lực kinh tế của mình đang tích cực tạo ra sự độc lập và
ngày càng bình đẳng hơn đối với Mỹ. Nhờ vào sự phát triển nhanh trong một
thời gian dài ổn định, ASEAN đang nổi lên là một khu vực quan trọng đối

với Mỹ và Liên Minh Châu Âu. Trong khi đó, Việt Nam đã gia nhập khối
ASEAN, nay lại gia nhập WTO, Việt Nam đã đƣợc Mỹ đƣa vào danh sách
các nƣớc có thị trƣờng lớn mới nổi và tìm mọi cách cải thiện quan hệ hợp tác
với Việt Nam trong thƣơng mại và đầu tƣ, nhằm củng cố và hoàn thiện thêm
vai trò và thực lực của mình ở thị trƣờng này.
Lợi nhuận mà các nhà đầu tƣ Mỹ sẽ có đƣợc ở Việt Nam sẽ không chỉ
là những thị phần trong “miếng bánh ngân hàng” ở Việt Nam nà còn là mở
rộng thị trƣờng ảnh hƣởng của mình. Bởi vì trong thời kỳ tự do hoá tài chính
nhƣ hiện nay thì thị phần đó của Mỹ sẽ bị chia sẻ bởi các ngân hàng ngoại
khác nhƣ HSBC của Anh, AZN của Úc, Standard Chartered Bank của
Anh,… cũng đang nỗ lực khai thác tiềm năng này ở Việt Nam. Trƣớc năm
2005, trong tất cả báo cáo thống kê chính thức của Mỹ cũng nhƣ Việt Nam
về lĩnh vực tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng mà em đã nghiên cứu,
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

12
chất và số lƣợng đầu tƣ của Mỹ chiếm một tỉ lệ ít ỏi, thậm chí Việt Nam
không nằm trong các bản báo cáo của Mỹ về tài chính.


Biểu đồ 1: Đầu tƣ tài chính của Mỹ theo khu vực từ năm 1994-2004
Đơn vị: %
0
10
20
30
40
50
60
Châu Âu Châu Mỹ Châu Á Châu Phi Châu Úc

1994
2004

Nguồn: United State treasury International Capital system của Bộ Tài chính
Mỹ
Bảng số liệu trên cho thấy Hoa Kỳ cũng đã đầu tƣ vào Châu Á nhiều
(sau Châu Âu) và lớn hơn nhiều lần so với Châu Phi và Châu Úc. Điều đó
chứng tỏ Hoa Kỳ đã và luôn luôn quan tâm đến thị trƣờng Châu Á này. Thế
nhƣng điều mà em đề cập sâu hơn ở đây là trong phần chú giải cho các quốc
gia Châu Á thì Hoa Kỳ liệt kê chủ yếu là các quốc gia đang phát triển mạnh
mẽ bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônexia, Hàn Quốc, Malaixia, Phillipin,
Đài Loan, Thái Lan. Chứng tỏ rằng trong quá trình hợp tác hơn 10 năm qua
Việt Nam vẫn chƣa thực sự thu hút Mỹ, ngay cả khi Hiệp định Thƣơng mại
Việt Mỹ có hiệu lực năm 2001. Tuy nhiên, tình hình đến nay đã khác hẳn khi
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

13
Việt Nam gia nhập WTO và có những bƣớc chuyển tích cực trong ngành tài
chính ngân hàng thì Mỹ đã nhận thấy đƣợc tiềm năng của Việt Nam sớm cũng
sẽ trở thành nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trong khu vực này. Chính điều đó
đã thúc đẩy Mỹ tăng đầu tƣ vào lĩnh vực này của Việt Nam.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM VÀ
MỸ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1. Chính sách thƣơng mại đầu tƣ của Việt Nam và Hoa Kỳ và cơ sở pháp
lý ảnh hƣởng đến quan hệ hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng
1.1. Chính sách thương mại và đầu tư của Việt Nam
Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thƣơng mại
đang là vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo
ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia và khu
vực. Bối cảnh đó cũng đã tạo ra sức ép buộc ta phải tiến hành tự do hoá, mở

cửa để hội nhập nhanh hơn. Nếu không cố gắng đi cùng nhịp với các nƣớc
trong khu vực thì Việt Nam có nguy cơ bị tụt hậu và thua thiệt. Đứng trƣớc
bối cảnh đó, quan điểm đƣợc xác định tại Đại hội Đảng IX của ta rất đúng đắn
về hội nhập kinh tế quốc tế là “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc
tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc”. Đây là quan điểm chủ
đạo và quan điểm này chi phối mọi chính sách kinh tế, chính trị và xã hội
nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá theo hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trƣờng, tranh thủ
thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý trên mọi lĩnh vực kinh tế và ƣu tiên
những lĩnh vực quan trọng nhƣng chƣa đƣợc đầu tƣ đúng mức nhƣ lĩnh vực
dịch vụ để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đề ra về phát triển đất nƣớc.
Trong những năm vừa qua, để đáp ứng đƣợc yêu cầu về hội nhập, nƣớc
ta đã ban hành những chính sách tự do hoá thƣơng mại và đầu tƣ phù hợp với
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

14
bảo hộ và thúc đẩy sản xuất hay cung cấp hàng hoá và dịch vụ trong nƣớc.
Những chính sách này phản ánh định hƣớng của nền kinh tế – mở cửa hay
đóng cửa, hay mức độ tự do hóa của nền kinh tế. Hai thái cực của chính của
chính sách thƣơng mại thƣờng đƣợc tranh cãi là: Chính sách thƣơng mại tự do
và chính sách thƣơng mại bảo hộ. Do đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng chủ nghĩa xã hội nên nƣớc ta đang theo
đuổi chính sách tự do thƣơng mại phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế, bên
cạnh đó vẫn phải bảo hộ nền sản xuất, cung ứng dịch vụ còn non kém trong
nƣớc. Xét một các tổng quát thì các chính sách này có tác động và ảnh hƣởng
lớn đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế đặc biệt là ngành tài chính ngân hàng và
hoạt động của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nó góp
phần thực hiện một cách có hiệu quả quá trình sản xuất và cung ứng hàng hoá

của công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên ở từng lĩnh vực khác nhau
và ở từng thời kỳ phát triển khác nhau thì tác động của các chính sách đó là
không giống nhau.
Các chính sách thƣơng mại và đầu tƣ tác động đến sự phát triển thƣơng
mại dịch vụ ngày càng tăng trong những năm gần đây. Cùng với việc chuyển
đổi nền kinh tế, các loại hình dịch vụ ngày càng trở nên đa dạng hơn, phong
phú hơn, xuất hiện các dịch vụ trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, tƣ vấn, đào
tạo… Chính những loại hình mới này là những nhân tố tác động tích cực thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng thích nghi đối với những điều kiện
mới của nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ dần dần hoà nhập vào xu thế toàn
cầu hoá của nền kinh tế thế giới. Song cũng do mới chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trƣờng, cộng với năng lực cạnh tranh còn yếu và tình trạng độc quyền
nên số lƣợng các ngành dịch vụ còn ít, nhiều ngành còn rất mới mẻ, chỉ mới ở
giai đoạn phát triển ban đầu. Các hoạt động dịch vụ chủ yếu tập trung ở ba
nhóm: thƣơng nghiệp 15, 42%, ăn uống, khách sạn nhà hàng 3,5%, kinh
doanh tài sản, tƣ vấn 4,82% (trong cơ cấu GDP trung bình từ năm 1995 –
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

15
2002). Các lĩnh vực quan trọng khác nhƣ tài chính tín dụng thì chỉ chiếm
1,71%, khoa học công nghệ 0,56%
4
, còn rất yếu, chƣa xứng tầm vóc của
chúng trong phát triển kinh tế.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế mà nƣớc ta đã xác định thì không chỉ
dừng lại hội nhập trong lĩnh vực thƣơng mại hay đầu tƣ hàng hoá hữu hình
mà còn cả lĩnh vực thƣơng mại dịch vụ, trong đó nổi lên là hội nhập quốc tế
về dịch vụ tài chính ngân hàng. Ngành tài chính phải đƣợc tự do hoá để hội
nhập vào thị trƣờng tài chính quốc tế. Bản chất của nó là một quá trình mà các
nƣớc, các khu vực thực hiện mở cửa cho sự tham gia của các yếu tố bên ngoài

vào lĩnh vực tài chính, bao gồm: vốn (đầu tƣ trực tiếp và gián tiếp), công
nghệ, tín dụng và lao động có trình độ chuyên môn cao. Do đó hội nhập quốc
tế về dịch vụ tài chính ngân hàng yêu cầu phải thống nhất các thể chế, quy
định, chính sách, chuẩn mực và cả luật pháp về tài chính ngân hàng. Quá trình
này giúp gắn kết thị trƣờng tài chính Việt Nam với thị trƣờng tài chính quốc
tế trong đó Mỹ là một quốc gia lớn mạnh chi phối toàn bộ thị trƣờng đó, và
đƣa hội nhập của Việt Nam lên một bƣớc phát triển cao hơn nữa.
Đứng trƣớc bối cảnh đó, khi thực hiện rà soát các chính sách thƣơng
mại và đầu tƣ của Việt Nam liên tác động đến lĩnh vực ngân hàng và quá trình
thu hút đầu tƣ hợp tác với các ngân hàng nƣớc ngoài nói chung và Mỹ nói
riêng đã cho thấy Việt Nam đã và đang thực hiện chính sách thƣơng mại (bao
gồm hàng hoá và dịch vụ) theo hƣớng mở cửa và đa dạng hoá thị trƣờng, thúc
đẩy xuất khẩu thông qua chiến lƣợc phát triển hƣớng về xuất khẩu. Việt Nam
đã thực hiện thƣơng mại trên các nguyên tắc cơ bản là:
- Không phân biệt đối xử giữa các nƣớc bạn hàng
- Đối xử nhƣ nhau giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa trong nƣớc
- Thực hiện chính sách cởi mở và tự do, bảo hộ bằng thuế quan ở mức
thấp và chỉ áp dụng hạn chế số lƣợng trong một số trƣờng hợp đặc biệt


4
Nguồn : Các ngành dịch vụ Việt Nam - năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế – (2006), trang133
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

16
- Cam kết thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi
thuế quan
- Chính sách và luật pháp phải công khai rõ ràng
Chính sách và pháp luật liên quan đến đầu tƣ cũng đang từng bƣớc
hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu hội nhập, tạo những điều kiện thuận lợi để

thực hiện phát triển hợp tác giữa các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài với Việt Nam
trong các lĩnh vực (bao gồm cả phát triển hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực ngân
hàng). Việt Nam đã ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tƣ chung đem
lại một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tƣ bất luận trong nƣớc hay nƣớc
ngoài. Ngoài ra chính sách đầu tƣ sẽ hƣớng đến việc đa dạng hoá đầu tƣ để
khai thác thêm các kênh đầu tƣ mới nhƣ cho phép thành lập công ty hợp danh,
đầu tƣ nƣớc ngoài theo hính thức sáp nhập và mua lại M&A… Ngoài ra cho
đến nay, Việt Nam đã ký kết các hiệp định song phƣơng về khuyến khích và
bảo hộ đầu tƣ với 50 nƣớc và vùng lãnh thổ trên thế giới trong đó có cả Mỹ.
Chính sách và pháp luật về thuế giai đoạn 2006 - 2010 sẽ thực hiện sửa
đổi đáp ứng quá trình hội nhập và mở cửa thị trƣờng theo hƣớng giảm mức
điều tiết nhƣng mở rộng đối tƣợng chịu thuế. Điều đó sẽ đảm bảo chính sách
nhất quán mở cửa thị trƣờng thông qua đồng bộ và cơ cấu hợp lý, khuyến
khích đầu tƣ, xuất khẩu, đổi mới công nghệ tiến tới dần các thông lệ quốc tế.
Thông qua những nét tiêu biểu trong chính sách thƣơng mại, đầu tƣ của Việt
Nam có thể cho chúng ta thấy đƣợc môi trƣờng kinh doanh mà Việt Nam đã
và đang chuẩn bị cho quá trình hội nhập (bao gồm cả hội nhập dịch vụ tài
chính ngân hàng) ngày càng thông thoáng, tạo điều kiện tốt hơn cho phát triển
mối quan hệ hợp tác này.
1.2. Chính sách thương mại đầu tư của Mỹ
Với chiến lƣợc phát triển kinh tế thƣơng mại song phƣơng, Chính phủ
hai nƣớc đã cùng hƣớng tới mối quan hệ đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

17
các loại mặt hàng hoá, dịch vụ bổ sung lẫn nhau. Hoa Kỳ đang hƣớng tới Việt
Nam nhƣ một thị trƣờng đông dân, đầy tiềm năng trong việc tiêu thụ các mặt
hàng công nghiệp, dịch vụ hiện đại. Còn Việt Nam hƣớng tới Hoa Kỳ nhƣ
một thị trƣờng có nền công nghệ hiện đại và nguồn vốn dồi dào vào bậc nhất
thế giới. Hoa Kỳ là quốc gia đi tiên phong trong việc thực hiện và tuyên

truyền chính sách tự do hoá thƣơng mại và đầu tƣ, cũng vì thế Hoa Kỳ trở
thành một thị trƣờng lớn có sức hấp dẫn các nƣớc khác. Ngoài ra về kinh tế và
thƣơng mại Hoa Kỳ đã và đang có chính sách bành trƣớng sang khu vực Châu
Á - Thái Bình Dƣơng khi mà EU đã lớn mạnh cạnh tranh đƣợc với Mỹ.
Thu hút đầu tƣ vào Mỹ và đầu tƣ của Mỹ ra nƣớc ngoài là một bộ phận
quan trọng của chính sách kinh tế và chiến lƣợc toàn cầu của Mỹ nhằm duy trì
các nƣớc trong mối quan hệ hợp tác và phụ thuộc làm cho cơ cấu ngành kinh
tế của các nƣớc phù hợp với những biến đối căn bản của Mỹ, phục vụ lợi ích
của Mỹ. Khi đầu tƣ ra nƣớc ngoài Mỹ luôn muốn chủ động nắm quyền kiểm
soát nguồn nguyên liệu, năng lƣợng, chi phối các ngành kinh tế quan trọng
nhƣ hoạt động tài chính ngân hàng… Chính sách đầu tƣ của Mỹ vào các nƣớc
là vƣơn tới cấp độ vi mô, chuyển vốn đầu tƣ trực tiếp vào không thông qua cơ
quan nhà nƣớc. Bên cạnh mục đích kiếm lời, đầu tƣ Mỹ ra nƣớc ngoài còn
nhằm biến những nơi có đầu tƣ của Mỹ thành những tụ điểm của lợi ích kinh
tế, thống trị của Mỹ. Hoa Kỳ chủ yếu đầu tƣ vào các nƣớc đang phát triển ở
Châu Á (gồm 8 nƣớc và lãnh thổ thuộc NIEs và ASEAN) đã chiếm tới 93-
94% vào giai đoạn 1995-2003. Nƣớc ta là một nƣớc đang phát triển và cũng
là điểm đến trong thời gian tới của Mỹ vì những lợi ích cụ thể đƣợc phân tích
ở phần lợi ích trên.
Giữa một nền kinh tế đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng nhƣ
Việt Nam với một nền kinh tế thị trƣờng phát triển vào loại bậc nhất thế giới
nhƣ Hoa Kỳ thì chắc chắn tồn tại rất nhiều điểm khác biệt trong chính sách,
quan điểm vì thế nó ảnh hƣởng không nhỏ đến việc phát triển quan hệ hợp tác
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

18
nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên việc tiến tới ký
kết Hiệp đinh thƣơng mại Việt Mỹ dƣờng nhƣ giúp thu hẹp khoảng cách khác
biệt trong mối quan hệ hợp tác trong đó hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng
đƣợc quy định cụ thể trong chƣơng ba (Thƣơng mại dịch vụ) và phụ luc G

(xem phụ lục) về lộ trình hợp tác ngân hàng này.


1.3. Cơ sở pháp lý cho việc phát triển quan hệ Việt Mỹ trong lĩnh vực ngân
hàng
1.3.1. Những nghĩa vụ và cam kết quốc tế về tự do hoá dịch vụ ngân hàng
theo hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
1.3.1.1. Những nội dung cam kết
Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hoa Kỳ (hay còn gọi là
BTA) bắt đầu có hiệu lực từ ngày 11/12/2001. Nội dung chính của BTA bao
gồm các quy định và nguyên tắc giám sát hoạt động thƣơng mại giữa hai quốc
gia. So với các Hiệp định Thƣơng mại mà Việt Nam đã ký kết với các nƣớc
khác thì Hiệp định Thƣơng mại Việt Mỹ là văn kiện mang tính tổng thế nhất,
bao gồm bốn vấn đề chủ yếu là thƣơng mại hàng hoá, thƣơng mại dịch vụ, sở
hữu trí tuệ, quan hệ đầu tƣ, đồng thời thời gian đàm phán là dài nhất. Sỡ dĩ
nhƣ vậy là do hai nƣớc có sự khác biệt lớn về trình độ và quy mô phát triển.
Hơn nữa Hiệp định này đƣợc đàm phán trên cơ sở các nguyên tắc của WTO
mà Việt Nam là thành viên mới gia nhập. Việt Nam đang là nƣớc phát triển ở
trình độ thấp do hậu quả nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế đang trong quá
trình chuyển đổi và mới bắt đầu tham gia đàm phán để gia nhập WTO nên cần
có thời gian tìm hiểu các định chế của tổ chức này. Hoa Kỳ cũng cần có thời
gian để tìm hiểu điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam. Hiệp định thƣơng mại
này đã nâng cao quan hệ thƣơng mại Việt Nam và Hoa Kỳ lên một tầm cao
mới. Sau một thời gian tăng trƣởng nhảy vọt, thông thƣơng giữa hai nƣớc,
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

19
nhất là xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ bắt đầu chững lại từ giữa năm
2003 để đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững hơn. Tốc độ tăng trƣởng chậm lại
vừa là khách quan vừa là sự điều chỉnh phù hợp với thị trƣờng Mỹ vì quốc gia

này có rất nhiều nhà phân phối khổng lồ, nếu nhƣ mặt hàng nhập khẩu nào có
sự tăng trƣởng quá nhanh sẽ gặp sức cản từ họ. Đối với Việt Nam, trƣờng hợp
cá Basa là một ví dụ. Sau 6 năm phát triển, BTA đang tiếp tục chứng minh vai
trò chủ lực trong công việc thúc đẩy quan hệ thƣơng mại giữa hai quốc gia
bƣớc lên chiều sâu.
Những nội dung cơ bản của Hiệp định Thƣơng mại Việt Mỹ bao gồm bảy
chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Thƣơng mại hàng hoá
Chƣơng 2: Quyền sở hữu trí tuệ
Chƣơng 3: Thƣơng mại dịch vụ
Chƣơng 4: Phát triển quan hệ đầu tƣ
Chƣơng 5: Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh
Chƣơng 6: Các quy định liên quan đến tính minh bạch, công khai và
quyền khiếu kiện
Chƣơng 7: Những điều khoản chung
Trong đó, Chƣơng 3 của Hiệp định phác thảo những nguyên tắc và quy
tắc áp dụng cho lĩnh vực thƣơng mại dịch vụ và các phụ lục của BTA liệt kê
những cam kết về tự do hoá thƣơng mại (đối với hàng hoá và dịch vụ), trong đó
phụ lục G có trình bày lộ trình của Việt Nam thực hiện các cam kết cụ thể về
dịch vụ. Trong số 8 ngành dịch vụ đƣợc đề cập trong danh sách, các dịch vụ tài
chính, cụ thể hơn là “các dịch vụ tài chính và ngân hàng”, đƣợc quy định cụ
thể (gồm có các điều kiện, hạn chế và thời gian thực hiện) về việc mở cửa thị
trƣờng theo 4 hình thức cung cấp dịch vụ (gồm cung cấp xuyên biên giới, tiêu
thụ tại nƣớc ngoài, hiện diện thƣơng mại hay hiện diện thể nhân). Hiệp định
quy định 15 lĩnh vực dich vụ cụ thể trong đó dịch vụ tài chính bao gồm:
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

20
Dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan

Dịch vụ liên quan đến chứng khoán
Và trong phụ lục G cho phép các chính phủ đƣợc thực hiện những biện
pháp đặc biệt bảo vệ nhà đầu tƣ, ngƣời gửi tiền và để đảm bảo sự hoà nhập ổn
định của hệ thống tài chính và không áp dụng đối với những dịch vụ đƣợc
chính phủ cung cấp vì mục đích quản lý hệ thống tài chính, chẳng hạn nhƣ
hoạt động của ngân hàng trung ƣơng.
Thực tế hiện nay cho thấy những cam kết và quyết tâm của Chính Phủ
Việt Nam trong việc theo đuổi tiến trình tự do hoá trong lĩnh vực dịch vụ
ngân hàng và tài chính. Cụ thể hơn, trong Hiệp định BTA, Chính phủ Việt
Nam đã thoả thuận việc tuân theo những nguyên tắc và quy định áp dụng
chung đã đƣợc đề cập trong chƣơng 3, đồng thời thực hiện các cam kết về tiếp
cận thị trƣờng và đối xử quốc gia, nghĩa là các ngân hàng và tổ chức tín dụng
của Mỹ sẽ đƣợc hƣởng những cơ hội thị trƣờng tốt hơn trong ngành tài chính
Việt Nam. Những điểm đáng lƣu ý trong các quy định và cam kết này đƣợc
trình bày dƣới đây:
Đối xử tối huệ quốc: Theo nguyên tắc này thực chất đƣợc quy định
theo hệ thống thƣơng mại đa phƣơng WTO, Việt Nam sẽ, một cách vô điều
kiện, dành cho hàng hoá và dịch vụ từ Mỹ những đối xử không kém ƣu đãi
hàng hoá dịch vụ xuất xứ từ bất cứ quốc gia nào. Chỉ xảy ra ngoại lệ trong
trƣờng hợp Việt Nam quyết định dành ƣu đãi cho các quốc gia láng giềng
nhằm đáp ứng sự trao đổi trong phạm vi các khu vực dịch vụ cận biên, nơi mà
sản xuất và tiêu dùng diễn ra tại chỗ và những ƣu đãi mà Việt Nam dành cho
các thành viên theo nhƣ Hiệp định tự do hoá thƣơng mại dịch vụ mà Việt
Nam đã ký kết hay tham gia .
Đối xử quốc gia và tiếp cận thị trường: Đây không phải là những
nguyên tắc áp dụng chung. Giống nhƣ trong hiệp định GATS, hiệp định
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

21
khung BTA về dịch vụ phác thảo những nghĩa vụ “có điều kiện” thứ hai chỉ

dành cho các ngành đã cam kết. Trong đó, thành viên đều ra những hạn chế
cụ thể về việc họ muốn duy trì nguyên tắc tiếp cận thị trƣờng cũng nhƣ những
điều kiện mà theo đó họ sẵn sàng cho phép hƣởng chế độ đối xử quốc gia
trong khi thực hiện những cam kết tiếp cận thị trƣờng theo BTA, Việt Nam
cũng cam kết sẽ đối xử cũng không kém ƣu đãi hơn những điều khoản, hạn
chế và quy định đã thoả thuận và chi tiết trong lộ trình cho những dịch vụ và
các nhà cung cấp dịch vụ từ Mỹ. Những điều kiện và hạn chế trên có thể phân
biệt (ví dụ nhƣ áp dụng cho đối tƣợng nƣớc ngoài) hay không phân biệt (ví dụ
áp dụng cho đối tƣợng trong nƣớc nhƣng có ảnh hƣởng bởi mức quy định
“trần” đối với dịch vụ). Sáu biện pháp hạn chế này là:
- Hạn chế về số lƣợng nhà cung cấp dịch vụ
- Hạn chế về tổng giá trị giao dịch
- Hạn chế về tổng số các giao dịch hoặc tổng số lƣợng đầu ra của dịch
vụ
- Hạn chế về tổng số thể nhân đƣợc thuê
- Hạn chế về sự tham gia góp vốn nƣớc ngoài
- Hạn chế hay đòi hỏi phải tuân theo hình thức thực thể pháp lý nhất
định để cung cấp dịch vụ.
Một số cam kết cụ thể trong BTA của Chính Phủ Việt Nam đối với tổ
chức ngân hàng của Hoa Kỳ đƣợc trình bày chi tiết trong phụ lục hai. Dƣới
đây là phần tóm tắt:
Các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng Hoa Kỳ đƣợc phép cung cấp dịch
vụ tại việt Nam thông qua các hình thức pháp lý:
- Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ
- Ngân hàng liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ
- Ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

22
Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý

duy nhất thông qua đó các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ khác (ngoài
ngân hàng và công ty thuê-mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài
chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn
chế này sẽ đƣợc bãi bỏ.
Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ đƣợc
phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam (từ tháng 12
năm 2010 các ngân hàng 100% vốn của Mỹ đƣợc phép hoạt động ở Việt
Nam). Tuy nhiên hiện nay theo cam kết trong WTO thì thời hạn này đã đƣợc
rút ngắn, cụ thể là vào 1/4/2007 thì các ngân hàng Mỹ có thể thành lập ngân
hàng 100% vốn của mình.
Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng của Mỹ đƣợc nắm vốn sở hữu
trong các ngân hàng Việt Nam đƣợc cổ phần hoá, tƣơng đƣơng với mức cho
phép đối với các nhà đầu tƣ Việt Nam. Theo thời gian, từng bƣớc cho phép
các liên doanh tăng dần mức nắm giữ vốn từ 30% lên đến 49%, thực hiện
trƣớc năm 2010.
Từ tháng 12 năm 2004, các chi nhánh ngân hàng của Mỹ đƣợc phép:
- Nhận đảm bảo cho khoản vay bằng giá trị quyền sử dụng đất do các
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nắm giữ
- Tiếp nhận và sử dụng giá trị quyền sử dụng đất đảm bảo cho khoản
vay trong trƣờng hợp không thanh toán nợ
- Đƣợc tiếp cận các dịch vụ tái chiết khấu hoán đổi và hợp đồng ký
hạn của Ngân hàng Nhà nƣớc
- Đƣợc hƣởng đầy đủ quyền nhƣ ngân hàng trong nƣớc
Xuất phát từ những cam kết trong khuôn khổ BTA, Việt Nam cũng
phải tuân thủ các điều kiện trong phụ lục của hiệp định chung về Thƣơng mại
Dịch vụ Tài Chính (GATS), và thực hiện các cam kết cụ thể sau:
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

23
- Thành lập một công ty con của một công ty cho thuê tài chính Mỹ hoặc

một công ty cho thuê tài chính liên doanh cần phải sau ba năm. Từ
tháng 1 năm 2003, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động ở Việt
Nam đã đƣợc phép đặt các chi nhánh và văn phòng đại diện ở bất kỳ
đâu tại vịêt Nam với điều kiện các công ty đó đã hoạt động trên 2 năm
trở lên và có tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn 5%
- Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng Mỹ đƣợc cung cấp các dịch vụ
nhƣ nhận tiền gửi bằng đồng nội tệ.
1.3.1.2. Tác động của Hiệp định thương mại Việt Mỹ đối với ngành ngân
hàng Việt Nam.
Cùng công cuộc cải cách kinh tế và mở cửa thị trƣờng thì hội nhập
kinh tế quốc tế đang ngày càng trở thành nhân tố ảnh hƣởng rất quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính VIệt Nam. Trong
đó, việc thực hiện Hiệp định Thƣơng mại Việt Mỹ là bƣớc khởi đầu và có
tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói
riêng. BTA đã giúp cho ngành ngân hàng Việt Nam nhận thức đƣợc đầy đủ
những lợi thế có thể phát huy và những khó khăn thách thức phải vƣợt qua để
hội nhập sâu hơn nữa vào kinh tế thế giới.
Trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết
trong hiệp định, bao gồm những quy định chung về lĩnh vực dịch vụ và các
cam kết cụ thể tại phụ lục G của Hiệp định (xin xem phần phụ lục). Theo đó
thì Việt Nam đã tạo môi truờng thuận lợi và thông thoáng cho các ngân hàng
Mỹ, từ điều kiện cấp phép đến mức độ và phạm vi hoạt động tại Việt Nam.
Về nguyên tắc, các cam kết trong Hiệp định sẽ tự động có hiệu lực thi
hành theo đúng lộ trình đã cam kết. Do nhận thức đƣợc vấn đề này, Ngân
hàng Nhà nƣớc Việt Nam (NHNN) đã kịp thời xây dựng và ban hành hoặc
trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để
thực hiện các cam kết trong lĩnh vực ngân hàng, cụ thể:
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng

24

 Luật các Tổ chức Tín dụng (TCTD) đã sửa đổi, bổ sung và có hiệu
lực từ ngày 01/10/2004 với những điều khoản mang tính định hƣớng cho việc
thực hiện các cam kết cụ thể theo Hiệp định
 Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 02/5/2001 về tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính và Nghị định số 65/NĐ-CP ngày 19/5/2005 quy
định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16. Theo đó, pháp
luật hiện hành của Việt Nam đã cho phép các TCTD nƣớc ngoài thành lập
công ty cho thuê tài chính 100% vốn nƣớc ngoài
 Công văn số 404/NHNN-CNH ngày 22/4/2003 của NHNN hƣớng
dẫn thực hiện Hiệp định đã nêu rõ lộ trình nới lỏng hạn chế về tỉ lệ nhận tiền
gửi từ các thể nhân, pháp nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng theo
đúng quy định tại điểm VI.B. 3(e) và (f) cột hạn chế tiếp cận thị trƣờng - Phụ
lục G Việt Nam trong BTA
 Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 về việc ban
hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng và
Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004 về giao dịch hối đoái
của các TCTD đƣợc phép hoạt động ngoại hối, Việt Nam đã dành đối xử quốc
gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận NHTW trong các hoạt động tái chiết khấu,
Swap, Forward cho các ngân hàng nƣớc ngoài đang hoạt động tại Việt Nam
 Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 về ban hành quy
chế hoạt động bao thanh toán của các TCTD và Quyết định số 351/2004/QĐ-
NHNN ngày 7/4/2004 ban hành quy chế về nghiệp vụ môi giới tiền tệ đã
hƣớng dẫn cụ thể việc triển khai những dịch vụ này, đáp ứng các cam kết
trong Hiệp định
 Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006 về tổ chức hoạt động
của chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100%
vốn nƣớc ngoài, văn phòng đại diện TCTD nƣớc ngoài. Nghị định này là cơ

×