Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

VÀI NÉT VỀ WIPO VÀ QUAN HỆ HỢP TÁC WIPO – VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.73 KB, 10 trang )

Vài nét về WIPO và quan hệ hợp tác WIPO – Việt Nam
VÀI NÉT VỀ WIPO VÀ QUAN HỆ HỢP TÁC
WIPO – VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TỔ CHỨC SỞ HỮU TRÍ TUỆ THẾ GIỚI (WIPO)
1. Quá trình thành lập
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, có tên tiếng Anh là World Intellectual Property
Organization, tên viết tắt WIPO, là một trong số các tổ chức chuyên môn của hệ thống
các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc (UN), ra đời kể từ khi Công ước thành
lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới được ký kết ngày 14/7/1967, tại Stockholm-Thuỵ
Điển, có hiệu lực năm 1970. Tuy nhiên, nguồn gốc của WIPO bắt đầu từ năm 1883 và
1886 khi thông qua công ước Paris và Công ước Berne. Cả hai công ước này đều quy
định việc thành lập hai Văn phòng quốc tế và được đặt dưới sự giám sát của Chính
phủ Liên bang Thuỵ Sỹ, đến năm 1893 hai Văn phòng được hợp nhất, cho đến trước
khi trở thành WIPO, Văn phòng có tên gọi là BIRPI.
2. Thành viên của WIPO
Công ước thành lập WIPO tuyên bố quyền tham gia sẽ được dành cho mọi quốc
gia là thành viên LHQ - tức là chỉ có quốc gia mới có thể trở thành thành viên WIPO.
Quốc gia muốn gia nhập gửi Đơn xin gia nhập tới TGĐ WIPO tại Geneva. Riêng các
nước thành viên Công ước Paris và Công ước Bern chỉ có thể trở thành thành viên
WIPO nếu họ đã ký kết/phê chuẩn hoặc gia nhập ít nhất là các điều khoản hành chính
của Văn kiện Stockholm (1967) của Công ước Paris hoặc văn kiện Paris (1971) của
Công ước Bern. Hiện nay WIPO có 179 nước thành viên. Việt Nam cũng là thành
viên của WIPO.
3. Sứ mệnh và nhiệm vụ của WIPO
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) là một trong số 16 cơ quan chuyên môn
của Liên Hợp Quốc. Sứ mệnh của WIPO là thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc sáng
Trần Phương Thủy – SBD 53 – KTTG&QHKTQT 17B
1
Vài nét về WIPO và quan hệ hợp tác WIPO – Việt Nam
tạo, phổ biến, sử dụng và bảo vệ các sản phẩm của trí tuệ con người, nhằm thúc đẩy
kinh tế, văn hoá và xã hội của loài người. Hiệu quả của nó là góp phần cân đối giữa


khuyến khích sáng tạo trên toàn thế giới, một mặt bằng cách bảo hộ thích đáng các lợi
ích và tinh thần của người sáng tạo, và mặt khác đem lại cơ hội dự hưởng các lợi ích
văn hoá và kinh tế xã hội của các sáng tạo đó trên toàn thế giới.
Nhiệm vụ của WIPO là: làm hài hoà luật pháp và thủ tục các quốc gia về sở hữu trí
tuệ; cung cấp các dịch vụ đăng ký quốc tế đối với quyền sở hữu công nghiệp; trao đổi
thông tin về sở hữu trí tuệ; hỗ trợ kỹ thuật và pháp lý cho các nước đang phát triển và
các nước khác; hỗ trợ tranh chấp sở hữu trí tuệ của cá nhân; sử dụng công nghệ thông
tin như một công cụ lưu giữ, tiếp cận và sử dụng thông tin sở hữu trí tuệ quý giá.
4. Cơ cấu tổ chức
Đứng đầu WIPO là một Tổng Giám đốc (TGĐ). Giúp việc TGĐ là các Phó TGĐ
và Ban thư ký. Về cơ cấu, theo Công ước thành lập WIPO, tổ chức này gồm 4 cơ quan
chính là Đại hội đồng, Hội nghị, Ủy ban điều phối, Văn phòng Quốc tế (Ban thư ký).
Đại hội đồng (ĐHĐ) là cơ quan quyền lực cao nhất của WIPO. ĐHĐ bổ nhiệm TGĐ
trên cơ sở đề nghị của UB điều phối. ĐHĐ họp một lần/năm (thường vào cuối tháng 9
hàng năm) xem xét và thông qua các Báo cáo của UB điều phối, của TGĐ WIPO,
thông qua ngân sách tài chính của tổ chức, thông qua các biện pháp do TGĐ đề ra.
TGĐ đứng đầu Ban Thư ký, Ban này bao gồm các nhân viên được WIPO tuyển chọn
trên cơ sở chuyên môn có tính tới yếu tố hợp lý về địa lý. Trong thời gian họp Đại hội
đồng WIPO, theo thông lệ, sẽ diễn ra song song các cuộc họp thường kỳ của các nước
tham gia các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ do WIPO quản lý (thường gọi là cuộc
họp của Hiệp hội như Hiệp hội Paris, Hiệp hội Berne, Hiệp hội Madrid vv...)
5. Một số nét về sở hữu trí tuệ (SHTT)
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: Quyền sở hữu công nghiệp, Quyền tác giả và
Quyền đối với giống cây trồng. Hoạt động của WIPO rất phong phú, đa dạng. Ngoài
Trần Phương Thủy – SBD 53 – KTTG&QHKTQT 17B
2
Vài nét về WIPO và quan hệ hợp tác WIPO – Việt Nam
Công ước thành lập, WIPO còn quản lý 22 Điều ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ, trong
đó có 16 Điều ước về Sở hữu công nghiệp và 6 Điều ước về Quyền tác giả. Ví dụ:
Trên trường quốc tế, vị trí của WIPO đã có những thay đổi lớn so với khi mới thành

lập: ngoài việc duy trì chức năng quản lý các Điều ước/Hiệp định được ký kết giữa
các quốc gia, WIPO đẩy mạnh việc hợp tác liên chính phủ trong quản lý hoạt động sở
hữu trí tuệ, song song với việc mở rộng và đa dạng hóa các loại hình hoạt động. Một
ví dụ nổi bật là sự gia tăng các hoạt động đăng ký vào các Hiệp ước: Bằng Sáng chế
(PCT), Thỏa ước Mađrit và Nghị định thư về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa,
Hiệp ước La Hay về đăng ký quốc tế Kiểu dáng Công nghiệp v.v… WIPO cũng
không dừng ở việc thúc đẩy các đối tượng bảo hộ SHTT, mà đang ngày càng tham gia
vào việc giúp đỡ các nước đang phát triển trong việc soạn thảo xây dựng và thực thi
pháp luật, trong việc thiết lập cơ cấu hành chính và thiết chế phù hợp, và trong việc
giúp đào tạo nguồn nhân lực. giúp đào tạo nguồn nhân lực.
Ngày nay, WIPO thực hiện việc tiếp cận toàn cầu không chỉ đối với vấn để SHTT,
mà cả với vai trò SHTT trong khuôn khổ rộng lớn hơn với các vấn đề mới nổi như tri
thức truyền thông, văn hóa dân gian, đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường. Thông
qua mạng thông tin SHTT toàn cầu (WIPONET), WIPO góp phần nâng cao đáng kể
sự hiểu biết của nhân dân về sơ hữu trí tuệ, về nhu cầu cổ vũ và bảo hộ sở hữu trí tuệ.
6. Ngày sở hữu trí tuệ thế giới
Ngày sở hữu trí tuệ thế giới được ra đời trên cơ sở tuyên bố tại cuộc họp của Đại
Hội đồng Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tháng 9 năm 1998 về việc thiết lập
một sự kiện để tôn vinh sở hữu trí tuệ, ngày 7/4/1999, Giám đốc Cơ quan sở hữu công
nghiệp quốc gia Angeri đã có đề xuất lấy một ngày nào đó trong năm làm Ngày Sở
hữu trí tuệ thế giới nhằm thiết lập một khuôn khổ cho việc khuyến khích và nâng cao
nhận thức, mở ra không gian mới cho hoạt động đổi mới và công nhận những thành
quả của những người tạo ra tài sản trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới.
Trần Phương Thủy – SBD 53 – KTTG&QHKTQT 17B
3
Vài nét về WIPO và quan hệ hợp tác WIPO – Việt Nam
Ngày 9/8/1999, phái đoàn của Trung Quốc tại WIPO đã đề xuất thông qua “Ngày
Sở hữu trí tuệ thế giới” nhằm đẩy mạnh hơn nữa nhận thức về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, khuyếch trương vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thế
giới, khuyến khích các quốc gia công khai hóa và phổ cập pháp luật về bảo hộ quyền

sở hữu trí tuệ, tăng cường nâng cao nhận thức pháp lý chung về quyền sở hữu trí tuệ,
khuyến khích hoạt đông sáng tạo đổi mới ở các nước và tăng cường giao lưu quốc tế
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ”.
Tháng 10 năm 1999, Đại hội đồng WIPO đã thông qua tuyên bố lấy ngày 26 tháng
4 là ngày Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (công ước Stockholm
1967) bắt đầu có hiệu lực (26/4/1970) làm Ngày sở hữu trí tuệ thế giới.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ xác định mục tiêu của Ngày sở hữu trí tuệ thế giới là:
- Nâng cao nhận thức về ảnh hưởng của sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp v.v.tới cuộc sống thường nhật;
- Tăng cường hiểu biết về vai trò của việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ đối
với việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo và đổi mới;
- Tôn vinh hoạt động sáng tạo và những thành quả mà các nhà sáng chế đã
đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn cầu;
- Khuyến khích tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của người khác.

Trần Phương Thủy – SBD 53 – KTTG&QHKTQT 17B
4
Vài nét về WIPO và quan hệ hợp tác WIPO – Việt Nam
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – WIPO
1. Việt Nam tham gia các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ
Việt Nam tham gia WIPO ngày 02 tháng 6 năm 1976 khi phê chuẩn Công ước
thành lập WIPO. Trong các Điều ước quốc tế về SHTT do WIPO quản lý, đến nay
Việt Nam đã tham gia:
- Hiệp định hợp tác bằng sáng chế;
- Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp: Công ước này áp dụng cho sở
hữu công nghiệp theo nghĩa bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp,
mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và
chống cạnh tranh không lành mạnh;
- Thoả ước và Nghị định thư Madrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá.
Trong quá trình hội nhập và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt

Nam đang xem xét tham gia các Điều ước quốc tế sau về SHTT:
- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS);
- Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật;
- Công ước Geneva về bảo hộ người ghi âm, chống sao chép trái phép bản ghi
âm;
- Công ước Brusels về phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh;
- Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức
phát sóng;
Trần Phương Thủy – SBD 53 – KTTG&QHKTQT 17B
5

×