TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
o0o
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
KINH DOANH CÁC DỊCH VỤ LIÊN QUAN ĐẾN RÁC THẢI
MÔ HÌNH TẠI NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thủy Hương
Lớp : Anh 8
Khóa : K43B
Giáo viên hướng dẫn: Lê Huyền Trang
Hà Nội, tháng 6 - 2008
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ MÔ HÌNH KINH DOANH DỊCH VỤ LIÊN
QUAN ĐẾN RÁC THẢI TẠI NHẬT BẢN 3
I.
TỔNG
QUAN
VỀ
RÁC
THẢI
VÀ
QUẢN
LÝ
RÁC
THẢI
TẠI
NHẬT
BẢN
3
1. Định nghĩa và phân loại rác thải tại Nhật Bản 3
1.1 Định nghĩa rác thải tại Nhật Bản 3
1.2 Phân loại rác thải tại Nhật Bản 4
1.2.1 Rác thải rắn đô thị (RTRĐT) 4
1.2.2. Rác thải công nghiệp (RTCN) 5
2. Thu gom, tái chế và xử lý rác thải tại Nhật Bản 6
2.1 Thu gom và xử lý rác thải tại Nhật Bản 6
2.1.1 Thu gom và xử lý RTRĐT 6
2.1.2 Thu gom và xử lý RTCN 8
2.2 Tái chế rác thải tại Nhật Bản 9
3. Quản lý rác thải tại Nhật Bản 11
3.1 Hệ thống quản lý rác thải tại Nhật Bản 11
3.2 Luật liên quan đến quản lý rác thải tại Nhật Bản 12
II.
TỔNG
QUAN
VỀ
KINH
DOANH
DỊCH
VỤ
LIÊN
QUAN
ĐẾN
RÁC
THẢI
TẠI
NHẬT
BẢN
13
1. Định nghĩa kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải 13
2. Mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản 15
2.1 Các thành phần tham gia của lĩnh vực kinh doanh dịch vụ liên quan đến
rác thải tại Nhật Bản 15
2.2 Kết quả hoạt động của mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải
tại Nhật Bản 15
2.3 Tình hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản theo
từng lĩnh vực cụ thể 16
2.3.1 Rác thải thực phẩm 16
2.3.2 Rác thải điện gia dụng 18
2.3.3 Rác thải bao bì (nhựa, thủy tinh, giấy và chai lọ PET) 19
2.3.4 Rác thải vật liệu xây dựng 22
2.3.5 Rác thải ô tô 23
3. Mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải điển hình tại Nhật Bản .24
3.1 Mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại thành phố
Kitakyusu, Nhật Bản 24
3.2 Đánh giá kết quả hoạt động của mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan
đến rác thải tại Kitakyushu, Nhật Bản 27
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LĨNH VỰC KINH DOANH DỊCH VỤ LIÊN
QUAN ĐẾN RÁC THẢI TẠI VIỆT NAM 30
I.
TỔNG
QUAN
VỀ
RÁC
THẢI
TẠI
VIỆT
NAM
30
1. Định nghĩa và phân loại rác thải tại Việt Nam 30
2. Tình hình phát sinh rác thải tại Việt Nam 30
2.1 Rác thải rắn sinh hoạt 30
2.2 Rác thải rắn công nghiệp 32
3. Tình hình thu gom và xử lý rác thải tại Việt Nam hiện nay 35
3.1 Thu gom rác thải tại Việt Nam 35
3.1.1 Rác thải rắn đô thị 35
3.1.2 Rác thải nguy hại 37
3.2 Xử lý và tiêu huỷ rác thải tại Việt Nam 38
3.2.1 Xử lý và tiêu huỷ RTRĐT 38
3.2.2 Xử lý và tiêu huỷ RTCN 40
3.3 Tái sử dụng và tái chế rác thải 42
II.
QUẢN
LÝ
RÁC
THẢI
TẠI
VIỆT
NAM
44
1. Hệ thống quản lý rác thải tại Việt Nam 44
2. Các chính sách quản lý môi trường ở Việt Nam 45
III. THỰC
TRẠNG
KINH
DOANH
DỊCH
VỤ
LIÊN
QUAN
ĐẾN
RÁC
THẢI
TẠI
VIỆT
NAM
46
1. Vài nét về ngành kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải hiện nay tại Việt
Nam 46
2. Mô hình công ty tư nhân hoạt động hiệu quả trong ngành kinh 48
doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Việt Nam: 48
3. Những yếu tố cản trở sự phát triển của ngành kinh doanh dịch 49
vụ liên quan đến rác thải tại Việt Nam 49
3.1 Sự bất cập về các văn bản quản lý và sự phối hợp giữa các ban ngành liên
quan của Nhà nước trong vấn đề môi trường 49
3.2 Thiếu nguồn tài trợ 51
3.3 Nhận thức của người dân và doanh nghiệp về các vấn đề môi trường còn
hạn chế 52
4. Tiềm năng phát triển của ngành kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại
Việt Nam 53
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ NHẬT BẢN VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY THỊ TRƯỜNG KINH DỊCH VỤ LIÊN
QUAN ĐẾN RÁC THẢI TẠI VIỆT NAM 55
I.
BÀI
HỌC
KINH
NGHIỆM
TẠI
NHẬT
BẢN
55
1. Lý do lựa chọn Nhật Bản làm mô hình nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh dịch
vụ liên quan đến rác thải 55
2. Những bài học kinh nghiệm từ Nhật Bản trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ
liên quan đến rác thải 56
2.1 Chính sách và nguồn luật điều chỉnh rác thải hiệu quả 56
2.2 Việc giáo dục và phổ biến tốt các vấn đề liên quan đến môi trường cho
doanh nghiệp và người dân Nhật Bản 59
2.2.1 Những yếu tố góp phần cho việc phổ biến kiến thức môi trường 60
2.2.2 Kết quả của các biện pháp tuyên truyền và giáo dục về môi trường
tại Nhật Bản 61
2.3. Sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế tư nhân 63
II.
MỘT
SỐ
GIẢI
PHÁP
NHẰM
THÚC
ĐẨY
SỰ
PHÁT
TRIỂN
CỦA
LĨNH
VỰC
KINH
DOANH
DỊCH
VỤ
LIÊN
QUAN
ĐẾN
RÁC
THẢI
TẠI
VIỆT
NAM
66
1. Giải pháp hoàn thiện chính sách liên quan đến rác thải 66
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rác thải tại Việt Nam 67
3. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của các hình thức tuyên truyền, giáo dục về
môi trường 68
4. Giải pháp liên quan đến công tác thu hồi chi phí liên quan đến rác thải 70
5. Cải thiện đầu tư và vận hành các dịch vụ liên quan đến rác thải 71
III.
ĐỀ
XUẤT
MÔ
HÌNH
KINH
DOANH
DỊCH
VỤ
LIÊN
QUAN
ĐẾN
RÁC
THẢI
TẠI
VIỆT
NAM
71
1. Lựa chọn địa điểm áp dụng mô hình 71
2. Xây dựng mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại phường Kim
Liên 72
2.1 Mô hình đề xuất chính sách liên quan đến rác thải 72
2.2 Mô hình đề xuất về vấn đề liên quan đến tài chính hỗ trợ 73
2.3 Mô hình đề xuất về việc thu gom và xử lý rác thải 74
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt
ADB
Asian Development Bank Ngân hàng phát triển châu Á
CEETIA
Centre for Environmental
Engineering of Towns and
Industrial Areas
Trung tâm Kỹ thuật Môi trường đô thị
và Khu công nghiệp
EEC
European Economic
Community
Khối thị trường chung châu Âu
EBI
Environmental Business
International
Hiệp hội kinh doanh môi trường quốc tế
GATs
General Agreement on
Trade in Services
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GEC
Global Environmental
Center
Trung tâm Môi trường toàn cầu
IGES
Institute for Global
Environmental Strategies
Viện chiến lược môi trường toàn cầu
ISO
International Organization
for Standardization
Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế
JETRO
Japan external Trade
Organization
Tổ Chức Xúc Tiến Thương Mại Nhật
Bản
JICA
Japan International
Cooperation Agency
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật bản
MOE
Ministry of Environment Bộ Môi trường Nhật Bản
METI
Ministry of Economics,
Trade and Industry
Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp
Nhật Bản
MTĐT
Môi trường đô thị
OECD
Organization for
Economic Co-Operation
and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
RTRĐT
Rác thải rắn đô thị
RTCN
Rác thải công nghiệp
RTNH
Rác thải nguy hại
RTYT
Rác thải y tế
SMEs
Small and Medium sized
Enterprises
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
UNCTAD
United Nations
Conference on Trade and
Development
Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại
và phát triển
USITC
United States International
Trade Commission
Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ
URENCO
Urban Environmental
Limited Company
Công ty TNHH một thành viên Môi
trường Đô thị
WB
World Bank Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
1
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải là lĩnh vực hiện đang thu hút sự
chú ý của thị trường toàn cầu. Lĩnh vực này đã chứng tỏ tầm quan trọng của mình
khi nó được coi là một trong những điều khoản cần phải đàm phán khi gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới. Bên cạnh đó, vấn đề môi trường đã được chứng minh có
mối liên hệ chặt chẽ với thương mại và đầu tư quốc tế, ví dụ như việc định giá tác
động môi trường trong các hiệp định đầu tư đang trở thành một phần không thể
thiếu khi xét duyệt dự án.
Thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải không chỉ có đóng góp
không nhỏ cho nền kinh tế và mà còn nâng cao chất lượng môi trường sống. Chính
vì thế, theo báo cáo môi trường châu Á, 2005, thị trường này được đánh giá là thị
trường có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới trong thập niên tới, đặc biệt là khu
vực kinh tế châu Á- Thái Bình Dương, đứng đầu là thị trường Nhật Bản
[13]
. Mô hình
quản lý và kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản đã đạt được nhiều
thành công và có nhiều bài học kinh nghiệm rất đáng để cho các quốc gia trên thế
giới tham khảo và học hỏi.
Tại Việt Nam, lĩnh vực kinh doanh này vẫn còn hết sức mới mẻ và còn gặp
nhiều khó khăn. Tuy vậy, với vị thế là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới,
trong thời gian tới, thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Việt
Nam sẽ có tiềm năng phát triển lớn do mức độ cạnh tranh ngày càng cao của thị
trường và cơ chế chính sách sẽ được cải thiện. Chính vì thế việc nghiên cứu mô
hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại các nước phát triển, cụ thể là
Nhật Bản là rất cần thiết để có thể từ đó rút ra những bài học và xây dựng một nền
tảng cho quá trình phát triển lĩnh vực này tại Việt Nam trong thời gian tới. Đây
cũng chính là lý do tại sao đề tài “ Kinh doanh các dịch vụ liên quan đến rác thải:
mô hình tại Nhật Bản và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” được chọn để
nghiên cứu.
2
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dụng của luận văn
được trình bày trong ba chương:
Chương I: Giới thiệu về mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải
tại Nhật Bản
Chương II: Thực trạng lĩnh vực kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại
Việt Nam.
Chương III: Bài học kinh nghiệm từ Nhật Bản và một số giải pháp nhằm
thúc đẩy sự phát triển của thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác
thải tại Việt Nam.
Do những hạn chế về thời gian, tài liệu, nội dung của luận văn này không
tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý
chân thành của thầy cô giáo và các bạn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giảng viên môn Kinh tế môi
trường, cô giáo Lê Huyền Trang đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình và các bạn đã giúp đỡ tôi trong việc thu
thập tài liệu và tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thủy Hương
3
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU VỀ MÔ HÌNH KINH DOANH DỊCH VỤ LIÊN
QUAN ĐẾN RÁC THẢI TẠI NHẬT BẢN
I. TỔNG QUAN VỀ RÁC THẢI VÀ QUẢN LÝ RÁC THẢI TẠI NHẬT
BẢN
1. Định nghĩa và phân loại rác thải tại Nhật Bản
1.1 Định nghĩa rác thải tại Nhật Bản
Uỷ ban châu Âu (European Commission), Ban thư ký công ước Basel và
OECD đều có những định nghĩa về rác thải. Trong đó, được dùng nhiều nhất để giải
thích thuật ngữ này là định nghĩa của OECD:
“ Rác thải liên quan tới những vật chất không phải sản phẩm chính – tức là
sản phẩm được sản xuất cho tiêu dùng trên thị trường và những vật chất này không
còn giá trị sử dụng mà con người loại bỏ và có ý muốn loại bỏ. Rác thải có thể phát
sinh từ việc chiết, tách nguyên vật liệu thô trong quá trình chuyển đổi nguyên vật
liệu thô thành bán thành phẩm và thành phẩm; hoặc trong quá trình tiêu dùng sản
phẩm cuối cùng ( thành phẩm) và trong bất kỳ hoạt động nào của con người, không
bao gồm các trường hợp sau đây:
- Vật, chất còn thừa lại trực tiếp sau quá trình tái chế hoặc tái sử
dụng tại nơi phát sinh và,
- Nguyên vật liệu rác thải được tiêu hủy trực tiếp vào môi trường
không khí hoặc nước.” (Glossary of Environment Statics, OECD,1997)
[14]
Ủy ban châu Âu lại cung cấp định nghĩa về rác thải trong luật của Ủy ban mã
số 75/442/EEC. Định nghĩa này còn đi kèm theo một danh sách với các hạng mục
và loại rác thải theo liên minh châu Âu.
“ Rác thải là bất kỳ vất chất nào được chỉ ra trong bản phụ lục I mà người sử
dụng loại bỏ hoặc có ý muốn hoặc yêu cầu loại bỏ vật chất đó.”
4
Bản phụ lục I bao gồm 16 danh mục khác nhau về rác thải và để làm rõ hơn
định nghĩa, tránh hiểu sai, Ủy ban châu Âu cũng đưa ra một danh sách các loại rác
thải cụ thể.
Định nghĩa rác thải của Ban thư ký công ước Basel cũng gần giống song có
độ mở hơn so với định nghĩa của ủy ban châu Âu:
“ Rác thải là bất kỳ vật chất nào được tiêu hủy hoặc có ý muốn và yêu cầu
tiêu hủy bởi những điều khoản xác định trong luật quốc gia”(Công ước Basel,
1992)
[15]
Tại Nhật Bản, rác thải được định nghĩa như sau:
"Rác thải là một dạng vật chất không còn giá trị, cả về giá trị kinh tế và sử
dụng, được loại bỏ, thải ra một cách có chủ ý, có thể tồn tại dưới dạng rắn hoặc lỏng
(trừ rác thải hạt nhân và các loại rác thải phát sinh từ quá trình hoạt động liên quan
đến phóng xạ)” (Waste Management and Public Cleasing Law,Japan, 2000)
[16]
Như vậy, theo các định nghĩa trên về rác thải, tuy có sự khác nhau về ngôn từ
(giữa tiêu hủy và loại bỏ) và có thể gây ra một số tranh cãi về cách hiểu song tựu
chung lại có thể nói rác thải là một vật bỏ đi có chủ đích. Một đồ vật có thể không
có giá trị về mặt kinh tế vì không có thị trường tiêu thụ sản phẩm đó vì sản phẩm
hay đồ vật đó không bán được nhưng nó vẫn có giá trị sử dụng vì nó có giá trị tinh
thần với một người nào đó hoặc vì họ không có khả năng mua một đồ vật khác có
chất lượng tốt hơn để thay thế cái mà họ đang có. Một đồ vật được coi là đồ bỏ đi
đối với một người nào đó vẫn có thể có giá trị với người khác. Chẳng hạn, túi ni
lông đã qua sử dụng tại một hộ gia đình thải ra có thể là nguồn thu nhập đối với
những người thu gom rác thải.
1.2 Phân loại rác thải tại Nhật Bản
Theo Luật Quản lý rác thải của Nhật, rác thải tại nước này được chia thành
hai loại: rác thải thông thường hay còn gọi là rác thải rắn đô thị và rác thải công
nghiệp (bao gồm cả rác thải rắn và nguy hại phát sinh trong quá trình sản xuất công
nghiệp)
1.2.1 Rác thải rắn đô thị (RTRĐT)
5
Rác thải rắn đô thị bao gồm tất cả các rác thải ở dạng rắn, phát sinh do các
hoạt động của con người, được thải bỏ khi chúng không còn hữu ích hay khi con
người không muốn sử dụng nữa.
Các nguồn phát sinh RTRĐT bao gồm: khu dân cư, khu thương mại (nhà
hàng, khách sạn, siêu thị,chợ…), cơ quan, công sở (trường học, trung tâm và viện
nghiên cứu, bệnh viện ), khu xây dựng và phá hủy các công trình xây dựng, khu
công cộng (nhà ga, bến tàu, sân bay, công viên, khu vui chơi, đường phố…).
Bảng 1.1: Loại RTRĐT theo các nguồn phát sinh tại Nhật Bản
Nguồn phát sinh Loại rác thải
Hộ gia đình
Rác thực phẩm, giấy,các tôn, nhựa, túi nylon, vải, da, rác
vườn, gỗ, thủy tinh, lon thiếc, nhôm, kim loại, tro, lá cây, rác
thải đặc biệt như pin, dầu nhớt xe, lốp xe, ruột xe, sơn thừa…
Khu thương mại
Giấy, các tôn, nhựa, túi nylon, gỗ, rác thực phẩm, thủy tinh,
kim lọai, rác thải đặc biệt như vật dụng gia định hư hỏng (kệ
sách, đèn tủ…), đồ điện tử hư hỏng (máy radio, tivi,…), tủ
lạnh, máy giặt hỏng, pin, dầu nhớt xe, săm, lốp, sơn thừa….
Công sở
Giấy, các tôn, nhựa, túi nylon, gỗ, rác thực phẩm, thủy tinh,
kim loại, rác thải đặc biệt như kệ sách, đèn, tủ hỏng, pin, dầu
nhớt
Xây dựng Gỗ, thép, bê tông, đất, cát…
Khu công cộng Giấy, túi nylon, lá cây…
Trạm xử lý nước
thải
Bùn
Nguồn: Giáo trình quản lý chất thải, 2006
[2]
1.2.2. Rác thải công nghiệp (RTCN)
RTCN là loại rác thải phát sinh từ hoạt động kinh doanh của các khu buôn
bán và công nghiệp, được nêu rõ trong Luật Quản lý rác thải của Nhật Bản. Theo
luật này, RTCN bao gồm :
6
- Tro tàn (bụi), nước cống, rác thải từ dầu, rải thải acid, rác thải chất kiềm,
rác thải nhựa và các loại rác thải khác được đặc định bởi Ban Nội Các Chính phủ
(bao gồm cả các rác thải nguy hại – có tính độc, lây lan và phát nổ),
- Các loại rác thải nhập khẩu đi theo đường hàng hải và do cá nhân mang vào
Nhật Bản.
[3]
2. Thu gom, tái chế và xử lý rác thải tại Nhật Bản
2.1 Thu gom và xử lý rác thải tại Nhật Bản
2.1.1 Thu gom và xử lý RTRĐT
Thu gom RTRĐT
Thu gom RTRĐT là quá trình thu nhặt rác thải từ các hộ dân, công sở hay từ
những điểm thu gom, chất chúng lên xe và vận chuyển đến điểm trung chuyển, trạm
xử lý hay những nơi chôn lấp RTRĐT.
Biểu đồ 1.1: Lượng rác thải thông thường phát sinh tại Nhật Bản
49.5
50
50.5
51
51.5
52
52.5
53
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
1000 tấn/năm
Nguồn: MOE, 2007
[27]
Lượng rác thải đô thị sản sinh mỗi năm của Nhật Bản ước tính đạt cọn số
52.4 triệu tấn và phần lớn số rác này đều được xử lý (JETRO, 2004)
[13]
. Chính
quyền thành phố của nước này chịu trách nhiệm cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng
quản lý rác thải cũng như thu gom, vận chuyển, tiêu hủy rác thải và những hoạt
động nói trên phần lớn được giao cho các công ty tư nhân xử lý.
7
Chi phí thu gom chiếm khoảng 50-70% tổng chi phí cho công tác thu gom,
vận chuyển và đổ bỏ RTRĐT
[30]
. Do đó, công tác thu gom là một trong những vấn
đề cần xem xét kỹ lưỡng, bởi vì chỉ cần cải tiến một phần hoạt động thu gom thì có
thể tiết kiệm đáng kể chi phí chung.
Xử lý RTRĐT
Mục đích của phương pháp xử lý RTRĐT là:
- Nâng cao hiệu quả của việc quản lý RTRĐT, bảo đảm an toàn vệ sinh môi
trường
- Thu hồi vật liệu để sử dụng, tái chế
- Thu hồi năng lượng từ rác cũng như các sản phẩm chuyển đổi
Tại Nhật Bản, ước tính, gần 80% lượng rác thải đô thị tại Nhật Bản được
tiêu hủy theo phương pháp đốt, số còn lại được tiêu hủy chủ yếu bằng phương pháp
chôn lấp.
[13]
Phương pháp chôn lấp
Chôn lấp được coi là phương pháp thải bỏ RTRĐT kinh tế nhất và chấp nhận
được về mặt môi trường. Ngay cả khi áp dụng các biện pháp giảm thiểu lượng rác
thải, hay tái sinh, tái sử dụng và cả kỹ thuật chuyển hóa chất thải, việc thải bỏ phần
rác thải còn lại ra bãi chôn lấp vẫn là một khâu quan trọng trong chiến lược quản lý
tổng hợp RTRĐT.
Xử lý rác thải bằng phương pháp nhiệt
Xử lý RTRĐT bằng phương pháp đốt là một phương pháp hiệu quả và hiện
nay được sử dụng khá phổ biến. Tại Nhật Bản, gần 80% lượng RTRĐT sản sinh
được xử lý bằng phương pháp này.
Tuy nhiên, phương pháp đốt cũng có những hạn chế như: đòi hỏi chi phí đầu
tư xây dựng lò đốt, chi phí vận hành và xử lý khí thải lớn. Việc thiết kế, vận hành lò
đốt phức tạp, người vận hành lò đốt đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao. Đặc
biệt, trong quá trình đốt chất thải có thể gây ô nhiễm môi trường nếu các biện pháp
kiểm soát quá trình đốt, xử lý khí thải không đảm bảo.
8
Phương pháp đốt cũng được sử dụng nhiều tại các nước có diện tích nhỏ và
chính vì chi phí và vốn đầu tư cao nên thông thường, việc xây dựng các lò đốt thuộc
trách nhiệm của chính phủ.
2.1.2 Thu gom và xử lý RTCN
Các công ty Nhật Bản phát sinh gần 406 triệu m
3
RTCN/năm và việc xử lý
và tiêu hủy khối lượng này là trách nhiệm của cá nhân công ty sản sinh ra loại rác
đó
[30]
Việc xây dựng và hoạt động các công trình cơ sở hạ tầng cho việc quản lý
rác thải được đầu tư bởi các công ty tư nhân và phí tiêu hủy được trả bởi các công ty
sản sinh rác thải. Tuy nhiên, cũng có một số nhà sản xuất lớn có cơ sở vật chất xử lý
rác thải của riêng mình và trong vài trường hợp, các nhà sản xuất này có dung lượng
xử lý cao hơn số rác nhà máy sản sinh và do vậy có thể tham gia vào thị trường xử
lý và tiêu hủy rác thải. Hiện nay, ở Nhật Bản, có gần 7,000 cơ sở đốt, tái chế và cơ
sở xử lý chất thải bằng phương pháp hóa học đối với rác thải công nghiệp
[27]
Biểu đồ 1.2: Lượng rác thải công nghiệp phát sinh theo năm tại
Nhật Bản
380
385
390
395
400
405
410
415
420
2000 2001 2002 2003 2004
1000 tấn/năm
Nguồn: MOE, 2006
[28]
Hiện nay, Nhật Bản đang đối diện với vấn đề tiêu hủy rác thải PCB ( một
loại RTCN). Đây là loại vật liệu được sử dụng để làm vật dẫn nhiệt trong các thiết
9
bị điện tử và trong các thiết nén tại các nhà sản xuất thực phẩm chế biến sẵn. Vào
năm 2001, chính phủ Nhật đã thông qua Luật về vấn đề sử dụng phương pháp tiêu
hủy rác thải PCB một cách hợp lý, trong đó có nếu rằng, lượng rác thải PCB hiện tại
sẽ được tiêu hủy vào năm 2016. Chính phủ nước này cũng đang lên kế hoạch xây
dựng 5 cơ sở xử lý rác thải hóa học trên khắp đất nước và sẽ giao việc định giá tác
động môi trường, xây dựng và hoạt động các cơ sở mới cho các công ty tư nhân.
Những dịch vụ này sẽ được tài trợ bởi phí tiêu hủy rác thải. Mặc dù chính phủ Nhật
chưa công bố chính xác chi phí của toàn bộ dự án này, song dự đoán rằng việc xây
dựng nhà máy xử lý tại Tokyo sẽ lên đến 260 triệu đôla. Hiện Nhật Bản cũng không
có chính sách nào bắt buộc rằng việc xây dựng hoặc hoạt động các cơ sở xử lý rác
thải nói trên chỉ dành cho doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên tất cả các nhà dự
thầu kể cả các công ty dự thầu phải đưa ra một số phương án với chi phí ước tính
gần 1 triệu đôla để có thể đạt được chấp thuận tham gia đấu thầu của bộ môi trường
Nhật Bản (USITC, 2004)
[29]
2.2 Tái chế rác thải tại Nhật Bản
Trong lĩnh vực tái chế, Nhật Bản là quốc gia tiên phong trong việc áp dụng
các công nghệ tiên tiến nhằm tái chế, tái sử dụng chất thải. Các hoạt động tái chế ở
Nhật Bản được hỗ trợ bởi hệ thống luật và các quy định liên quan đến việc quản lý
chất thải, ví dụ: luật tái chế vỏ hộp và bao bì được ban hành năm 1997, luật tái chế
thiết bị điện được ban hành năm 1998. Đáng chú ý, sáng kiến 3R : Reduce (giảm
thiểu)-Recycle (tái chế)-Reuse (tái sử dụng) được cộng đồng quốc tế đánh giá cao là
đã có tác dụng lớn trong việc cải thiện chất lượng môi trường, đồng thời phát triển
kinh tế, đặc biệt là ngành môi trường. Ngày nay, trong bối cảnh cạnh tranh khốc
liệt, vai trò của tái chế như là nguồn cung cấp nguyên, nhiên vật liệu giá rẻ càng trở
nên vô cùng quan trọng. Nguồn nguyên liệu từ tái chế có thể coi là vô tận, vì có sản
xuất là có rác thải và có cơ hội cho tái chế. Mặc khác, tái chế còn là một giải pháp
hữu hiệu làm giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí xử lý chất thải và do đó hạ giá
thành sản phẩm. Bên cạnh những lợi ích kinh tế, tái chế góp phần làm giảm các
thiệt hại môi trường do rác thải gây ra, đồng thời nâng cao uy tín và giúp gắn mác
sinh thái cho các sản phẩm của công ty. Xét trên tổng thể, thực hiện tốt biện pháp
10
tái chế đem lại môi trường trong sạch hơn, cải thiện sức khỏe cộng đồng và là một
trong những giải pháp quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội.
Nhật Bản đặt mục tiêu vào năm 2010 cho năng suất tài nguyên, tỷ lệ tái chế
sản phẩm và lượng sản phẩm được đưa tới nơi xử lý cuối cùng. Trong đó, năng suất
tài nguyên là chỉ số để định giá giá trị gia tăng của một đơn vị nguồn lực đầu vào và
được tính bằng cách lấy tổng số GDP chia cho tổng nguyên liệu tự nhiên đầu vào và
sản phẩm được nhập khẩu. Đến năm 2010, Nhật Bản đặt mục tiêu cho chỉ số này là
390 ngìn yên/tấn, cao hơn 40% so với năm 2000. Tỷ lệ tái chế đặt ra là 14%, cao
hơn năm 2000 khoảng 40% và lượng sản phẩm được đem xử lý tại nơi xử lý cuối
cùng là 28 triệu tấn, thấp hơn 50% so với năm 2000
[13]
Biểu đồ 1.3 Tỷ lệ tái chế rác thải tại Nhật Bản theo năm
45
49
46
46
14.3
15
15.9
16.8
0
10
20
30
40
50
60
70
2000 2001 2002 2003
RTCN RTRĐT
Nguồn: MOE, 2006
[28]
Tái chế ở Nhật Bản chủ yếu do các công ty tư nhân đảm nhiệm (không có sự
trợ cấp của chính phủ). Những công ty này thu được lợi nhuận từ phí tái chế và bán
lại nguyên liệu tái chế. Việc tái chế bao bì và nhựa gặp rất nhiều trở ngại. Lý do là
công suất tái chế trên toàn quốc mới đạt 50 triệu tấn năm. Nhật Bản phải sử dụng
10% lượng dầu thô nhập khẩu để chế tạo ra 12 triệu tấn nhựa công nghiệp, chiếm
10% hàng nhựa trên thế giới. Rác thải nhựa được tái chế thành nguyên liệu chỉ
chiếm 17%,trong đó 10% tái chế thành hạt nhựa, còn lại 7% dùng để phát điện hay
11
mục đích khác. Tái chế phế thải xây dựng cũng làm đau đầu các nhà quản lý môi
trường. Người ta phải thu gom vật liệu và bê tông phế thải từ các công trường xây
dựng chuyển đền nhà máy chuyên tái chế thành cát và sắt thép. Chi phí cho việc này
rất tốn kém, thậm chí còn cao hơn cả việc nhập khẩu nguyên liệu tương tự, nhưng
không tái chế sẽ gây ô nhiễm môi trường. Đối với rác nhà bếp, 70% được tái chế
thành phân bón hữu cơ, góp phần cải tạo đất, giảm bớt nhu cầu sản xuất và nhập
khẩu phân bón.
[13]
Kim loại, thủy tinh, giấy, nhựa dẻo và các nguyên liệu được sản xuất khác
sau khi trở thành rác thải có khả năng được tái chế rất cao. Về cơ bản, việc phát
triển ngành tái chế phụ thuộc vào giá cả của nguyên liệu có thể thu hồi được và giá
cả của đất đai. Khi giá đất đắt đỏ, các phương pháp xử lý rác thải có vai trò tương
đương nhau, thị trường khuyến khích sự phát triển của công nghiệp tái chế cũng
như phương pháp đốt. Ngoài ra, việc tái chế còn phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế và
phi kinh tế. Rác thải giấy chiếm thị phần lớn trong lượng rác thải có thể tái chế được
và đây là loại rác thải dùng phương pháp xử lý bằng cách đốt phổ biến nhất. Phương
pháp tái chế được khuyến khích bởi các chính sách của chính phủ trong đó có nêu
rõ mục tiêu tái chế rác thải đặt ra và yêu cầu các nhà sản xuất phải có những biện
pháp để khuyến khích tái chế.
3. Quản lý rác thải tại Nhật Bản
3.1 Hệ thống quản lý rác thải tại Nhật Bản
Ở Nhật Bản, có 10 bộ trực thuộc chính quyền trung ương. Trong số đó, Bộ
Môi trường (MOE) và Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) giữ vai trò
chủ đạo trong việc thúc đẩy các hoạt động bảo vệ cũng như kinh doanh liên quan
đến môi trường, trong đó có rác thải. MOE chịu trách nhiệm giám sát và đưa ra
khung chính sách, chiến lược môi trường cơ bản và qua đó nâng cao nhận thức của
người dân và doanh nghiệp về môi trường; trong khi đó METI có vai trò chính là
xúc tiến các hoạt động công nghiệp thông qua sự phối hợp của các nguồn luật khá
nhau, các kế hoạch tình nguyện và các chương trình hỗ trợ. Hai Bộ này có sự phối
hợp chặt chẽ và ăn ý với nhau, điển hình là sáng kiến cho ra đời các thành phố môi
trường, dự án Eco-Towns vào năm 1997.
12
Dưới bộ là các chính quyền các thành phố trực thuộc trung ương và các
quận. Hiện nay ở Nhật có 47 quận và khoảng gần 3,300 thành phố. Theo Luật tự trị
địa phương (Local Autonomy Act) Chính quyền quận và thành phố dựa vào khung
chính sách môi trường được đưa ra bởi Bộ Môi trường và có thể ban hành thêm
những sắc lệnh (ordinances) nhằm thực thi chính sách một cách hiệu quả, phù hợp
với địa phương của mình.
Ngoài ra, theo điều khoản 21 thuộc Luật cơ bản ra đời vào năm 1970 (Basic
Law), chính quyền trung ương có trách nhiệm thiết lập một hệ thống nhằm giải
quyết các tranh chấp liên quan đến môi trường bên ngoài tòa án bằng cách thương
thảo và hòa giải.
3.2 Luật liên quan đến quản lý rác thải tại Nhật Bản
3 nguồn luật chính liên quan đến quản lý rác thải tại Nhật Bản, đó là: Luật cơ
bản về xây dựng xã hội dựa trên tái chế - có tác dụng chính trong việc phát triển
lĩnh vực kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải, Luật quản lý rác thải – có tác
dụng chính trong việc điều chỉnh việc xử lý rác thải một các hợp lý tại khâu cuối
cùng và Luật về việc sử dụng hữu hiệu các nguồn tài nguyên có tác dụng thúc đẩy
lĩnh vực tái chế rác thải.
Có thể hình dung hệ thống luật pháp liên quan đến quản lý rác thải ở Nhật
Bản theo mô hình sau:
Sơ đồ 1.1: Các nguồn luật điều chỉnh rác thải tại Nhật Bản
Nguồn: Ryokichi Hirono, 2004
[20]
Luật cơ bản về xây dựng xã hội
dựa trên tái chế
(Basic Law for Establishing a
Recycling-based Society)
Luật về việc sử dụng hữu hiệu
các nguồn tài nguyên
(Law for the Effective Utilization
of Resources)
Luật quản lý rác thải
(Waste Management Law)
13
Luật Cơ bản về xây dựng xã hội dựa trên tái chế có hiệu lực từ năm 2000
được coi là khung pháp lý cho các nguồn luật khác như Luật quản lý rác thải và
Luật về việc sử dụng hữu hiệu các nguồn tài nguyên với 4 mục tiêu chính của việc
quản lý rác thải, thực hiện theo từng thứ tự dưới đây:
- Giảm thiểu lượng rác thải đến mức có thể (Reduce)
- Tái sử dụng (Reuse)
- Khi không thể tái sử dụng được vật chất đó nữa, đem tái chế thành
nguyên liệu thô (Recyle)
- Khi không thể tái chế, xử lý rác thải bằng phương pháp đốt nhằm mục
tiêu thu lại nhiệt năng (Energy recovery)
Trong trường hợp không áp dụng được các biện pháp trên, cần phải xử lý rác
thải bằng phương pháp thích hợp, ít gây ô nhiễm môi trường nhất (Approriate
Disposal)
Các nguồn luật quản lý rác thải của Nhật Bản nói trên được đánh giá có tính
thực tiễn cao, được chính quyền các cấp và người dân nước này thực thi nghiêm túc
và đạt được nhiều kết quả tốt. Đây chính là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự
phát triển của thị trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản.
II. TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ LIÊN QUAN ĐẾN RÁC
THẢI TẠI NHẬT BẢN
1. Định nghĩa kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải
Kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải là một nhánh quan trọng nằm
trong ngành công nghiệp dịch vụ liên quan đến môi trường. Tuy vậy, cho đến nay,
vẫn chưa có được một định nghĩa toàn diện và thống nhất về ngành công nghiệp
này. Thực tế, định nghĩa và phân loại về kinh doanh dịch vụ liên quan đến môi
trường (evironmental services) ở mỗi nước lại có sự khác nhau tùy vào điều kiện
của mỗi nước, đặc biệt là ở các nhánh nhỏ trong ngành công nghiệp này. Thông
thường, kinh doanh dịch vụ liên quan đến môi trường thường được phần lớn người
dân hiểu rằng đó là kinh doanh dịch vụ liên quan đến việc cung cấp nước sạch và xử
lý rác thải về mặt cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, gần đây, định nghĩa về lĩnh vực này đã
được mở rộng, trong đó có đề cập đến những lĩnh vực không liên quan đến cơ sở hạ
14
tầng như quản lý ô nhiễm môi trường không khí hay tư vấn liên quan đến môi
trường. Việc đưa ra được định nghĩa và phân loại cho ngành công nghiệp này đóng
một vai trò quan trọng đối với các nước thành viên WTO vì việc gỡ bỏ hoặc việc
giảm rào cản thương mại trong ngành dịch vụ môi trường đã được xác định trong
tuyên bố hội nghị bộ trưởng Doha là một trong những nội dung cơ bản của đàm
phán gia nhập WTO. Các nước thành viên tin rằng khi kinh doanh dịch vụ liên quan
đến môi trường nói chung và dịch vụ liên quan đến rác thải nói riêng phát triển thì
những nước xuất khẩu, nhập khẩu và môi trường tại các nước đó sẽ có lợi từ cạnh
tranh ngày càng gia tăng, dẫn tới giảm chi phí, tăng chất lượng dịch vụ, nâng cao
hiệu quả những dịch vụ hiện tại và thậm chí tạo ra những dịch vụ mới. Ngoài ra vấn
đề môi trường cũng đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với thương
mại và đầu tư quốc tế và thực tế, những tác động môi trường được xem xét và đánh
giá một cách kỹ lưỡng trước khi một hiệp định thương mại được đưa ra. Chính vì
vậy nhu cầu về việc sử dụng dịch vụ môi trường nói chung và dịch vụ liên quan tới
rác thải nói riêng đang có xu hướng ngày càng tăng lên và việc đưa ra một định
nghĩa, phân loại để điều chỉnh ngày này càng trở nên cần thiết.
Vào năm 1999, một đội ngũ các chuyên gia của tổ chức hợp tác kinh tế và
phát triển OECD đã đưa ra định nghĩa hiện đang sử dụng hết sức phổ biến tại nhiều
nước. Định nghĩa này theo nhiều chuyên gia đánh giá đã bao hàm được phần lớn
các khía cạnh kinh tế liên quan đến môi trường, trong đó: “Kinh doanh dịch vụ liên
quan đến môi trường là những hoạt động nhằm đo lường, ngăn chặn, hạn chế, giảm
thiểu những thiệt hại liên quan đến môi trường như môi trường nước, đất không khí
cũng như những vấn đề liên quan đến chất thải, rác thải, tiếng ồn và hệ sinh thái”.
(Aparna Sawhney, Rupa Chada, 2003)
[21]
. Như vậy có thể nói, những hoạt động
kinh doanh nào liên quan đến những lĩnh vực kể trên nhằm mục đích giảm thiểu ô
nhiễm, rủi ro môi trường và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đều được coi là
kinh doanh dịch vụ liên quan đến môi trường.
Nhật Bản lựa chọn định nghĩa về kinh doanh dịch vụ liên quan đến môi
trường của OECD và kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải nằm trong nhóm
kinh doanh dịch vụ liên quan đến môi trường bao gồm những hoạt động: thu gom
15
rác thải rắn và nguy hại từ hộ gia đình và khu công nghiệp; xử lý và tiêu hủy rác
thải rắn và nguy hại bằng nhiều phương pháp khác nhau; thu gom, phân loại và tách
các nguyên vật liệu có thể tái chế; dịch vụ làm giảm chất thải là những hoạt động
chính; ngoài ra, còn có thể kể đến những hoạt động có liên quan như dịch vụ kiểm
tra và vận hành liên quan đến xử lý rác thải.
[29]
2. Mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản
2.1 Các thành phần tham gia của lĩnh vực kinh doanh dịch vụ liên quan
đến rác thải tại Nhật Bản
Thông thường, người tiêu dùng dịch vụ liên quan đến rác thải chủ yếu là
những khách hàng thuộc khu vực thành thị, khu công nghiệp và thương mại. Đối
với dịch vụ liên quan đến RTCN (trong đó có rác thải nguy hại) thì những khách
hàng chính lại là những tổ chức chính phủ và các nhà sản xuất chất hóa học và dầu
khí.
Về phía người cung cấp, do đặc tính kinh tế theo quy mô (đặc biệt trong lĩnh
vực xử lý bằng phương pháp chôn lấp và phương pháp đốt) nên những công ty lớn
thường có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ RTRĐT. Cả hai khu vực kinh tế
nhà nước và tư nhân đều tham gia vào cung câp dịch vụ liên quan đến RTRĐT và
RTCN, tuy nhiên tỷ lệ tham gia có khác nhau theo lĩnh vực. Tại Nhật Bản và các
nước phát triển khác, khu vực tư nhân đóng vài trò chủ đạo thị trường kinh doanh
dịch vụ liên quan tới RTCN, tuy nhiên chính quyền thành phố và địa phương vẫn là
người cung cấp dịch vụ chính đối với RTRĐT.
2.2 Kết quả hoạt động của mô hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác
thải tại Nhật Bản
Theo báo cáo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Môi trường Nhật Bản, thị
trường kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải hiện đang là lĩnh vực kinh doanh
chiếm doanh thu và lượng lao động cao nhất toàn ngành môi trường. Dự đoán đến
năm 2020 lĩnh vực kinh doanh này sẽ đạt mức doanh thu 20 tỷ yên và tạo ra gần
600 nghìn việc làm cho người lao động. Ngoài ra, hiện nay, Nhật Bản là thị trường
kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải đứng đầu khu vực châu Á-Thái Bình
Dương và đứng thứ hai thế giới chỉ sau Hoa Kỳ. Doanh thu của dịch vụ liên quan
16
đến RTCN tại nước này vào năm 2000 lần lượt là 30.2 tỷ và 3.9 tỷ đôla và chiếm tới
36% tổng doanh thu thị trường môi trường (bao gồm hàng hóa và dịch vụ)
[13]
Biểu đồ 1.4: Doanh thu kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản
10.8
15.7
20
0
5
10
15
20
25
2000 2010 2020
Tỷ yên
Nguồn: MOE,2006
[28]
Cụ thể hơn, nhu cầu cho ngành kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tập
trung phần lớn và các thiết bị môi trường (các thiết bị nhằm ngăn chặn ô nhiễm
không khí, tiếng ồn và xử lý ô nhiễm nguồn nước cũng như tiêu hủy rác thải). Theo
số liệu của Hiệp hội các nhà sản xuất máy móc công nghiệp lớn tại Nhật Bản, năm
2002, lượng cầu trong nước về ngành kinh doanh này đã lên tới 805 tỷ yên, trong đó
khách hàng là các cơ quan, đại diện của chính phủ chiếm tới 82.3%. Xuất khẩu
chiếm hơn 36 tỷ yên tương đương 4.3% do vậy có thể thấy thị trường xuất khẩu của
ngành cung cấp thiết bị môi trường của Nhật Bản không lớn. Thị trường Đông Á là
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản với 200.2 tỷ yên vào năm 2001 (tính cả
thị trường dịch vụ và hàng hóa môi trường) và chiếm 49.2% thị trường xuất khẩu
thiết bị môi trường. Trong đó, Đài Loan ( 9.8 tỷ yên chiếm 23.9%), Trung Quốc
(5.1 tỷ yên chiếm 12.4%) và Hoa Kỳ (2.5 tỷ yên, chiếm 6.0%).
[19]
2.3 Tình hình kinh doanh dịch vụ liên quan đến rác thải tại Nhật Bản theo
từng lĩnh vực cụ thể
2.3.1 Rác thải thực phẩm
Tại Nhật, nguồn rác thải thực phẩm được chia làm ba loại như sau:
17
- Loại 1: rác thải phát sinh từ giai đoạn sản xuất ( loại này được chia vào
loại rác thải công nghiệp)
- Loại 2: rác thải phát sinh từ giai đoạn phân phối (loại này được chia vào
loại rác thải thông thường)
- Loại 3: rác thải phát sinh từ giai đoạn tiêu dùng (loại này được chia vào
loại rác thải thông thường)
Rác thải thực phẩm được tái chế giúp giảm đáng kể lượng phân bón hóa học
và cải thiện chất lượng đất. Tại Nagai- Nhật Bản, kể từ năm 2000, rác thải nhà bếp
cần xử lý của thành phố 33,000 dân này đã giảm 70% nhờ đưa vào sử dụng dây
chuyền sản xuất phân bón từ rác.
[8]
Bảng 1.2: Lượng rác thải thực phẩm phát sinh và việc xử lý tại Nhật Bản
Đơn vị: tấn
Tái chế
Tổng
lượng rác
phát sinh
Đốt hoặc
chôn lấp
Dùng làm
phân bón
Dùng để
chăn
nuôi
Mục đích
khác
Tổng
Rác thải
thông
thường
16 triệu
100%
15.95
triệu
99.7%
50,000
0.3%
- -
50,000
0.3%
Rác thải
công
nghiệp
3.4 triệu
100%
1.77 triệu
52%
470,000
14%
1.04
triệu
41%
120,000
3%
1.63
triệu
48%
Tổng
19.4 triệu
100%
17.72
triệu
91%
520,000
3%
1.04
triệu
5%
120,000
1%
1.68
triệu
9%
Nguồn: JETRO,2004
Hiện nay, tại Nhật Bản ngày càng nhiều chính quyền địa phương trợ cấp cho
việc mua thiết bị xử lý rác cho hộ gia đình và việc thu gom rác thải từ hộ gia đình
cũng được trợ cấp một phần chi phí. Điều này cũng chính là một nhân tố ảnh hưởng
tới thị trường cung cấp thiết bị xử lý rác thải. Theo Bộ Môi trường nước này, năm
2000, tổng sản lượng sản xuất thiết bị xử lý rác thải cho hộ gia đình là 230,000
chiếc trong khi chỉ có 50-60 nhà sản xuất thiết bị này. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản
xuất thiết bị xử lý rác thải bằng điện, dự đoán, thị trường sẽ đạt mức doanh thu từ 3-
4 tỷ yên/năm tới 30-35 tỷ yên vào năm 2015. Xét thị trường thiết bị xử lý rác
18
thương mại nói riêng, thị trường này đạt mức doanh thu 170 tỷ yên vào năm 2000
và dự đoán sẽ đạt mức 1.6 nghìn tỷ yên vào năm 2015.
[13]
2.3.2 Rác thải điện gia dụng
Trước đây, các đồ gia dụng do hộ gia đình thải ra được thu gom bởi chính
quyền địa phương và các cửa hàng bán lẻ và một nửa số rác thải này được đưa tới
bãi chôn lấp. Số còn lại được tán nhỏ và lượng kim loại thu được sau xử lý được tái
sử dụng nhưng lượng này chỉ chiếm phần nhỏ còn phần lớn bị bỏ đi.
Vào năm 1998, Nhật Bản đã đưa ra Luật về tái chế các loại gia dụng đặc biệt
(hay còn gọi là Luật tái chế đồ gia dụng) để giải quyết vấn đề nói trên và Luật này
đã chính thức đi vào thực thi vào năm 2001. Các đồ gia dụng trong phạm vi điều
chỉnh của luật này được tái chế với chỉ tiêu đặt ra: điều hòa nhiệt độ ( hơn 60%), tivi
(hơn 55%), tủ lạnh (hơn 50%) và máy giặt (hơn 50%). Các nhà sản xuất và nhập
khẩu theo Luật này buộc phải thu gom và tái chế đồ điện tử dân dụng sau khi sử
dụng và cũng yêu cầu các nhà bán lẻ phải thu gom và vận chuyển đồ tái chế .
[13]
Bảng 1.3: Tỷ lệ tái chế đồ gia dụng tại Nhật Bản theo Luật Tái chế đồ gia dụng
năm 2002
Điều hòa Tivi Tủ lạnh Máy giặt Tổng
Số sản phẩm thu gom
được (nghìn)
1,636 3,520 2,565 2,426 10,147
Số sản phẩm tái chế
(nghìn)
1,624 3,515 2,556 2,409 10,104
Tổng lượng sản phẩm
đưa vào tái chế (tấn)
72,009 95,134 148,662 71,053 386,858
Tổng lượng sản phẩm
được tái chế (tấn)
56,739 72,110 91,006 42,967 262,822
Tỷ lệ tái chế (%) 78 75 61 60 67
Nguồn: JETRO,2004
Chi phí để người tiêu dùng có thể xử lý rác thải đồ gia dụng (bao gồm phí
hoạt động thu gom, vận chuyển và tái chế) là 3,675 yên đối với điều hòa nhiệt độ,
2,835 yên đối với tivi, 4,830 yên đối với tủ lạnh và 2,520 yên đối với máy giặt