TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪACỦA HÀN QUỐC VÀ BÀI HỌC RÚT RA
CHO VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG
Lớp : ANH 10
Khoá : K43C - KT&KDQT
Giáo viên hướng dẫn : PGS,TS. NGUYỄN VĂN HỒNG
HÀ NỘI - 06/2008
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 4
I. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA (SMEs) 4
1. Khái niệm SMEs 4
2. Tiêu chuẩn về SMEs 4
2.1 Các tiêu chí xác định SMEs 4
2.2 Những yếu tố tác động đến việc xác định tiêu chuẩn của SMEs 6
2.2.1 Trước hết đó là sự thay đổi theo ngành nghề 6
2.2.2 Tiêu chuẩn về SMEs phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của từng nước 6
2.2.3 Tiêu chuẩn xác định SMEs không cố định mà thay đổi theo thời gian,
phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế 6
2.3. Tiêu chuẩn xác định SMEs của Hàn Quốc và Việt Nam 7
2.3.1 Tiêu chuẩn xác định SMEs của Hàn Quốc 7
2.3.2 Tiêu chuẩn xác định SMEs của Việt Nam: 9
2.4.Cách xác định SMEs của một số quốc gia khác trên thế giới: 11
2.4.1 Liên minh châu Âu (EU) 11
2.4.2 Khu vực ASEAN 12
2.4.3 Mỹ 13
2.4.4 Australia 14
3. Đặc điểm của SMEs 15
3.1 Về những ưu thế của SMEs 15
3.1.1. SMEs khởi sự dễ dàng 15
3.1.2 SMEs có tính linh hoạt cao 15
3.1.3 SMEs đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa
phương và cơ sở 16
3.1.4 SMEs có lợi thế về sử dụng lao động 16
3.2. Về những hạn chế của SMEs 16
3.2.1 Thiếu nguồn lực để thực hiện những ý tưởng kinh doanh lớn 16
3.2.2 SMEs không có được các lợi thế của kinh tế quy mô (economy of
scale) 17
3.2.3 Hạn chế về trình độ quản lý và tay nghề của người lao động 17
3.2.4 Các SMEs do rất dễ khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều rủi ro trong
kinh doanh 17
II.VAI TRÒ CỦA SMEs TRONG NỀN KINH TẾ 18
1. SMEs đóng góp không nhỏ vào tăng trƣởng và phát triển kinh tế 18
2. SMEs giúp nền kinh tế phát triển năng động, linh hoạt và hiệu quả hơn 19
3. SMEs góp phần quan trọng vào việc mở mang và phát triển xuất khẩu 20
4. Đóng góp không nhỏ vào việc tạo lập sự phát triển cân đối và hoàn thiện
cơ cấu kinh tế 21
5. Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và nâng cao thu nhập cho ngƣời
dân 22
6. Thúc đẩy phát triển công nghệ đồng thời góp phần đào tạo, phát triển
tài năng kinh doanh 22
7. SMEs là bộ phận cần thiết trong quá trình liên kết và hỗ trợ sản xuất
cho các doanh nghiệp và các tập đoàn lớn 23
III. CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI CÁC SMEs 23
1. Tạo khung khổ pháp lý khuyến khích SMEs 24
2. Đƣa ra các nhóm chính sách và biện pháp hỗ trợ, thúc đẩy SMEs 25
3. Thành lập các cơ quan chuyên trách về quản lý Nhà nƣớc đối với SMEs 26
4. Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và các hiệp hội của SMEs 27
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA HÀN
QUỐC 29
I. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ HÀN QUỐC 29
1. Đôi nét về các giai đoạn phát triển kinh tế ở Hàn Quốc 29
2. Kinh tế Hàn Quốc hôm nay và triển vọng phát triển trong tƣơng lai: 30
II. Thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hàn Quốc 32
1. Tình hình phát triển SMEs ở Hàn Quốc 32
1.1 Quá trình phát triển của SMEs 32
1.2 Sự hình thành và đóng cửa của SMEs 35
1.3 Ngành nghề kinh doanh của các SMEs 36
1.4 Tình trạng việc làm trong các SMEs 37
1.5 Tình hình kinh doanh của các SMEs 38
1.5.1 Tổng giá trị sản lượng của SMEs 39
1.5.2 Giá trị gia tăng tạo ra bởi các SMEs 39
1.5.3 Kim ngạch xuất khẩu của SMEs 40
1.5.4. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của SMEs 42
1.6 Tình hình tài chính của các SMEs 43
2. Chính sách phát triển SMEs của Hàn Quốc 44
2.1 Hệ thống luật pháp cho hoạt động thúc đẩy SMEs 44
2.2 Hệ thống thể chế cho việc phát triển SMEs 45
2.3 Các chính sách hỗ trợ và biện pháp thúc đẩy đối với SMEs 47
1.3.1 Chính sách khuyến khích khởi nghiệp và nâng cao tinh thần doanh
nhân 49
1.3.2 Chính sách hỗ trợ tài chính 50
1.3.3 Chính sách hỗ trợ về marketing 54
1.3.4 Chính sách hỗ trợ về công nghệ 57
1.3.5 Chính sách hỗ trợ về nguồn nhân lực 59
III. MỘT VÀI ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN SMES CỦA HÀN
QUỐC
62
1. Những thành quả đạt đƣợc trong quá trình phát triển SMEs ở Hàn
Quốc 62
2. Những hạn chế còn tồn tại trong quá trình phát triển SMEs ở Hàn Quốc65
CHƢƠNG III: BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 67
I. NHỮNG NÉT TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HÀN QUỐC VÀ
VIỆT NAM 67
1. Về điều kiện tự nhiên, dân số 67
1.1 Điều kiện tự nhiên 67
1.2 Dân số 68
2. Về chính trị, văn hóa, xã hội 68
2.1 Chính trị 68
2.2 Văn hóa 69
2.3 Xã hội 70
3. Về kinh tế 71
II. THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM 72
1. Sơ lƣợc về tình hình phát triển của các SMEs Việt Nam 72
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các SMEs Việt Nam 74
2.1 Năng lực quản lý và trình độ của đội ngũ lao động trong các SMEs
Việt Nam 74
2.2 Cơ sở vật chất và trình độ công nghệ sản xuất của các SMEs 76
2.3 Hiệu quả kinh doanh của các SMEs 78
2.4 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm do các SMEs sản xuất 79
III. Bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc và một vài đề xuất nhằm phát triển
hơn nữa các SMEs ở Việt Nam 80
1. Khuyến khích gia tăng số lƣợng SMEs 81
1.1 Khơi dậy tinh thần kinh doanh của người Việt, đặc biệt là của giới trẻ
Việt Nam. 81
1.2 Đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh 82
1.3 Đổi mới thể chế về đất đai và hỗ trợ mặt bằng sản xuất, kinh doanh 83
2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các SMEs 84
2.1 Hiện đại hóa hệ thống tổ chức, quản lý 84
2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 86
2.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử
trong điều hành kinh doanh 87
2.4 Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm 89
2.5 Nâng cao trình độ công nghệ 90
2.6 Nâng cao năng lực tài chính 93
2.7 Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp 97
2.8 Tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các SMEs với nhau và giữa
SMEs với doanh nghiệp lớn 98
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 103
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Bảng 1.2 Tiêu chuẩn xác định SMEs của Hàn Quốc 8
Bảng 1.3 Định nghĩa SMEs theo tổng doanh thu và số lao động 12
Bảng 1.4 Tiêu chuẩn về SMEs của Thái Lan theo số lao động thường xuyên
và tổng giá trị tài sản cố định. 13
Bảng 1.5 Đóng góp của SMEs vào nền kinh tế các nước 2005 19
Bảng 2.1. Bảng xếp hạng các nền kinh tế theo GDP 2004 & 2020 32
Bảng 2.2. Số lượng SMEs do phụ nữ làm chủ 34
Bảng 2.3. Số lượng khởi nghiệp và đóng cửa của SMEs Hàn Quốc 36
Bảng 2.5. Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ đóng góp của SMEs vào sự thay đổi 38
số lượng công ăn việc làm trong cả nước 38
Bảng 2.8 Tốc độ tăng trưởng về tổng sản lượng của SMEs 39
trong ngành sản suất 39
Bảng 2.10 Một vài chỉ số tài chính của SMEs trong giai đoạn 2002-2006 44
Bảng 3.6 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của SMEs năm 2006 79
PHỤ LỤC
Bảng 1.1 Tiêu chuẩn xác định SMEs ở Đài Loan qua các thời kỳ 103
Bảng 2.4 Số lượng SMEs phân loại theo ngành nghề 104
Bảng 2.6. Số lượng và tỷ trọng lao động trong các SMEs 105
Bảng 2.7. Số lượng và tỷ lệ lao động làm việc tại 105
các loại hình doanh nghiệp 105
Bảng 2.9. Giá trị gia tăng của các SMEs trong ngành sản xuất 106
Bảng 2.11. Lãi suất cho vay đối với các SMEs trong các năm 1999-2005 106
Bảng 2.12. Phí bảo lãnh của KCGF đối với các SMEs 106
Bảng 3.1. Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh 107
trong các năm từ 2000-2007 107
Bảng 3.2. Chỉ số xếp hạng về trình độ công nghệ của VN 107
Bảng 3.3. Tỷ trọng các SMEs thực hiện nghiên cứu và phát triển (R&D) 108
Bảng 3.4 Chi phí R&D phân theo ngành và theo loại hình doanh nghiệp (%
của tổng doanh thu thuần) 109
Bảng 3.5 Chi phí thực hiện đổi mới công nghệ phân theo ngành và theo loại hình
doanh nghiệp (% của tổng doanh thu thuần) 109
Hình 1.1 Tỷ lệ khởi nghiệp và phá sản của các SMEs Nhật 18
Hình 1.2 Số lượng SMEs trong nền kinh tế Đài Loan 2003-2006 20
Hình 2.1 Số lượng SMEs trong giai đoạn 2001-2006 34
Hình 2.2 Kim ngạch xuất khẩu của SMEs Hàn Quốc 2003-2006 41
Hình 3.1 Độ tuổi của chủ doanh nghiệp (tính theo %) 75
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐKKD Đăng ký kinh doanh
HDI Công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất
IAA Ủy ban tiến bộ công nghiệp
KCGF Quỹ bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc
KOTRA Cơ quan xúc tiến thương mại Hàn Quốc
KOTEC Quỹ Bảo lãnh tín dụng công nghệ
KTA Hiệp hội các nhà kinh doanh Hàn Quốc
KTC Công ty thương mại Hàn Quốc
MTI Bộ Thương mại và công nghiệp Hàn Quốc
NITI Trung tâm kỹ thuật công nghiệp quốc gia Hàn Quốc
PTTH Phổ thông trung học
RITIs Trung tâm kỹ thuật công nghiệp địa phương Hàn Quốc
R&D Nghiên cứu và phát triển
SBA Cục quản lý doanh nghiệp nhỏ Mỹ
SMBA Cục quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa Hàn Quốc
SMEs Doanh nghiệp nhỏ và vừa
SMIPC Liên đoàn thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, có mật độ dân số cao, lực lượng lao
động tăng nhanh, quy mô vốn tích luỹ nhỏ vì vậy phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa (SMEs) ở nước ta là một lựa chọn đúng đắn trên con đường Công nghiệp hóa-
Hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức sâu sắc về vai trò và vị trí của SMEs, thời gian qua, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ toàn diện cho các doanh
nghiệp này như: hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, hỗ trợ về tiếp cận
thị trường, công nghệ, hỗ trợ về nhân lực và quản lý doanh nghiệp Chính nhờ
những chủ trương, chính sách đúng đắn đó, SMEs Việt Nam đã được hoạt động
trong một môi trường khá thuận lợi và bước đầu đạt được những thành quả nhất
định. Tuy nhiên kết quả đó vẫn chưa tương xứng với vị trí và vai trò của SMEs.
Phần lớn các SMEs còn non trẻ, năng lực còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như ngày nay, bên cạnh những cơ hội mới mà tự
do hóa thương mại đem lại, SMEs Việt Nam còn đang gặp không ít những trở ngại
và khó khăn. Tất cả những nhân tố này đòi hỏi chúng ta, cả phía doanh nghiệp và
Nhà nước cần cùng nhau nỗ lực hơn nữa để không ngừng gia tăng số lượng và nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các SMEs.
Là một nước công nghiệp mới, Hàn Quốc tuy không phải là một nền kinh tế lấy
SMEs làm lực lượng “đầu tàu” mà chủ yếu phát triển dựa trên nền công nghiệp đại quy
mô với những tập đoàn kinh tế lớn (chaebols) nhưng không phải vì thế mà khu vực
SMEs ở quốc gia này kém phát triển. Ngược lại, có thể nói quá trình hình thành và phát
triển của SMEs Hàn Quốc đã và đang diễn ra rất thành công. SMEs đang ngày càng
khẳng định được tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế của Đại hàn dân quốc.
Có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn
hóa và xã hội, quá trình hình thành và phát triển SMEs của Hàn Quốc chắc chắn đem
lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với công cuộc phát triển SMEs ở Việt Nam.
2
Xuất phát từ ý nghĩa đó, người viết chọn đề tài “Kinh nghiệm phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Hàn Quốc và bài học rút ra cho Việt Nam” làm đề tài Khóa
luận tốt nghiệp của mình với hi vọng cùng các công trình nghiên cứu chung góp phần
xây dựng các giải pháp hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động của SMEs trong nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận
Trên cơ sở tìm hiểu những cơ sở lý luận về SMEs và về thực trạng phát triển
SMEs của Hàn Quốc, rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam và từ đó đề xuất
một vài giải pháp nhằm phát triển hơn nữa khu vực SMEs của đất nước.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận:
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tình hình phát triển SMEs của Hàn
Quốc, những chính sách mà Chính phủ nước này áp dụng đối với SMEs và thực
trạng phát triển của các SMEs Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: thực trạng phát triển SMEs Hàn Quốc từ giữa thập niên
70 đến nay và sơ lược về thực trạng phát triển SMEs của Việt Nam trong những
năm gần đây.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của khoá luận:
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với duy vật lịch
sử làm cơ sở nghiên cứu, đồng thời áp dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp số liệu tại bàn.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
- Phương pháp diễn giải, quy nạp.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
5. Kết cấu của khoá luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
khoá luận được chia thành 3 chương như sau:
Chương I. Lý luận chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương II. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hàn Quốc
Chương III. Bài học rút ra từ kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa của Hàn Quốc đối với Việt Nam
3
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các cán bộ công tác tại
Trung tâm nghiên cứu Hàn Quốc, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á; Thư viện Quốc gia
Việt Nam; Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương (CIEM); Thư viện
trường đại học Ngoại Thương và đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Văn Hồng, người đã
nhiệt tình chỉ bảo hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn thành bài khóa luận tốt
nghiệp này.
Do những hạn chế về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, bài khoá luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn của các
thầy cô giáo và sự góp ý từ phía bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Quỳnh Trang
A10- K43C- Khoa KT&KDQT
4
CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
I. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA (SMEs)
1. Khái niệm SMEs
Nhiều năm trở lại đây, các cụm từ như “SMEs”, “doanh nghiệp vừa và nhỏ”
hay “doanh nghiệp nhỏ và vừa” đều đã trở nên khá phổ biến và quen thuộc. Đây
chính là những thuật ngữ dùng để chỉ một loại hình doanh nghiệp nhỏ về quy mô
nhưng lại đóng vai trò hết sức quan trọng trong các nền kinh tế.
Việc tìm hiểu khái niệm về loại hình doanh nghiệp này, tự thân nó đã vốn
cần thiết, lại càng trở nên quan trọng hơn do có những điểm không giống nhau về
khái niệm SMEs giữa các nước. Khác nhau cơ bản chính là việc mỗi quốc gia lại có
những tiêu chuẩn xác định, xếp loại và đánh giá quy mô doanh nghiệp riêng.
Tuy nhiên, dù có những khác biệt nhất định, khái niệm về SMEs ở các nước
đều có một nội dung thống nhất như sau:
SMEs là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh
vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính
theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng
thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
2. Tiêu chuẩn về SMEs
Câu hỏi quan trọng cần đặt ra khi nghiên cứu chủ đề này là một câu hỏi về tiêu chuẩn.
Bởi lẽ, chỉ có nắm rõ tiêu chuẩn SMEs của từng nước thì mới hiểu và phân tích được kết
quả hoạt động của các SMEs cũng như theo dõi được tình hình, đánh giá được chất
lượng hoạch định và hiệu quả thực hiện chính sách đối với SMEs của từng quốc gia đó.
2.1 Các tiêu chí xác định SMEs
Nhìn chung trên thế giới, việc xác định một doanh nghiệp là SME chủ yếu căn
cứ vào các tiêu chí như:
- Tổng vốn (hoặc tổng giá trị tài sản)
- Số lượng lao động
- Doanh thu
5
- Lợi nhuận kinh nghiệm phát triển
- Giá trị gia tăng
Đây là các tiêu chí mang tính định lượng, phản ánh quy mô đầu vào và hiệu quả
hoạt động (hay đầu ra) của doanh nghiệp. Mỗi tiêu chí có những ưu điểm và hạn chế riêng.
Tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ và định hướng phát triển cụ thể mà một nước sẽ lựa chọn
một hoặc kết hợp đồng thời hai hay nhiều tiêu chí với nhau để phân loại doanh nghiệp.
Qua nghiên cứu cho thấy, khá nhiều nước coi tiêu chí về số lao động và tổng vốn
(hay tổng giá trị tài sản) là quan trọng hơn cả. Số lao động có thể là số lao động trung
bình hàng năm trong danh sách hoặc số lao động thực tế của doanh nghiệp. Vốn (hoặc tài
sản) có thể chỉ bao gồm số vốn (giá trị tài sản) cố định hoặc cũng có thể bao gồm tổng
vốn (tổng giá trị tài sản) thực tế mà doanh nghiệp đưa vào kinh doanh. Các nước sẽ đưa
ra những giới hạn nhất định cho những tiêu chí này. Rồi theo đó, các doanh nghiệp có
quy mô nằm trong hạn mức đưa ra sẽ được xếp vào khu vực các SMEs.
Như ở Thái Lan, người ta chỉ sử dụng tiêu chí về vốn để phân loại doanh
nghiệp. Những doanh nghiệp sản xuất có số vốn nhỏ hơn 200 triệu Baht sẽ được coi
là SMEs. Trong khi đó, một số quốc gia như EU và Nhật Bản lại kết hợp cả hai tiêu
chí: số lao động và số vốn (Nhật Bản) hay số lao động và doanh thu (EU) để phân
loại. Kết quả là, chỉ những doanh nghiệp thoả mãn đồng thời hai tiêu chí trên mới
được xem là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngoài những tiêu chí mang tính định lượng kể trên, một vài quốc gia còn sử
dụng nhóm tiêu chí mang tính định tính, được xác định dựa trên các đặc trưng cơ
bản của SMEs như trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ
phức tạp của quản lý chưa cao Lấy ví dụ như ở Mỹ, bên cạnh tiêu chí về số lao
động sử dụng thường xuyên, người ta còn quan tâm đến mức độ độc lập trong kinh
doanh của doanh nghiệp đối với các hãng và tập đoàn lớn. Chỉ những doanh nghiệp
độc lập có quy mô nhỏ và vừa mới là SMEs còn những doanh nghiệp có quy mô
nhỏ và vừa nhưng là thành viên của các công ty lớn thì cũng không được xếp vào
khu vực SMEs và như vậy sẽ không được hưởng những chính sách hỗ trợ mà Nhà
nước dành riêng cho loại hình doanh nghiệp này.
Nhóm tiêu chí định tính có ưu điểm là phản ánh đúng bản chất của vấn đề
6
nhưng thường khó xác định trên thực tế. Vì vậy chúng thường chỉ được sử dụng làm
cơ sở để tham khảo, kiểm chứng còn ít được sử dụng để phân loại trên thực tế.
2.2 Những yếu tố tác động đến việc xác định tiêu chuẩn của SMEs
Tiêu chuẩn xác định SMEs là không cố định và chẳng những khác nhau giữa
các nước mà còn thay đổi ngay trong một quốc gia, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
2.2.1 Trước hết đó là sự thay đổi theo ngành nghề
Đa phần các nước có sự phân biệt về tiêu chuẩn SMEs giữa các ngành, nghề, lĩnh
vực, thể hiện ở giới hạn qui mô các tiêu thức về vốn, lao động và doanh thu Tuy nhiên
vẫn có một số nước dùng chung một tiêu chuẩn cho tất cả các ngành. Như ở Mỹ và
Newzealand, SMEs thuộc mọi ngành, nghề đều được xác định dựa trên một tiêu chuẩn
chung về số lao động. Cụ thể là, ở Newzealand, tất cả các doanh nghiệp có từ 1-50 lao
động và ở Mỹ là từ 1-500 lao động đều được coi là SMEs. Trong khi đó, ở Nhật Bản
SMEs trong ngành chế tạo có từ 1-300 lao động và số vốn kinh doanh không vượt quá 300
triệu Yên, còn các SMEs trong ngành thương mại dịch vụ có số lao động ít hơn, không
vượt quá 100 người và số vốn kinh doanh cũng nhỏ hơn, không vượt quá 100 triệu Yên.
2.2.2 Tiêu chuẩn về SMEs phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
từng nước
Thông thường các nước có trình độ phát triển cao sẽ có giới hạn quy mô chỉ
tiêu lớn hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. Điều này có nghĩa là mặc
dù cùng sử dụng tiêu thức phân loại là số lao động, số vốn hoặc doanh thu, nhưng ở
các nước có trình độ phát triển cao, giới hạn cụ thể (bao nhiêu lao động? bao nhiêu
vốn? bao nhiêu doanh thu?) của các tiêu thức này lại thường lớn hơn ở các nước có
trình độ phát triển thấp. Chẳng hạn ở Mỹ, Australia và Canada, SMEs là các doanh
nghiệp có số lao động dưới 500 người. Trong khi đó, ở Philippin và Indonesia, các
SMEs chỉ có không quá 200 nhân công, nếu có số lao động lớn hơn mức này, doanh
nghiệp sẽ được xem là doanh nghiệp lớn.
2.2.3 Tiêu chuẩn xác định SMEs không cố định mà thay đổi theo thời gian, phụ
thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế
Tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ và định hướng phát triển kinh tế của từng
thời kỳ mà các nước sẽ tiến hành xem xét lại, điều chỉnh và đưa ra các tiêu chuẩn về
7
SMEs sao cho phù hợp. Điều này có thể thấy rõ ở Đài Loan, nơi mà trong vòng
chưa đầy 40 năm đã có 8 lần thay đổi quy mô giới hạn và các tiêu thức xác định
SMEs (Bảng 1.1, xem phụ lục).
Như vậy có thể khái quát lại:
- Trong từng nước, từng ngành nghề, từng thời kỳ, tiêu chuẩn về SMEs là rõ
ràng và có tính định lượng.
- Giữa các nước, các ngành nghề và các thời kỳ khác nhau, tiêu chuẩn về
SMEs là tương đối, nghĩa là có một số nét chung nhất định, song bên cạnh đó vẫn
có những nét riêng, khác nhau và có thể thay đổi.
Cũng cần nói thêm rằng, ở hầu hết các nước, người ta hay nói gộp chung
doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp vừa thành doanh nghiệp nhỏ và vừa, vì các
nước thường có những chính sách chung áp dụng cho cả hai loại doanh nghiệp này.
2.3. Tiêu chuẩn xác định SMEs của Hàn Quốc và Việt Nam
2.3.1 Tiêu chuẩn xác định SMEs của Hàn Quốc
Bộ luật cơ bản về SMEs của Hàn Quốc (1966) đưa ra khái niệm chung về
SMEs như sau:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) là một doanh nghiệp sử dụng dưới 300
nhân công hoặc có tổng vốn góp không quá 8 tỉ Won.
Trên cơ sở đó, người ta đưa ra những tiêu chuẩn riêng cho từng ngành, nghề,
lĩnh vực cụ thể. Ví dụ:
- Trong ngành sản xuất công nghiệp, SMEs là những doanh nghiệp có số lao
động dưới 300 người hoặc tổng vốn không quá 8 tỉ Won.
- Trong ngành khai thác, xây dựng và vận tải: con số này là dưới 300 lao động
hoặc tổng vốn không quá 3 tỉ Won.
- Trong ngành ngư nghiệp, y tế và sản xuất phim, SMEs có số nhân công ít
hơn 200 người hoặc doanh thu hàng năm đạt không quá 20 tỉ Won.
- Trong ngành nông, lâm nghiệp: doanh nghiệp có số nhân công dưới 50 người
hoặc doanh thu đạt được dưới 5 tỉ Won sẽ được coi là SMEs.
- Trong ngành dịch vụ các con số tương ứng là:
+ dưới 300 nhân công hoặc có doanh thu dưới 25 tỉ Won đối với ngành viễn
8
thông, xử lý thông tin và truyền hình;
+ dưới 200 nhân công hoặc dưới 20 tỉ Won doanh thu đối với những dịch vụ
liên quan đến khoa học- công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp, bán hàng "door to door"
hay dịch vụ cung cấp ga, nước ,
+ dưới 300 nhân công hoặc dưới 3 tỉ Won doanh thu đối với dịch vụ bán lẻ và
kinh doanh khách sạn.
+ Đối với dịch vụ bán buôn con số này là dưới 100 lao động và doanh thu
không quá 10 tỉ Won (Bảng 1.2)
Bảng 1.2 Tiêu chuẩn xác định SMEs của Hàn Quốc
Lĩnh vực
SMEs
Doanh
nghiệp
nhỏ
Doanh
nghiệp cực
nhỏ
Số lao động
(người)
Số vốn/ Tổng
doanh thu*
Số lao động (người)
Sản xuất
< 300
=< 8 tỷ
< 50
< 10
Khai thác, xây dựng và vận tải
< 300
=< 3 tỷ
< 50
< 10
Ngư nghiệp, dịch vụ y tế,
cung cấp giống cây trồng,
cung cấp ga, điện, nước
< 200
=< 20 tỷ *
< 10
< 10
Nông, lâm nghiệp
< 50
=< 5 tỷ *
-
-
Ngành dịch vụ:
+ Bán lẻ, viễn thông, xử lý
thông tin, truyền hình, kinh
doanh chung cư, khách sạn
< 300
=< 30 tỷ *
< 10
< 5
+ Các dịch vụ liên quan đến
khoa học công nghệ, hỗ trợ
kinh doanh, dịch vụ bán hàng
“door to door”, đại lý du lịch,
đặt hàng qua mail
< 200
=< 20 tỷ *
<10
< 5
+ Bán buôn, dịch vụ môi giới
sản phẩm, cho thuê máy móc,
thiết bị, hoạt động công
chúng, cung cấp thông tin, xử
lý nước thải, dịch vụ vệ sinh
< 100
=< 10 tỷ *
<10
< 5
Các ngành khác
Doanh thu không vượt quá 5 tỷ Won
< 10
< 5
Nguồn: Bộ Kinh tế và tài chính Hàn Quốc; Cơ quan quản lý SMEs Hàn Quốc (SMBA);
Ngân hàng công nghiệp Hàn Quốc (IBK)
9
* Quy định về điều kiện loại trừ:
Bên cạnh việc đưa ra khái niệm SMEs dựa trên các tiêu chí về số lao động,
tổng vốn hay tổng giá trị tài sản, Hàn Quốc còn quy định một cách cụ thể các điều
kiện loại trừ. Theo đó, mặc dù doanh nghiệp có quy mô thỏa mãn một trong các tiêu
chí đưa ra nhưng nếu rơi vào một trong các trường hợp dưới đây thì cũng không
được xem là SMEs:
- Doanh nghiệp có số lao động thường xuyên vượt quá 1000 người.
- Doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản lớn hơn 500 tỷ Won. (Ví dụ như nhiều
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp điện tử không cần nhiều lao động
nhưng lại có tổng giá trị tài sản rất lớn nên không thể xếp vào khu vực các SMEs)
- Doanh nghiệp có trên 30% cổ phần được sở hữu bởi một doanh nghiệp lớn
(doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản lớn hơn 500 tỷ Won). Quy định này nhằm xác
định mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các hãng và các tập đoàn lớn.
1
Tuy nhiên cũng có một số trường hợp ngoại lệ, trong các ngành tập trung
nhiều lao động, SMEs có thể có tới trên dưới 1.000 lao động. Lấy ví dụ:
- Trong ngành sản xuất linh kiện ô tô, linh kiện điện tử: số nhân công có thể
lên tới 1.000 người.
- Trong ngành khai khoáng, may, sản xuất săm lốp, đúc, sản xuất xe đạp, kính
đeo, đồ chơi: tới 700 người.
- Ngành đồ hộp, dệt, nhựa, in, cao su, thuỷ tinh, bóng đèn, đồng hồ đeo tay,
nhạc cụ: số lao động có thể đạt 500 người.
2.3.2 Tiêu chuẩn xác định SMEs của Việt Nam:
Mặc dù khái niệm SMEs đã được biết đến trên thế giới từ những năm đầu của
thế kỷ XX và khu vực SMEs đã được các nước quan tâm phát triển từ những năm
50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên ở Việt Nam khái niệm SMEs mới được biết đến từ
những năm 1990 đến nay.
Trước năm 1998, chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào quy định tiêu
chuẩn cụ thể về SMEs. Do yêu cầu của thực tiễn, nhằm định hướng mục tiêu và đối
tượng hỗ trợ hoạt động của tổ chức mình, một số cơ quan và một số nhà nghiên cứu
1
Bộ Tài chính Hàn Quốc
10
đã tự đưa ra một vài tiêu chí xác định SMEs. Tuy nhiên, vì mục tiêu và đối tượng
của các tổ chức là khác nhau nên các tiêu chí đưa ra là không thống nhất.
- Ngân hàng Công thương Việt Nam đưa ra tiêu chuẩn SMEs là những doanh
nghiệp tồn tại dưới bất kỳ hình thức sở hữu nào, có tổng giá trị tài sản nhỏ hơn 10 tỷ
đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, doanh thu hàng năm không vượt quá 20 tỷ đồng
và số lao động thường xuyên dưới 500 người.
- Liên Bộ Tài chính và Lao động thương binh xã hội lại quy định SME là
doanh nghiệp có vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng, doanh thu hàng năm không quá 10
tỷ đồng và lao động thường xuyên dưới 100 người.
- Tổ chức UNIDO tại Việt Nam quy định cụ thể: doanh nghiệp nhỏ là doanh
nghiệp có ít hơn 50 lao động, tổng vốn và doanh thu dưới 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp
vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 51 đến 200 người, tổng vốn và doanh thu
nằm trong hạn mức từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng.
- Còn theo quỹ phát triển Nông thôn (Ngân hàng Nhà nước), SMEs là những
doanh nghiệp có số lao động không quá 500 người và có số vốn dưới 2 tỷ đồng.
- Quỹ phát triển SMEs (chương trình do SMEDF-VN-EU phối hợp thực hiện)
quy định những doanh nghiệp có từ 10 đến 500 lao động và vốn pháp định từ
50.000 USD đến 300.000 USD sẽ được tài trợ bởi chương trình này.
Ngày 20/6/1998, Chính phủ đã có Công văn số 681/CP-KCN về việc định
hướng chiến lược và chính sách phát triển SMEs, trong đó nêu rõ: "Tạm thời quy
định thống nhất tiêu chí xác định SMEs ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là
những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình
hàng năm không quá 200 người".
Công văn cũng chỉ rõ doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới
50 người (đối với các doanh nghiệp công nghiệp), dưới 30 người (đối với các doanh
nghiệp thương mại- dịch vụ) và có tổng vốn không lớn hơn 1 tỷ đồng, còn các
doanh nghiệp vừa sẽ bao gồm các doanh nghiệp có số lao động từ 31 đến 200 người
và có số vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng.
Ngày 23/11/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ
giúp phát triển SMEs, đây là khung khổ pháp lý đầu tiên về khuyến khích phát triển
11
SMEs ở nước ta. Theo đó, " Doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở sản xuất kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người."
Việc áp dụng một trong hai tiêu chí hoặc cả hai tiêu chí trên là linh hoạt, tuỳ
thuộc vào tình hình kinh tế- xã hội cụ thể của từng ngành, từng địa phương.
Theo Nghị định này, đối tượng được xác định là SMEs bao gồm các doanh
nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp Nhà
nước; các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật Hợp tác xã; các hộ kinh doanh
cá thể đăng ký theo Nghị định số 109/2004/NND-CP về đăng ký kinh doanh.
Như vậy, sau một thời gian dài, định nghĩa về SMEs ở Việt Nam đã được đưa
ra một cách chính thức. Điều này thực sự có ý nghĩa, góp phần không nhỏ vào việc
nâng cao hiệu quả việc ban hành, thực hiện các chính sách hỗ trợ SMEs của các cơ
quan Nhà nước và các tổ chức quốc tế.
2.4.Cách xác định SMEs của một số quốc gia khác trên thế giới:
Như đã phân tích ở trên, tiêu chuẩn xác định SMEs của các quốc gia là không
giống nhau. Nó tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện, trình độ, định hướng và
mục tiêu phát triển của từng nước. Dựa vào đây, mỗi quốc gia sẽ cân nhắc và quyết
định đưa ra những tiêu chuẩn phù hợp nhất cho các SMEs của mình.
2.4.1 Liên minh châu Âu (EU)
Liên minh châu Âu là khu vực phát triển rất mạnh các SMEs (80% số doanh
nghiệp của EU có số lao động dưới 100 người). Tiêu chí xác định SMEs ở EU căn
cứ vào 3 yếu tố chính là: số lao động sử dụng thường xuyên, doanh số và tổng vốn
của doanh nghiệp. Cụ thể, SMEs là doanh nghiệp có số lao động dưới 250 người,
tổng vốn không quá 27 triệu ECU, hoặc doanh số không vượt quá 40.000 ECU/năm.
Ngoài ra doanh nghiệp còn phải thoả mãn một tiêu chuẩn nữa là phải có cổ phần
không quá 25% ở một xí nghiệp lớn.
2
2
OECD (2002), Small and Medium Enterprises Outlook
12
2.4.2 Khu vực ASEAN
Tại các nước ASEAN như Singapore, Malaixia, Indonexia, Thái Lan,
Philipin, khái niệm về SMEs nhìn chung được xác định dựa vào 3 tiêu chí cơ bản là
số lượng lao động sử dụng, tổng vốn đầu tư hoặc tổng doanh thu hàng năm.
- Singapore quan niệm SMEs là những doanh nghiệp có số lượng lao động
dưới 100 người và vốn đầu tư dưới 1,2 triệu USD.
- Với Malaixia, định nghĩa SMEs được đưa ra dựa trên hai tiêu chí về tổng
doanh thu và số lao động chính thức (làm toàn thời gian) (Bảng 1.3)
Bảng 1.3 Định nghĩa SMEs theo tổng doanh thu và số lao động
Lĩnh vực
Loại hình
Sản xuất và các dịch vụ liên
quan đến sản xuất
Dịch vụ
Doanh nghiệp cực
nhỏ
-Tổng doanh thu dưới 250.000
RM hoặc
- Số lao động dưới 5 người
- Tổng doanh thu dưới 200.000
RM hoặc
- Số lao động dưới 5 người
Doanh nghiệp nhỏ
- Tổng doanh thu từ 250.000
đến 10 triệu RM hoặc
- Số lao động từ 5 đến 50 người
- Tổng doanh thu từ 200.000
đến 1 triệu RM hoặc
- Số lao động từ 5 đến 19 người
Doanh nghiệp vừa
- Tổng doanh thu 10 triệu đến
25 triệu RM hoặc
- Số lao động từ 51 đến 150 người
- Tổng doanh thu từ 1 triệu đến
5 triệu RM hoặc
- Số lao động từ 20 đến 50 người
Nguồn: SMIDEC, Malaysia, 2006
- Thái Lan không có định nghĩa chính thức về SMEs. Các cơ quan chính phủ
khác nhau của Thái Lan sử dụng những tiêu chí khác nhau như doanh thu, tài sản cố
định, số lao động và vốn đăng ký để định nghĩa SMEs.
Ngày 22/12/1998, Chính phủ Thái Lan đã thông qua định nghĩa SMEs dựa
trên tiêu chí về giá trị tài sản của doanh nghiệp. Theo đó, trong các ngành sản
xuất và dịch vụ, doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản nhỏ hơn 200 triệu Bath được
coi là doanh nghiệp vừa, dưới 50 triệu Bath là doanh nghiệp nhỏ. Trong bán
buôn, các con số tương ứng là dưới 100 triệu Bath và dưới 50 triệu Bath. Còn
13
trong bán lẻ, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản nhỏ hơn 60
triệu Bath, doanh nghiệp nhỏ là dưới 30 triệu Bath. Tuy nhiên định nghĩa này
vẫn chưa phải là định nghĩa chính thức và chưa được thể chế hoá trong một văn
bản pháp lý có giá trị chung.
Cho đến giữa năm 2000, các cơ quan chính phủ khác nhau vẫn ban hành và sử
dụng những định nghĩa khác nhau về SMEs.
Bảng dưới đây cho thấy, theo quy tắc đưa ra ngày 11/12/2002 của Bộ Công
nghiệp Thái Lan thì SMEs lại được định nghĩa dựa trên các tiêu chí về số lao động
thường xuyên hoặc tổng giá trị tài sản cố định.
Bảng 1.4 Tiêu chuẩn về SMEs của Thái Lan theo số lao động thƣờng xuyên và
tổng giá trị tài sản cố định.
Số lao động thường xuyên
(người)
Tổng giá trị tài sản cố định
(triệu Bath)
Doanh nghiệp
nhỏ
Doanh nghiệp
vừa
Doanh nghiệp
nhỏ
Doanh nghiệp
vừa
Sản xuất
=< 50
51- 200
=< 50
> 50-200
Dịch vụ
=< 50
51- 200
=< 50
> 50-200
Thương mại
- Bán buôn
- Bán lẻ
=< 25
=<15
26- 50
16-30
=<50
=< 30
>50- 100
>30- 60
Nguồn: Hồ sơ SMEs của các nước thành viên APEC, 2006
- Đối với Philipin thì SMEs được phân loại một cách chi tiết hơn thành các
doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ, trong đó doanh
nghiệp siêu nhỏ thường là các hộ gia đình. Cụ thể, trong ngành sản xuất:
Doanh nghiệp lớn: có số vốn trên 60 triệu Peso
Doanh nghiệp vừa: có số vốn từ 15 triệu- 60 triệu Peso
Doanh nghiệp nhỏ: có vốn từ 1,5 triệu đến 15 triệu Peso
2.4.3 Mỹ
Người Mỹ ít khi sử dụng thuật ngữ “doanh nghiệp nhỏ và vừa”
(small and medium enterprises). Thay vào đó, trong hầu hết các văn bản pháp lý
cũng như các tài liệu nghiên cứu, họ thường sử dụng thuật ngữ “kinh doanh nhỏ”
14
(small business). Trên thực tế, các văn bản pháp luật và pháp quy khác nhau của
Quốc hội cũng như của chính quyền Mỹ định nghĩa “kinh doanh nhỏ” theo nhiều
cách khác nhau, trong đó, hai tiêu chuẩn chính là sở hữu tư nhân và tổng số lao
động thấp hơn một giới hạn nào đó.
Luật kinh doanh nhỏ năm 1953 của Mỹ định nghĩa kinh doanh nhỏ là “kinh
doanh thuộc sở hữu độc lập, có hoạt động và không chi phối lĩnh vực mà nó hoạt
động”. Trong đó, thuật ngữ “sở hữu độc lập” ngụ ý rằng kinh doanh đó không thuộc
sở hữu của Nhà nước hoặc của một công ty lớn nào. Điều này khác hẳn với các
SMEs ở Đài Loan và Nhật Bản, các công ty con hoặc các xí nghiệp vệ tinh thuộc
các công ty lớn vẫn được hưởng những đặc quyền của các SMEs.
Cục quản lý kinh doanh nhỏ (SBA) Mỹ có cách xác định SME cụ thể hơn. SBA
định nghĩa kinh doanh nhỏ là một “kinh doanh có ít hơn 500 lao động”. Đây là
định nghĩa được sử dụng rộng rãi nhất và có thể coi là tiêu chuẩn về SME “bán
chính thức” của chính phủ Mỹ.
2.4.4 Australia
Khái niệm SMEs được đưa ra bởi Cục thống kê Australia. Theo đó, doanh
nghiệp nhỏ được định nghĩa là các doanh nghiệp có từ 1 đến 19 lao động. Doanh
nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 20 đến 199 người và doanh nghiệp
lớn là doanh nghiệp có nhiều hơn 200 lao động.
Một định nghĩa khác về SMEs liên quan đến tổng doanh thu và tổng tài sản.
Đó là: SMEs được định nghĩa là các doanh nghiệp có tổng doanh nhu hàng năm
không vượt quá 50 hoặc 100 triệu USD hoặc có tổng giá trị tài sản là dưới 200
triệu đô la Mỹ. Định nghĩa này được một số cơ quan trực thuộc Chính phủ sử
dụng với mục đích làm cơ sở đưa ra và thực hiện các chính sách liên quan đến
SMEs. Ví dụ như chương trình “Sẵn sàng cho thương mại” của Australia đã sử
dụng tiêu thức 50 triệu USD tổng doanh thu làm tiêu chí xác định một doanh
nghiệp là nhỏ và vừa.
15
3. Đặc điểm của SMEs
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, trong suốt quá trình hình thành
và phát triển của mình, SMEs cũng có những đặc điểm riêng với những ưu thế và
hạn chế nhất định.
3.1 Về những ưu thế của SMEs
3.1.1. SMEs khởi sự dễ dàng
Nhìn chung, ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh, chỉ cần một lượng vốn nhỏ,
số lao động không nhiều, diện tích mặt bằng và quy mô nhà xưởng không lớn với
các điều kiện làm việc tương đối đơn giản, các SMEs đã có thể đi vào hoạt động.
Loại hình doanh nghiệp này gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay
trong giai đoạn đầu. Mặt khác, trong khi việc tạo nguồn vốn kinh doanh thường là
một trở ngại không nhỏ đối với các doanh nghiệp lớn thì với SMEs, do có tốc độ
quay vòng vốn nhanh nên có thể dễ dàng huy động vốn từ những nguồn không
chính thức như người thân, bạn bè. Nhờ đó có thể nhanh chóng biến ý tưởng kinh
doanh thành hiện thực.
3.1.2 SMEs có tính linh hoạt cao
Do hoạt động với quy mô nhỏ nên hầu hết các SMEs đều rất năng động và dễ
thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường. Cơ sở vật chất kỹ thuật
không lớn cũng giúp SMEs dễ dàng chuyển đổi sản xuất hay điều chỉnh quy mô của
mình mà không gây hậu quả cho xã hội. Trong một số trường hợp, các SMEs còn
năng động trong việc đón đầu những biến động đột ngột của các thể chế, chính sách
quản lý kinh tế- xã hội, hay các dao động đột biến trên thị trường. Trên góc độ
thương mại, nhờ có tính linh hoạt cao và có ưu thế của sự "gần kề" (proximity) với
các nguồn lực đầu vào và với thị trường tiêu thụ nên các SMEs có nhiều lợi thế hơn
các doanh nghiệp lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên
thay đổi của người tiêu dùng, cho phép tạo ra một lượng cung không nhỏ về hàng
hoá và dịch vụ với chất lượng tốt và giá cả hợp lý. Đặc biệt cũng nhờ tính linh hoạt
này mà các SMEs có thể dễ dàng tìm kiếm những thị trường ngách và gia nhập thị
trường này khi hoạt động kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả. Điều này
16
là đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang phát triển hoặc các nền kinh tế
đang chuyển đổi.
3.1.3 SMEs đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở
Tiềm năng về những nguồn lực đầu vào như lao động, tài nguyên, tư liệu sản
xuất hay vốn tại chỗ của các địa phương là rất phong phú, tuy nhiên, trữ lượng ở
từng địa phương lại thường hạn chế, không đủ để đảm bảo cho quy mô sản xuất của
các doanh nghiệp lớn. Trong khi đó, với lợi thế quy mô nhỏ, các SMEs có thể phân
tán ở hầu hết khắp các địa phương, vùng miền, nhờ vậy, có thể duy trì, khai thác,
tận dụng triệt để và hiệu quả những nguồn lực sẵn có ở địa phương. Và thực tế đã
cho thấy, có rất nhiều SMEs của Việt nam và thế giới đã từng bước trưởng thành và
lớn mạnh chính nhờ lợi thế này.
3.1.4 Ngoài ra, SMEs có lợi thế về sử dụng lao động
Quan hệ lao động trong các SMEs thường có tính thân thiện, gần gũi hơn so
với các doanh nghiệp lớn. Người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động
viên và khuyến khích hơn trong công việc. Nhờ vậy mà mối quan hệ giữa công
nhân và chủ doanh nghiệp cũng gần gũi và mang tính tương trợ cao hơn. Khi doanh
nghiệp gặp khó khăn, cả công nhân và chủ doanh nghiệp đều nỗ lực hết mình, sẵn
sàng làm thêm giờ, thậm chí tự hạ thấp tiền lương để có thể phần nào hỗ trợ cho
doanh nghiệp. Rõ ràng, đây là một mối quan hệ rất đáng quý và phù hợp với văn
hoá của người châu Á nói chung và của người Việt Nam nói riêng.
3.2. Về những hạn chế của SMEs
Bên cạnh những lợi thế được chỉ ra ở trên thì các SMEs cũng có những hạn
chế nhất định như:
3.2.1 Thiếu nguồn lực để thực hiện những ý tưởng kinh doanh lớn
Do khả năng tài chính và nguồn nhân lực hạn chế, nhiều SMEs có những sáng
kiến công nghệ tiên tiến nhưng không đủ sức tiến hành nghiên cứu- triển khai, nên
không thể biến ý tưởng của mình thành công nghệ mới hoặc phải chịu để các doanh
nghiệp lớn mua lại với giá rẻ. Các SMEs cũng thường không có đủ tiềm lực để thực
hiện những dự án lớn về đầu tư, chuyển đổi cơ cấu, tiếp thị hay đào tạo, do vậy
thường gặp khó khăn khi muốn mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh.
17
3.2.2 SMEs không có được các lợi thế của kinh tế quy mô (economy of scale)
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa thường không
đạt được những lợi ích và ưu thế đặc biệt mà chỉ từ một quy mô thích hợp (thường
là đủ lớn) mới có được. Lấy ví dụ như, khi mua nguyên vật liệu và máy móc thiết bị,
do khả năng tài chính hạn hẹp, giá trị các đơn đặt hàng nhỏ nên các SMEs thường
không được hưởng các khoản chiết khấu thanh toán hay chiết khấu thương mại như
đối với các doanh nghiệp lớn. Khi cần nhập khẩu máy móc thiết bị của nước ngoài,
cũng do thiếu thông tin và ngoại tệ, nhiều SMEs không thể đặt hàng một cách trực
tiếp mà phải qua khâu trung gian, chịu thêm một khoản phí không nhỏ. Thậm chí
ngay trong các mối quan hệ với Nhà nước, ngân hàng và giới báo chí, loại hình
doanh nghiệp này cũng thường bị yếu thế hơn.
3.2.3 Hạn chế về trình độ quản lý và tay nghề của người lao động
Các chủ doanh nghiệp thường là những kỹ sư hoặc kỹ thuật viên đứng ra
thành lập và vận hành doanh nghiệp. Họ vừa là người quản lý, vừa trực tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh nên mức độ chuyên môn trong quản lý là
không cao. Phần lớn các chủ SMEs đều không được đào tạo qua một lớp quản lý
chính quy nào, do vậy việc khó khăn trong công tác quản lý tài chính và con người là
không thể tránh khỏi.
Với quy mô nhỏ, kinh phí hạn hẹp, các SMEs thường không đủ khả năng cạnh
tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thu hút những lao động có tay nghề. Người
lao động ít được đào tạo và đào tạo lại, vì vậy trình độ thấp và kỹ năng không cao.
Ngoài ra, sự không ổn định trong công việc, cơ hội thăng tiến thấp cũng là những lý
do làm cho nhiều lao động có kỹ năng không muốn làm việc cho khu vực này.
3.2.4 Các SMEs do rất dễ khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh
Do quy mô nhỏ, các SMEs thường không có mạng lưới phân phối và kinh
doanh rộng khắp như các doanh nghiệp lớn, cũng khó có thể có được những chiến
dịch quảng cáo và tiếp thị rầm rộ nhằm thu hút người tiêu dùng. Việc cạnh tranh trên
thị trường vì thế gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt, do không có nhiều vốn và trường
vốn nên các SMEs thường dễ bị tổn thương khi có biến động lớn trên thị trường. Nếu
không thực sự linh hoạt và nhanh nhạy thì nguy cơ phá sản sẽ là rất cao. Thực tế ở
18
các nước cho thấy trong nền kinh tế, thường xuyên có nhiều SMEs ra đời, đồng thời
cũng có nhiều SMEs bị phá sản.
Hình 1.1 Tỷ lệ khởi nghiệp và phá sản của các SMEs Nhật
3.5
5.9
5.9
4.3
3.6
3.1
2.7
3.5
3.2
4.5
6.1
4
5.6
4
3.8
3.8
0
1
2
3
4
5
6
7
1975- 78 1978-81 1981-86 19986-91 1991-96 1996-99 1999-01 2001-04
%
Tỷ lệ khởi nghiệp
Tỷ lệ phá sản
Nguồn: Hồ sơ về SMEs của các nước thành viên APEC, 2006
Ngoài những hạn chế nêu trên, trong quá trình hoạt động, một vài SMEs vì
ham lợi nhuận, muốn hạ thấp tối đa chi phí sản xuất, kinh doanh nên đã làm nảy
sinh một vài tiêu cực gây ảnh hưởng không tốt tới đời sống kinh tế- xã hội như hiện
tượng làm hàng giả, trốn, lậu thuế, gây ô nhiễm ô nhiễm môi trường
Quá trình hình thành và phát triển của SMEs vì vậy rất cần có sự hướng dẫn,
điều chỉnh và hỗ trợ từ phía Nhà nước và các cơ quan chức năng.
II.VAI TRÒ CỦA SMEs TRONG NỀN KINH TẾ
Không có ngoại lệ, hầu hết tất cả các nước đều đánh giá SMEs có vai trò quan
trọng, thậm chí rất quan trọng đối với nền kinh tế cũng như đối với xã hội. Vai trò
và tác dụng về nhiều mặt của SMEs có thể tổng kết lại như sau:
1. SMEs đóng góp không nhỏ vào tăng trƣởng và phát triển kinh tế
Tại hầu hết các quốc gia, SMEs chiếm ưu thế vượt trội về số lượng (90-99%)
trong tổng số các loại hình doanh nghiệp. Cụ thể, ở Nhật Bản là 99,1%; Singapore:
90%, Thái Lan, Malaysia, Indonesia: 95-98%, các nước Tây Âu: 99% và ở các nước
thành viên của APEC là 98%. Theo số liệu thống kê ngày 15/6/2006 của tổ chức tài