Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.83 KB, 19 trang )

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp là một tổ chức hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế,
nhưng để đưa ra một khái niệm cụ thể về doanh nghiệp thì lại có nhiều quan
điểm khác nhau. Theo DLarue-Acitlat: “doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất và
là một đơn vị phân phối… doanh nghiệp là một hệ thống mở, có mục tiêu và
quản lý theo hướng tạo ra lợi nhuận hùng mạnh, vĩnh cửu...” (Kinh tế nông
nghiệp- NXB Khoa học kỹ thuật 1994). Còn theo Luật Doanh nghiệp hiện hành
của Việt Nam: ‘‘Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản
riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng kí kinh doanh theo qui đinh của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh”
Như vậy doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức hoạt động kinh tế có tư
cách pháp nhân, được thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một lĩnh
vực nhất định với mục đích thu được lợi nhuận hoặc công ích.
Trong nền kinh tế thi trường có rất nhiều doanh nghiệp ta có thể phân
theo một số các tiêu thức:
- Theo qui mô sản xuất hoạt động: doanh nghiệp qui mô lớn, doanh
nghiệp qui mô vừa và nhỏ
- Theo cấp quản lý: doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp điạ phương,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp.
Theo ngành kinh tế kỹ thuật: doanh nghiệp nghành công nghiệp, doanh
nghiệp ngành thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp ngành nông- lâm nghiệp,
doanh nghiệp ngành tài chính, doanh nghiệp ngành phi tài chính.
DNVVN là một trong số các doanh nghiệp được phân loại theo tiêu thức
trên, nó đang tồn tại và phát triển rộng trong nền kinh tế thị trường. DNVVN
cũng mang những đặc điểm chung giống như các loại hình doanh nghiệp khác
nhưng lại có những đặc điểm riêng mà chỉ có ở những doanh nghiệp có qui mô
vừa và nhỏ. Vậy doanh nghiệp thế nào là được coi là DNVVN, tuỳ vào điều kiện
của từng nước khác nhau thì đưa ra các khá niệm khác nhau. Nhưng để căn cứ


chính xác thường phải dựa vào vốn tự có, số người lao động làm việc trong
doanh nghiệp, giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp…Như theo quan điểm
của Mỹ mức lợi nhuận hàng năm dưới 150.000 USD được coi là DNVVN, theo
quan điểm của Thái Lan doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 200
lao động, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có dưới 50 lao động. Còn ở Việt
Nam theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày
23/11/2001 thì DNVVN được hiểu: “DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc
lập, đã đăng ký kinh doanh theo luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo
nghị định này thì DNVVN sẽ bao gồm các doanh nghiệp hoạt động theo luật
doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp,
các hợp tác xã hoạt động theo luật Hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN cũng là một tổ chức kinh tế, ngoài những đặc trưng vốn có của
một doanh nghiệp thì nó cũng mang những đặc trưng riêng xuất phát từ chính
khái niệm của nó.
Một là: Vốn tự có thấp không quá 10 tỷ đồng, chu kỳ kinh doanh ngắn
nên các doanh nghiệp này có thời gian hoàn vốn ngắn hơn nhiều so với các tổ
chức kinh tế có qui mô lớn
Hai là: Những DNVVN sản xuất thường không có tính ổn định trên thị
trường, nên cơ cấu mặt hàng sản phẩm dịch vụ thường xuyên thay đổi và
không lớn về số lượng.
Ba là: Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, các mối quan hệ nội
bộ dễ điều chỉnh, vì thế có tính linh hoạt cao, dễ thích ứng với biến động của
nền kinh tế. Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người
quản lý và người lao động thường rất chặt chẽ.
Bốn là: Ngành nghề hoạt động của DNVVN rất đa dạng và phong phú
nhờ vậy mà việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp ngân
hàng phân tán rủi ro hoặc gây rủi ro nhưng biến động không nhiều đối với
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Năm là: Tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn doanh nghiệp lớn
nên hiệu suất làm việc cao hơn.
Sáu là: Khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này còn thấp do
hạn chế vốn, trình độ công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thị
trường kém. Đây chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho các
DNVVN vay vốn.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị
trường
Trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh
hoạt, nhạy bén thích ứng nhanh với sự biến động trên thị trường và thường
các DNVVN rất dễ đáp ứng được các yêu cầu đó . Vì thế loại hình doanh nghiệp
này ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là ở nước
ta khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng lực lượng lao động dồi dào môi
trường kinh doanh lại đang được Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận
lợi
Một là: DNVVN góp phần thu hút tối đa mọi nguồn lực trong dân, giải
quyết nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế:
Với qui mô tổ chức gọn nhẹ đa rạng nhiều nghành nghề đã thu hút được
nhiều lao động, giải quyết được tình trạng thất nghiệp và tận dụng tốt sự bỏ
ngỏ một số nghành kinh tế mà các doanh nghiệp lớn chưa kinh doanh hoặc
không đủ sức đảm trách vì đó không phải là nghành có tầm quan trọng sống
còn đối với nền kinh tế . Theo thống kê DNVVN thu hút khoảng 64,8% lực
lượng lao động mỗi năm (Thông tin NHCTVN-số 1/2004). Như vậy các DNVVN
đã điều tiết phân giải lực lượng lao động trên các khu vực còn nhiều “khoảng
trống”, góp phần giãn cách điều hoà nhu cầu lao động tạo ra sự phát triển cân
đối cho nền kinh tế. Trình độ của lực lượng lao động ở nước ta còn thấp ,tiềm
năng phát triển của nền kinh tế lại lớn .Vì vậy chỉ có các DNVVN mới có thể
thực hiện tốt điều đó.
Hai là: DNVVN tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tăng thu
nhập cho người lao động và cải thiện đời sống dân cư:

Do có lợi thế là chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được
doanh nghiệp chính điều đó thể hiện tính năng động tính linh hoạt cao, có khả
năng thích ứng với nhu cầu thay đổi thường xuyên của người tiêu dùng nên
DNVVN trong những năm qua phát triển khá nhanh. Sau 4 năm thi hành Luật
doanh nghiệp ở Việt Nam đã có gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng ký với số
vốn hơn 145.000 tỷ đồng. Đến nay cả nước đã có hơn 120.000 doanh nghiệp,
15.000 hợp tác xã, 13.000 trang trại và gần 3.000.000 hộ kinh doanh cá thể,
trên 10.000.000 hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Đây là lực lượng đóng góp to
lớn vào sự phát triển tăng trưởng cuả nền kinh tế tạo ra 25% GDP của cả nước
mỗi năm (thông tin NHCTVN-1/2004). Đời sống của người lao động được cải
thiện, kỹ thuật sản xuất của DNVVN chủ yếu là trong các lĩnh vực thương mại,
dịch vụ, chế biến nông lâm sản... nên có khả năng thu hút nhiều lao động tạo
nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập đảm bảo đời sống cho
người lao động. Trong khi các doanh nghiệp lớn kỹ thuật sản xuất hiện đại,
công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các doanh nghiệp tự động hoá làm cho số
người thât nghiệp ngày càng tăng phát sinh nhiều tiêu cực xã hội
Như vậy DNVVN cũng là một nguồn thu thêm cho ngân sách Nhà nước
bởi số lượng doanh nghiệp ngày càng đông , giá trị kinh tế tạo ra ngày càng
nhiều, giải quyết tốt công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong điều
kiện hiện nay của nước ta do hạn chế về vốn kỹ thuật vì vậy Nhà nước cần phải
có các chính sách thích hợp tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển góp phần
quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ba là: DNVVN đáp ứng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng của xã hội
ngày càng phong phú và đa dạng, và tham gia vào quá trình lưu thông .
DNVVN đáp ứng ngày càng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng cho xã
hội. Bởi có những mặt hàng mà người tiêu dùng có nhu cầu ít, cá biệt song
chất lượng, chủng loại, mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong
trường hợp này doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được nhưng DNVVN do
có qui mô sản xuất nhỏ nên có khả năng điều chỉnh sản phẩm để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Nên hàng năm giá trị

sản xuất của DNVVN luôn chiếm tỉ trọng khoảng hơn 50% tổng giá trị sản xuất
của tổng các doanh nghiệp cả nước.
Trong quá trình tái sản xuất hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu
dùng phải trải qua khâu trung gian, đó là khâu lưu thông do các cửa hàng bán
buôn, bán lẻ đảm nhận. Với lợi thế sẵn có DNVVN đã thực hiện vai trò này rất
tốt vì hệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại dịch vụ vừa và nhỏ đặt ở
khắp các đường phố, các khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư có thể đáp ứng
nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng.
Có thể nói rằng DNVVN ngày càng tham gia tích cực vào các mối quan
hệ kinh tế của xã hội, chiếm tỉ trọng về số lượng, giá trị sản xuất tạo ra ngày
càng nhiều. Từ đó cho thấy sự quan tâm tạo điều kiện từ phía Nhà Nước, ngân
hàng về vốn, hệ thống luật, môi trường kinh doanh là rất cần thiết cho các
DNVVN.
Bốn là: DNVVN có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương và
khai thác thế mạnh tiềm năng của từng vùng:
Xuất phát từ lợi thế qui mô vừa và nhỏ dễ thuận lợi cho việc thành lập ở
mọi nơi nên tuỳ vào từng đặc điểm của từng loại lãnh thổ, thì có các DNVVN
kinh doanh sản xuất các mặt hàng khác nhau để phục vụ người tiêu dùng và
kiếm lợi nhuận cho mình từ các tiềm năng thế mạnh của vùng . Việt Nam có
điều kiện tự nhiên rất đa dạng nên các DNVVN ở từng địa phương sản xuất và
kinh doanh những mặt hàng cũng khác nhau. Chính nhờ đặc điểm này mà
DNVVN đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là
khu vục nông nghiệp, tạo ra sự phát triển cân đối trên toàn quốc theo hướng
công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Sáu là: DNVVN tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế, thúc đẩy
thị trường vốn, thị trường tín dụng phát triển.
DNVVN hoạt động đa rạng trên nhiều lĩnh vực, đã tạo ra sự cạnh tranh
trong nền kinh tế. Phát triển DNVVN tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá dịch vụ
với chất lưọng cao là cơ hội thuận tiện cho người tiêu dùng lựa chọn so
sánh.Như vậy chính điều này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất là

luôn phải nâng cao chất lượng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của khách hàng
làm cho nền kinh tế thị trường trở nên sôi động
Sự xuất hiện của các DNVVN tạo ra một nhóm khách hàng thường xuyên
cho các Ngân hàng, để sản xuất kinh doanh các DNVVN cần phải có vốn trong
khi đó vốn tự có của họ nhỏ bé không đủ đáp ứng vì vậy các DN này cần phải đi
vay mượn trên thị trường thương mại. Nhưng không phải lúc nào các DN bạn
hàng cũng thừa vốn để cho mượn nên các DNVVN sẽ đi vay ngân hàng. Hiện
nay các DNVVN không chỉ vay vốn qua ngân hàng mà còn thanh toán qua ngân
hàng, điều đó có nghĩa ngân hàng vừa là người cho vay vừa là trung gian
thanh toán phục vụ cho các nhà kinh doanh. Với tốc độ phát triển nhanh chóng
cả về qui mô, về chất lượng các DNVVN đã tạo ra một nhu cầu lớn với Ngân
hàng đó là nhu cầu về vốn, nhu cầu về thanh toán dịch vụ qua Ngân hàng. Có
thể nói loại hình doanh nghiệp này là thị trường đầy triển vọng của ngân
hàng .
DNVVN ngày càng đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Dù không
phải là chủ đạo nhưng tiện ích của DNVVN thì lại rất lớn, không chỉ làm tăng
thu nhập cho nền kinh tế quốc dân, giải quyết việc làm cho người lao động mà
còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Hiện nay, các DNVVN ở
Việt Nam chưa thực sự phát triển theo đúng tiềm năng vốn có. Bởi nền kinh tế
nước ta còn đang ở trong gia đoạn thấp, nhất là gia đoạn chuyển đổi kinh tế
hàng hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước.
Các DNVVN còn bộc lộ nhiều yếu kém trong quá trình hoạt động, do đó rất cần
được quan tâm hỗ trợ từ các phía.
1.1.4 Điều kiện để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nền kinh tế thị trường.
Phát triển có nghĩa là sự vật thay đổi theo chiều hướng tốt lên. Doanh
nhgiệp phát triển có nghĩa là doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, sản xuất ra
nhiều sản phẩm có chất lượng tốt hơn phục vụ có ích cho xã hội. Từ đó tăng
thu nhập cho người lao động, tăng tích luỹ để mở rộng sản xuất, muốn cho nền
kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì quốc gia đó phải quan tâm tới mọi

loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt là loại hình DNVVN vì số lượng của nó ngày
càng chiếm đại đa số trong nền kinh tế, để các DNVVN phát triển cần phải tạo
các điều kiện nhất định như
* Điều kiện về vốn tài chính
Vốn là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp khi sản xuất kinh
doanh. Điều kiện về vốn là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển các doanh
nghiệp nói chung và nhất là DNVVN. Hiện nay các DNVVN rất hạn hẹp về vốn,
nguyên nhân là do qui mô hoạt động của doanh nghiệp nhỏ không đủ sức tài
trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và khả năng tiếp cận
nguồn vốn của Ngân hàng lại hạn chế vì không đủ tài sản thế chấp, mức lãi
suất cho vay quá cao so với mức lợi nhuận thu được, thời gian cho vay ngắn...
Đây là khó khăn rất lớn với cả doanh nghiệp và Ngân hàng, nếu vấn đề này
được giải quyết thì đây chính là tiền đề để doanh nghiệp phát triển.
* Điều kiện thị trường
Thị trường là nơi doanh nghiệp tồn tại và thực hiện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, cũng qua thị trường doanh nghiệp biết sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Thị trường được hiểu bao gồm cả thị
trường yếu tố đầu vào và thị trường đầu ra của sản phẩm. Với đặc điểm và ưu
thế của mình, các DNVVN nên tập trung vào những thị trường nhỏ đầu tư vào
những sản phẩm hàng hoá có giá bán thấp phù hợp với yêu cầu của từng địa
phương. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh và phát triển không ngừng, các
DNVVN cũng cần phải quan tâm đến thị trường các địa phương khác và vươn
ra thị trường quốc tế, hướng vào những sản phẩm có chất lượng và có giá trị
kinh tế cao. Hiện nay, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự khai thác một cách
tối đa thị trường trong tầm tay để từ đó phát triển ra thị trường rộng hơn,
chính điều này cũng ảnh hưởng không ít tới sự phát triển của doanh nghiệp.
* Điều kiện về cơ sở vật chất.

×